Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng triết học của trường phái trúc lâm yên tử và vận dụng một số tư tưởng đ...

Tài liệu Tư tưởng triết học của trường phái trúc lâm yên tử và vận dụng một số tư tưởng đó vào việc xây dựng nhân cách con người việt nam hiện nay

.PDF
102
113
98

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN TRUNG KIÊN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ VÀ VẬN DỤNG MỘT SỐ TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO VIỆC XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN TRUNG KIÊN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ VÀ VẬN DỤNG MỘT SỐ TƯ TƯỞNG ĐÓ VÀO VIỆC XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60 22 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN LỰC HÀ NỘI - 2011 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Văn Lực. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2011. Tác giả Nguyễn Trung Kiên MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 Chương 1. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG CHO SỰ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ ............................................................................................................. 6 1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội thời Trần cho sự ra đời tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử .................................................................. 6 1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ............................................................................................. 9 1.2.1. Một vài nét về tiền đề của thiền phái .................................................. 9 1.2.2. Tư tưởng triết học Trần Thái Tông ................................................... 12 1.2.3. Tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng Sĩ ................................... 33 Chương 2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ VÀ VAI TRÒ CỦA NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC ĐÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI THỜI TRẦN ..................................................................................... 42 2.1. Tam tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ................................................... 42 2.1.1. Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Trần Nhân Tông (1258-1308) ............................................................................................ 42 2.1.2. Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử: Pháp Loa đại sư (1284- 1330) ........................................................................................... 43 2.1.3. Huyền Quang tôn giả đệ tam tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (1254- 1334) ........................................................................................... 44 2.2. Vai trò của những tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ........... 45 Chương 3. VẬN DỤNG NHỮNG GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ VÀO XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................... 59 3.1. Những giá trị tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử ................. 59 3.1.1. Giá trị tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đối với xã hội thời Trần .......................................................................................... 59 3.1.2. Ý nghĩa tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đối với xã hội Việt Nam hiện nay ................................................................... 62 3.2. Phương pháp và nội dung vận dụng một số giá trị tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay ....................................................................... 71 3.2.1. Nắm vững nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về kế thừa những di sản văn hóa của dân tộc ..................................... 71 3.2.2. Vận dụng một số giá trị tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay ... 81 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 94 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Phật giáo là một tôn giáo lớn, đồng thời những giáo lí của Phật giáo cũng mang đậm tính triết lí sâu sắc, trong đó có những giáo lí đã đạt đến tầm triết học. Ở Việt Nam, Phật giáo là một tôn giáo gắn bó với dân tộc và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân. Từ trước đến nay triều đại Lý và Trần là hai thời kỳ mà Phật giáo nước ta phát triển rực rỡ nhất. Ở thời Lý, Phật giáo giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần với hơn nửa dân số vào chùa. Câu tục ngữ: “Đất vua, chùa làng, phong cảnh bụt” phản ánh trong ý thức dân gian vai trò của Phật giáo trong giai đoạn lịch sử này. Thời kỳ này, nhiều vị vua triều Lý đã cắt tóc đi tu như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông… Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội, để lại những dấu ấn trong hầu hết các lĩnh vực văn hoá. Đến triều Trần, Phật giáo vẫn được đề cao và phát triển. Phật giáo được coi là những “thánh đăng” của vườn thiên như: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Thánh Tông… Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mà vị sư tổ là Trần Nhân Tông là một minh chứng điển hình cho thiền học thời Trần nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung. Với quan điểm từ bi bác ái, tinh thần rộng mở, phóng khoáng và khả năng dung hợp nhiều tư tưởng khác nên đã tỏ ra có khả năng ưu việt và được truyền bá rộng rãi. Như vậy, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam trong suốt 14 thế kỷ đầu tiên chủ yếu là lịch sử tư tưởng triết học Phật giáo. Bởi vậy, nghiên cứu triết học Phật giáo, chúng ta sẽ hiểu được tư tưởng triết học Việt Nam cổ, trung đại. Tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là một trong những tư tưởng triết học tiêu biểu của thời kì này. Bởi đây là thiền phái có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ - một cái mốc quan trọng trong lịch sử tư tưởng nước ta. Có thể khẳng định rằng, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử có ngay từ thời kỳ đầu nhà Trần, mà ba vị tổ, một thánh, hai hiền đã kế thừa và phát huy thành một hệ thống tương đối chặt chẽ. Chính vì vậy, nghiên cứu tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cũng phần nào cho ta biết khuynh hướng tư tưởng của dân tộc từ những ngày đầu dựng nước cho đến thế kỷ 13. Mặt khác, tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề tư tưởng triết học Việt Nam. Nghiên cứu tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử còn giúp chúng ta trở về với cội nguồn dân tộc, tìm tòi, gạn lọc và phát huy những giá trị tích cực trong kho tàng tư tưởng cha ông, không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực học thuật, mà còn đóng vai trò lớn trong việc xây dựng một nền văn hoá. Thế nhưng, cũng giống như bất cứ tôn giáo khác, sự ra đời của Phật giáo là nhằm thực hiện chức năng đền bù hư ảo nhu cầu hạnh phúc của quần chúng nhân dân. Thông qua đó, các Phật tử “chính tinh tiến, chính định, chính niệm” để khắc phục sự “vô minh” nhằm đạt đến sự giải thoát. Tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không chỉ là một trào lưu tư tưởng mà còn là một quan niệm xử thế nhân sinh, không thuần tuý là những chân tu mà thực sự là những chí nhân quân tử. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và vận dụng một số tư tưởng đó vào việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay” để làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tôn giáo của các giáo sư Trịnh Quốc Tuấn (Tôn giáo ở Việt Nam hiện nay: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cần thiết), Đặng Nghiêm Vạn (Đặc điểm tình hình tôn giáo Việt 2 Nam), về Phật giáo của Nguyễn Tài Thư (Triết học Phật giáo), Nguyễn Duy Hinh (Phật giáo với văn hoá Việt Nam). Các công trình nghiên cứu khoa học đó đã nghiên cứu Phật giáo trong tương quan với các tôn giáo nói chung hoặc đã đi vào từng lĩnh vực cụ thể trong Phật giáo nói riêng. Về Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, cho đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu ở những khía cạnh lịch sử, văn học, tư tưởng… như: Tam tổ hành trạng, bản dịch của Á Nam Trần Tuấn Khải - 1971; lịch sử Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Tài Thư (chủ biên)… Nhưng các tác phẩm đó khai thác một khía cạnh nào đó trong dòng thiền phái này và chưa làm rõ hết những tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. “Thanh tổ hành trạng” của Á Nam Trần Tuấn Khải mới chỉ nêu lên “hành trạng” của ba vị tổ trong việc truyền bá tư tưởng chứ chưa rõ tư tưởng triết học của từng vị. Cũng như vậy, “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Tài Thư đã phân tích tư tưởng Phật giáo của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, khi nói đến vị tổ thứ hai của thiền phái là Pháp Loa, tác giả chỉ đề cập đến sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với ông mà chưa làm rõ tư tưởng triết học của ông… Bởi vậy, để góp phần vào việc nghiên cứu Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nhìn từ góc độ triết học, luận văn góp phần tìm hiểu đặc điểm tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và ảnh hưởng của tư tưởng triết học của thiền phái này đến sự hình thành nhân cách con người hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích: Nghiên cứu tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử để thấy được ý nghĩa của tư tưởng triết học đó đối với quá trình phát triển lịch sử tư tưởng Việt Nam đồng thời vận dụng một số tư tưởng triết học của Thiền phái vào việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay. 3 3.2. Nhiệm vụ: - Làm rõ điều kiện hình thành tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. - Phân tích một số nội dung và ý nghĩa của tư tưởng triết học Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và vai trò của nó đối với xã hội thời Trần. - Luận chứng để vận dụng những tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn: tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: - Xã hội Việt Nam thời Trần. - Xã hội Việt Nam hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo, đồng thời chúng tôi kế thừa những công trình nghiên cứu của những người đi trước có nội dung liên quan. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp biện chứng duy vật mà chủ yếu là phương pháp phân tích tổng hợp, lịch sử - logic, phương pháp so sánh đối chiếu. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. 4 Phân tích ảnh hưởng của tư tưởng triết học đến sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương, 6 tiết. Chương 1: Bối cảnh kinh tế - xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Chương 2: Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Chương 3: Vận dụng những giá trị tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay. 5 Chương 1 BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG CHO SỰ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM YÊN TỬ 1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội thời Trần cho sự ra đời tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, suy đến cùng, một hệ thống triết học, tư tưởng của một triết gia… đều là sự phản ánh tình hình kinh tế - xã hội nhất định. Tư tưởng triết học thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cũng vậy. Sự suy vong của vương triều Lý không phải hệ quả của quá trình vận động kinh tế - xã hội. Bởi vì hai triều đại Lý và Trần cùng có một cơ sở về kinh tế. Giữa hai thời đại này chỉ có sự chuyển biến về lượng chứ trong cơ sở kinh tế chưa xảy ra hiện tượng biến chất. Đặc điểm trong sự phát triển kinh tế của hai triều đại Lý, Trần là sự phát triển của kinh tế thái ấp. Nhà Lý suy vong là do sự bóc lột nặng nề của nhà nước và quý tộc phong kiến. Đời sống nhân dân ta dưới thời nhà Lý rất cực khổ, nhiều người dân đã phải bỏ quê hương đi tha hương cầu thực. Nạn đói cộng thêm thiên tai hạn hán, lũ lụt khiến cho nông dân nổi dậy chống lại chế độ phong kiến. Đã có một số cuộc khởi nghĩa của nông dân nổi dậy. Tiêu biểu như: Lê Vãn (1180- 1182), Thân Lợi (1140), Phí Lang (1202- 1215). Nhân chính quyền Trung ương suy yếu, các thế lực địa phương cũng đã nổi dậy gây nên cục diện cát cứ và nội chiến trong mười mấy năm trời. Giữa các thế lực có ảnh hưởng nhất khi đó là: họ Đoàn ở Hồng Châu, Phạm Du đồng minh của họ Đoàn, họ Trần ở Tức Mặc - Nam Định, Nguyễn Tự ở Quốc Oai, Nguyễn Nộn ở Bắc Giang, họ Phạm ở Nam Sách - Hải Dương… Yêu cầu của lịch sử bấy giờ là củng cố, chấn chỉnh lại nhà nước trung ương tập quyền, khôi phục thống nhất để đảm bảo cho sự phát triển của sức sản xuất. Trong quá trình đấu tranh giữa các nhóm phong kiến, họ Trần đã phát triển 6 được thế lực, thu hút chính quyền trung ương còn thoi thóp của nhà Lý về tay mình, đàn áp các thế lực cát cứ khác mà thống nhất được quốc gia. Sau đó anh em họ Trần đã truất ngôi chủ tể của họ Lý mà giành lấy ngôi vua. Người có công to lớn trong việc lập họ Trần lên ngôi vua là Trần Thủ Độ - chú ruột của Trần Cảnh (vua Trần Thái Tông). Ông Vua cuối cùng của nhà Lý là Lý Huệ Tông, vì không có con trai nên buộc phải nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Theo kế hoạch của Trần Thủ Độ, mà “Trong buồng khuê có nhiều điều hổ thẹn”, thì năm 1225 Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng mình là Trần Cảnh, Trần Cảnh lên ngôi vua lập ra triều Trần. Khát vọng của nhân dân là hoà bình, yên ổn làm ăn. Nhà Trần khôi phục được chính quyền thống nhất, thanh toán được tình trạng cát cứ địa phương, kết thúc cuộc nội chiến phong kiến, về khách quan, đã đáp ứng được đòi hỏi của nhân dân. Vì vậy, nền kinh tế được nhà Trần khôi phục và phát triển. Kinh tế thời Trần là sự phát triển của nền kinh tế thái ấp. Một số vương hầu được vua cấp cho thái ấp và đều ở phủ đệ riêng ở các địa phương. Đây là thời kỳ mà điền trang và thái ấp rất phát triển. Chính sự phát triển của điền trang, thái ấp ấy đã kéo theo sự phát triển về chế độ nô tỳ. Nhưng có một số nô tỳ được tổ chức thành trang hộ để cày cấy, từ thân phận nô lệ, họ chuyển sang thân phận nông nô. Việc giải phóng nô tỳ thành nông nô là một biện pháp thúc đẩy việc sản xuất phát triển và mở rộng điền trang. Điền trang, thái ấp phát triển cũng không có nghĩa là toàn bộ ruộng đất trong nước đều là điền trang, thái ấp. Đại bộ phận ruộng đất vẫn là công điền, tức là ruộng công của các làng xã, nông dân làng xã chia ruộng công, canh tác và đóng tô cho nhà nước. Ở thời kỳ này nông dân cày ruộng và nhà nước có quan hệ thần thuộc. Chính quyền trung ương đã tổ chức khai khẩn đất hoang để mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp. Đất đai vùng bị nước mặn cũng được khai thác. Việc mở rộng diện tích canh tác đã làm cho thu hoạch nông 7 nghiệp tăng lên. Để đảm bảo lực lượng sản xuất nông nghiệp, binh lính sau một thời gian tại ngũ, được trở về làm ruộng lúc nào cần lại gọi ra. Việc khai khẩn đất hoang được đặc biệt chú trọng. Cho nên ở mỗi lộ được đặt hai viên đồn điền chánh sứ và phó chánh sứ, có nhiệm vụ đôn đốc việc khai khẩn đồn điền của quân dân. Việc đắp đê ngay từ đầu thời Trần cũng đã được chú trọng. Một mặt phòng ngừa thuỷ tai, mặt khác để khai thác được hết mối lợi của đất đai, Vua coi việc tu sửa đê điều cũng là việc chính sự. Bởi vậy mà đời sống của nhân dân tương đối được đảm bảo, người nông dân được yên ổn làm ăn. Sở dĩ nói tương đối là vì chúng ta biết rằng tình trạng kỹ thuật canh tác dưới thời phong kiến vẫn còn thấp kém, cho nên không thể nào tránh khỏi những mặt hạn chế. Do điều kiện tự nhiên cũng như do sức lao động của nhân dân và chính sách bảo vệ sản xuất nông nghiệp, vùng châu thổ các Sông Hồng, sông Mã… đã trở thành vùng sản xuất nhiều lúa. Trần Phu, một sứ giả nhà Nguyên sang ta vào năm 1293 sau này có làm một bài thơ dài “An nam tức sự”, trong lời chú có chép rằng “Lúa mỗi năm chín bốn lần, tuy vào giữa mùa đông mà mạ vẫn mườn mượt”. Nền kinh tế nông nghiệp phát triển đã đi sâu vào những áng văn thơ thời bấy giờ. Nguyễn Bá Thông đã ca ngợi cái giàu có của đất nước trong bài phú “Thiên hưng trấn” với những nguồn nước tạo điều kiện cho thuỷ lợi và rất nhiều những loại gỗ quý cùng với vàng bạc châu ngọc… Bên cạnh sự phát triển về nông nghiệp thì công thương nghiệp cũng có phát triển. Thủ công nghiệp ở nông thôn tuy gắn liền với nông nghiệp, nhưng cũng đã có những làng chuyên môn sản xuất một thứ sản phẩm thủ công nghiệp nhất định. Những công nghiệp phụ thuộc công trình kiến trúc như làm gạch ngói, làm đá, điêu khắc, sơn then… cũng phát triển. Các thứ công nghiệp này đã đạt đến một trình độ khá cao. 8 Việc đào thêm kênh và sông có tác dụng về mặt thuỷ lợi cũng như giao thông, mở rộng thêm thị trường buôn bán trong nước. Nhu cầu buôc bán bên ngoài cũng phát triển, nhất là đường thuỷ, có rất nhiều thuyền buôn đến nước ta, nhiều nhất là người Trung Quốc. Tóm lại, sau khi thống nhất đất nước, thu về một mối. Nền kinh tế thời kỳ nhà Trần lại từng bước phát triển cho nhân dân một đời sống mới. Sở dĩ nói rõ sự phát triển nền kinh tế của thời kỳ này để thấy được vai trò tích cực của nó đối với sự ra đời một tư tưởng triết học. Cụ thể ở đây là sự ra đời tư tưởng triết học cho sự hình thành nên tư tưởng triết học thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mà Trần Nhân Tông - đệ nhất tổ - sáng lập ra. 1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử 1.2.1. Một vài nét về tiền đề của thiền phái Theo những tài liệu hiện có, Phật giáo du nhập vào nước ta từ thế kỷ thứ hai. Ngay từ khi có mặt ở Việt Nam, Phật giáo đã mang trong mình những mầm mống hình thành nên những khuynh hướng sau này. Khuynh hướng thiền của Khương Tăng Hội khởi nguyên cho Thiền học Việt Nam. “Bát Nhã thiên tụng Bát Nhã” (Astasahaszika) là bộ Bát Nhã xuất hiện sớm nhất trong văn hệ Bát Nhã kể từ thời đại chúng bộ mà Khương Tăng Hội đã dịch. Sau đó khuynh hướng thiền học của Khương Tăng Hội được Chi Cương Lương tiếp tục duy trì. Vào những năm 255- 256, ở Giao Châu, Chi Cương Lương đã dịch kinh pháp Hoa Tam muội (Saddharmasamadhi). Cùng với sự xuất hiện của kinh pháp hoa tín ngưỡng thờ cúng Quan thế Bồ tát (Avalokitesvaza) cũng được phổ biến. Đến thế kỷ thứ V, khuynh hướng này đã được Đạt Ma Đề Bà (Dharmadeva) và Thích Huệ Thắng phát triển. Từ năm 580, có thiền sư người Ấn Độ là Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinataruci) qua truyền giáo, lập ra thiền phái thứ nhất ở Việt Nam. Đặc biệt của dòng thiền phái này là sự kết hợp giữa thiền và mật. Ông tổ của dòng thiền Tỳ-ni9 đa-lưu-chi này được một tăng sĩ người Trung Hoa là Tăng-xán-tổ thứ ba của thiền tôn Trung Hoa truyền tâm ấn cho. Tỳ-ni-đa-lưu-chi cho rằng, thiền giả phải có tinh thần không chấp trước, tinh thần vô trú. Nghĩa là không chấp có, cũng không chấp không, không trú ở có mà cũng không trú ở không, không gán ghép cho các pháp (các sự vật và hiện tượng) một thuộc tính nào hết và tất nhiên là không chấp trước vào bất cứ một thuộc tính nào, bởi nó chỉ là sản phẩm của tự biện. Cảnh giới của thiền định siêu việt ngôn ngữ văn tự và tư duy khái niệm, do đó thường được nói lên bằng những câu phủ định. Tuy dòng thiền này đến từ phía bắc nhưng lại do một tăng sĩ Ấn Độ truyền vào, do đó nó cũng mang nhiều sắc thái của thiền Ấn Độ. Như vậy là từ những thế kỷ đầu cho đến thế kỷ IX Phật giáo Việt Nam chủ yếu mang đậm màu sắc của Phật giáo Ấn Độ. Giai đoạn này hầu như trùng với giai đoạn bắc thuộc. Điều này nói lên rằng, ngay từ buổi dựng nước và giữ nước ông cha ta vô tình hay hữu ý đã biết né tránh sự đồng hoá về mặt văn hoá của hán tộc bằng cách đề cao một nền văn hoá khác lớn hơn hoặc ít nhất cũng không kém gì văn hoá Trung Hoa. Qua sự đối trọng này mà văn hoá bản địa vẫn được duy trì, giữ vững và tiếp tục đi theo con đường của nó. Văn hoá Việt Nam đã tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hoá nhân bản khác qua những cuộc đụng độ tiếp xúc giữa các hệ tư tưởng, các nền văn hoá để làm phong phú thêm cho nền văn hoá bản địa của mình. Như vậy ta hiểu và lý giải được rằng tại sao bị đô hộ hàng nghìn năm mà văn hoá Việt Nam không bị đồng hoá. Tại sao những tác phẩm đầu tiên ở Giao Châu còn lại cho đến nay, như “lý hoặc luận” của Mâu Bác, những tác phẩm của Khương Tăng Hội được viết bằng chữ Hán mang nội dung đề cao văn hoá Ấn Độ. Năm 820, hai trăm bốn mươi năm sau thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi có thiền sư pháp hiệu là Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc sang Việt Nam và lập ra phái thiền thứ hai tại Việt Nam. Nếu như thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi mang 10 đậm màu sắc Phật giáo Ấn Độ thì thiền phái Vô Ngôn Thông lại là dòng thiền của Phật giáo Trung Quốc mang nét đặc trưng là kết hợp giữa thiền với đạo, thiền Vô Ngôn Thông cho rằng chân lý không phải ở đâu xa, mà có ở trong mỗi bản thân của con người, nhưng chân lý đó chỉ có tu chứng trực tiếp chứ không thể nào nắm bắt được quan ngôn ngữ. Từ khi du nhập cho đến lúc xuất hiện dòng thiện Vô Ngôn Thông thì Phật Giáo Việt Nam đã trải qua khoảng 600 năm. Nhưng không có sự kỳ thị nào tôn giáo ngoại lai. Đến cuối thời kỳ Bắc thuộc thì Phật giáo đã là một hiện tượng ý thức xã hội phổ biến. Nhưng với các triều đại trước Lý như Ngô (939- 965) tiền Lê (980- 1009) tồn tại không lâu. Đến thời kỳ nhà Lý (10091255) tồn tại tương đối lâu với sự độc lập về kinh tế, chính trị, văn hoá. Những tiền đề đó cần phải có một hệ tư tưởng độc lập cho nhà nước Đại Việt lúc đó. Mà hai thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Ngôn Thông lại không đáp ứng được yêu cầu đó, bởi vì một thì ngả về Ấn Độ, một lại ngả về Trung Quốc. Đứng trước tình hình này Lý Thánh Tông (1054- 1068) đã sáng lập ra một thiền phái mới, thiền phái Thảo Đường. Khi nghiên cứu về phái này ta thấy có sự kết hợp về Thiền, Tịnh và Nho. Nhưng ở đây có một vấn đề là: tại sao triều Lý có ba thiền phái cùng tồn tại mà đến thời kỳ nhà Trần cả ba thiền phái đó cùng biến mất? Sự xuất hiện của Thảo Đường như trên đã nói còn thiền phái Tỳ-ni-đalưu-chi và Ngôn Thông? Từ thế kỷ VI-IX Việt Nam nằm dưới ách đô hộ nhà Đường (618-907), thời nhà Đường là sự phát triển rực rỡ của văn hoá Trung Quốc, bởi vậy mà nó không thể không ảnh hưởng đến nước ta, đồng thời thế kỷ IX diễn ra cuộc tranh giành ảnh hưởng của văn hoá Trung - Ấn. Nhưng đến nhà Trần cả ba thiền phái đều biến mất, mà thời Lý cũng là một trong những thời kim hoàng, dân chúng quá nửa là sư sãi ủng hộ. 11 Nhà Trần giành được chính quyền từ nhà Lý một cách êm đẹp, bởi vậy muốn lấy lòng dân, muốn cho văn hoá được phát triển không bị đứt đoạn, nhà Trần vẫn phải đề cao Phật giáo. Triết học của Trần Thánh Tông ra đời đã đáp ứng được tình trạng xã hội lúc bấy giờ. Tư tưởng triết học của ông là một học thuyết tổng hợp cả thiền, tịnh, lão, nho… của những trường phái trước đó. Trong triết học của ông, nó có cả niệm Phật luận, có cả quan hệ giữa tam giáo. Những yếu tố kinh tế cũng là bà đỡ cho sự kế thừa những yếu tố tư tưởng để Trần Nhân Tông sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử một cách vững chắc, trên nền tảng tinh hoa tư tưởng triết học thời kỳ đầu nhà Trần mà cụ thể là Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ - hai vị đã có công trong việc truyền bá tư tưởng triết học vào việc thành lập ra thiền phái này. Nay ta lần lượt tìm hiểu tư tưởng triết học của từng vị. 1.2.2. Tư tưởng triết học Trần Thái Tông Trần Thái Tông (1218- 1277) là ông vua đầu tiên của triều đại nhà Trần. Ông tên thật là Trần Cảnh, con thứ của Thái Tổ (Trần Thừa), lên ngôi vua lúc tuổi còn nhỏ (1225). Năm 16 tuổi, cha mẹ lần lượt ra đi. Với hai cái tang cha mẹ liên tiếp như thế khiến cho tâm hồn Trần Thái Tông dao động. Vả lại cơ nghiệp nhà Trần hầu như do Trần Thủ Độ nắm giữ, cái gì cũng dám miễn sao là làm được việc, vì thế mới có việc phế Chiêu Thánh Hoàng Hậu công chúa, lập Hoàng Vương Trần Liễu và Lý Thị làm hoàng hậu, bởi lúc bấy giờ Chiêu Thánh chưa có con mà Lý thị đã có mang được ba tháng. Vì vậy mới có chuyện Trần Liễu nổi loạn. Trước tình thế ấy, Trần Thái Tông cảm thấy áy náy, cô liêu, trong lòng vừa đau đớn vừa lo sợ phân vân. Chính cái cảm xúc ấy mới là thực nghiệm, mới là cái tia trực giác hoán cải con người, quyết định sáng tạo cho cả một hệ thống tư tưởng của tác giả. 12 Vua Trần Thái Tông là bậc anh hùng văn võ toàn tài, không những đã có công khai sơn phá thạch cho cả một triều đại anh hùng bậc nhất của lịch sử dân tộc mà ông còn mở đường cho cả một dòng tư tưởng thiền học riêng biệt Việt Nam phản chiếu cả một giai đoạn lịch sử dân tộc. Nhất là tư tưởng triết học của ông. Triều đại nhà Trần đã chinh phục và thống nhất được những lực lượng cát cứ cuối triều Lý, do đó nhà Trần cũng muốn thu về một mối những lực lượng cát cứ trong tư tưởng. Bởi vậy triết học Trần Thái Tông ra đời là sự tổng hợp những tư tưởng của các thiền phái trước đó; kế thừa, phát triển thành một hệ thống tư tưởng triết học riêng biệt mà vẫn giữ được bản sắc của dân tộc. Tuy tiếp nối những tư tưởng của các thiền phái khác, nhưng tư tưởng triết học Trần Thánh Tông được mở đầu và xây dựng thành một hệ thống triết học thống nhất, hoàn toàn Việt Nam, dứt bỏ các truyền thống thừa cũ có từ bên ngoài. Có thể nói đó là một biểu hiện của sự phát triển ý thức dân tộc. Về Phật học Trần Thánh Tông có những tác phẩm sau: 1. Thiền Tông chỉ nam; 2. Lục Thời Sám Hối Khoá Nghi; 3. Kim Cương Tam Muội Kinh chú giải; 4. Bình Đẳng Lễ Sám Văn; 5. Khoá hư Lục. Có những tác phẩm trên đây không còn, nhưng một số bài vẫn còn và được giữ lại trong tập Khoá hư lục. Trong Phật giáo nói chung và thiền tông nói riêng, “Tâm” là một khái niệm quan trọng nhất. Bởi vậy, chúng ta phải đi phân tích khái niệm “Tâm” trước khi vào bản thể luận trong triết học Trần Thái Tông. “Tâm” được dịch từ Vijnàna, Manas và Citta (Thức, Ý, Tâm) Như vậy, lại có một tổ hợp gồm ý thức, ý tâm, tâm ý và tâm thức. Ở đây, ý tâm và tâm ý tương đối gần nhau, còn ý thức và tâm thức thì lại khó phân biệt. Phật giáo quan niệm con người là sự kết hợp của các yếu tố động. Trung tâm của dòng này theo nghĩa trừu tượng đó là tâm thức. Theo người phương Đông, tâm thức đi qua ba giai đoạn: 13 Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chưa có cái ta, giai đoạn này phản ánh trung thành của ngoại cảnh. Giai đoạn thứ hai là sự trưởng thành của cái ta. Giai đoạn thứ ba siêu thoát nhị nguyên, tức là giai đoạn giải thoát cái siêu ngã để nhập vào đại toàn thể, nhà Phật gọi là giai đoạn “đáo bỉ ngạn” (Vượt qua bờ bên kia), giai đoạn của triết lý nhất nguyên. Nguyễn Hùng Hậu nghiên cứu về Suzuki trong “Nghiên cứu kinh lăng già” của Suzuki cho rằng Citta, Alaya (A-lại-da) Tathagatagarbha (Như Lai Tạng) là Tâm. Tâm (Citta) nuôi lớn Nghiệp (Karma), Nghiệp có nghĩa là hành động hay động tác, hành động đẻ ra hậu quả của nó, cho nên nghiệp hay đi với chữ quả hay báo là nói kết quả của những hành động từ trước đẻ ra. Do đấy mà Nghiệp còn có một ý nghĩa siêu hình học và tâm lý học là lý nhân quả. Ý (manas) là thám xét và thức (Vijnana) là biện biệt (ở đây có một số học giả Tây phương cho rằng Đông phương triết học hãy còn ở trong vòng vô thức của người bán khai, chưa biết biện biệt cái trong và cái ngoài. “Thường lầm lẫn phần tử với toàn thể” - Bougle, nhưng ở đây ông chỉ nói đúng với tâm trạng người bán khai cổ lỗ, chứ không đúng với tâm trạng người giác ngộ). Cái tâm tổng hợp gồm Tâm (Citta), ý tâm (Manas), ý thức (Vijnana) và những thức khác vốn yên lặng và thanh tịnh nhưng khi xuất hiện vọng động trên bề mặt của tâm thì nó bị phân ra thành bát thức. Tâm (Citta) hay Tathagatagarbha (Như Lai Tạng) cũng là Alaya (A-lại-da). Bởi vì tâm với nghĩa là thu góp, Tathagatagarbha (Như Lai Tạng) cũng là một loại kho chứa và Alaya (A-lại-da) cũng là kho (tạng) chứa hay thu gom tất cả tập khí của tư tưởng, tình cảm, ước muốn hành động của con người. Nhưng Như lai Tạng (Tathagatagarbha) lại nghiêng về tôn giáo mà A-lai-da (Alaya) nghiêng về triết học. 14 Manas (ý) là thế giới bên trong, nhưng không hẳn là toàn bộ thế giới bên trong. Nó bao gồm những tính chất như trí thức, lý trí, nhận thức, lý. Ngoài ra còn có cả tình cảm, xúc cảm, cảm xúc, tình. Tâm trong một số trường hợp lại chỉ riêng cho mỗi cái như A-lại-da (Alaya), ý (Manas) hay thức (Vijnana). Trường hợp xem tâm là hệ thống bát thức vận hành theo tám cách khác nhau thì đúng hơn. Các tập khí (Vasana) luôn để lại các thuộc tính, tính chất của nó trong các sự vật, hiện tượng mà nó xông ướp. Tập khí (Vasana) là một loại năng lượng siêu nhiên mà không thể nghĩ về chúng được. Chức năng của ý (Manas) là suy nghĩ về Alaya sáng tạo, phân biệt chủ thể và đối tượng từ các nhất thể thuần tuý của Alaya. Tập khí tích tụ trong Alaya bây giờ bị phân ra thành nhị biên tính. Điều này được so sánh với sự đa dạng của sóng quấy động biển Alaya ý (Manas) là xấu theo nghĩa đó, là nguồn gốc gây lên tai hoạ, khi nó có những khát vọng dựa trên những phán đoán lầm lạc, chẳng hạn chấp vào ngã, thế giới hiện tượng là thật. Thức luôn suy nghĩ về ý, đi cùng với nhau, qua lại để tạo nên thế giới hiện tượng. Thức khác với ý ở chỗ nó chủ yếu giữ lại chức năng về tri thức của ý. Vậy tâm là một kho chứa vô tận các dấu ấn, dấu vết vốn được tích tụ từ thời vô thuỷ. Ý chính là sự sáng tạo của Tâm. Nguyễn Hùng Hậu cho rằng: Tâm có nhiều cấp độ khác nhau. Thứ nhất nếu “Tâm” là trái tim bằng xương bằng thịt thì Phật không để ý tới. Tâm là thức (Vijnana) thì theo một nghĩa nào đó là ý thức thông thường của con người. Nhưng không chỉ là ý thức mà nó còn là toàn bộ thế giới bên trong. Nghĩa là ngoài lý ra còn phải có cả tình. Cái Tâm này chính là ý. Nó cũng là bát thức. Trong Phật giáo, Tâm là bản thể vũ trụ (tâm thể, chân tâm). Khái niệm tâm ở Việt Nam còn được dùng bằng những từ như “lòng”, “bụng”, “dạ” theo cấp bậc chủ quan thì nó thiên về tình cảm, bởi vậy tư duy, lối sống thường 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan