Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng nguyễn bỉnh khiêm về mối quan hệ ...

Tài liệu Tư tưởng nguyễn bỉnh khiêm về mối quan hệ

.PDF
98
14
62

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------ NGUYỄN HỮU PHƢỚC TƢ TƢỞNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM VỀ MỐI QUAN HỆ “TỰ NHIÊN – CON NGƢỜI – XÃ HỘI” VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC Hà Nội, năm 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------***---------------- NGUYỄN HỮU PHƢỚC TƢ TƢỞNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM VỀ MỐI QUAN HỆ “TỰ NHIÊN – CON NGƢỜI – XÃ HỘI” VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : TRIẾT HỌC Mã số : 60.22.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐỖ THỊ HOÀ HỚI Hà Nội, năm 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là kết qủa nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới, luận văn có kế thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã được công bố. Những tài liệu được sử dụng trong luận văn có xuất xứ cụ thể, rõ ràng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về Luận văn của mình! Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2010 TÁC GIẢ NGUYỄN HỮU PHƯỚC LỜI CẢM ƠN Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, em xin trân trọng cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Triết học trường Đaị học KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa đã ân cần dạy, hướng dẫn chúng em và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu Thạc sĩ tại khoa, đặc biệt PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới người đã trực tiếp hướng dẫn em hoàn thành cuốn Luận văn. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đại gia đình, những người thân và các bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ, cổ vũ cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để tôi hoàn thành khóa học! Xin trân trọng cảm ơn! TÁC GIẢ NGUYỄN HỮU PHƯỚC MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 NỘI DUNG 10 CHƢƠNG 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG 10 NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1585) 1.1 Những điều kiện khách quan 10 1.2 Điều kiện chủ quan 27 CHƢƠNG 2. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA QUAN NIỆM VỀ MỐI QUAN HỆ 37 “TỰ NHIÊN – CON NGƯỜI – XÃ HỘI” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM 2.1 Nội dung quan niệm Nguyễn Bỉnh Khiêm về mối quan hệ “Tự nhiên - 37 con ngƣời - xã hội” 2.1.1 Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm về chỉnh thể “tự nhiên - con người - xã 37 hội” 2.1.2 Quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm về vị thế của con người trong lối 52 ứng xử với thiên nhiên 2.2 Ý nghĩa của tƣ tƣởng Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với việc xây dựng đạo 67 đức sinh thái cho ngƣời Việt Nam hiện nay 2.2.1 Một số khái niệm đạo đức sinh thái và thực trạng sinh thái hiện nay ở 67 Việt Nam 2.2.2 Vận dụng tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm trong xây dựng đạo đức sinh 79 thái cho người Việt Nam ta hiện nay KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm, trên Tạp chí văn học, mục “Sinh hoạt văn học” đã dẫn lời của giáo sư Vũ Khiêu, trong đó có đoạn: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà văn hoá lớn - nhà thơ, nhà tƣ tƣởng, nhà hiền triết, ngƣời thầy, cây đại thụ tỏa bóng lên cả thế kỷ XVI” [44, tr.156] của dân tộc Việt Nam là một nhận định có cơ sở. Bởi thế di thảo của ông để lại, đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu với rất nhiều hướng tiếp cận khác nhau như: Văn học, Sử học, Triết học… Tuy nhiên, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu về tư tưởng Triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm của những người đi trước, chúng tôi nhận thấy còn nhiều điểm chưa thống nhất hoặc nhiều khía cạnh đang được bỏ ngỏ, chẳng hạn: Rất cần sự lý giải sâu hơn về vấn đề Nguyễn Bỉnh Khiêm có bản thể luận duy vật trong quan niệm về tự nhiên như thế nào? Tư tưởng của ông đã đạt tới tư duy biện chứng trong lý giải tự nhiên, xã hội con người ra sao? Và có giống như các nhà tư tưởng Việt Nam thời kỳ phong kiến cuối cùng Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng rơi vào duy tâm hoặc không tưởng trong giải quyết các vấn đề xã hội hay không? Mặc dù còn nhiều hạn chế về trình độ nghiên cứu, nhưng qua tìm hiểu bước đầu chúng tôi thấy rằng, có một điều không thể phủ nhận được là Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa ra một số vấn đề và giải quyết chúng có chiều sâu triết lý, có ý nghĩa triết học như vấn đề: Sự thống nhất của hệ thống “Tự nhiên – con người – xã hội”. Trên cơ sở kế thừa những nhà nghiên cứu trước, trong điều kiện mới hiện nay, chúng tôi thấy cần tập trung tìm hiểu đầy đủ hơn vấn đề này. Thêm vào đó, trong lịch sử Việt Nam trước và sau Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít người làm nên sự nghiệp vẻ vang, sống hết lòng vì dân, có tầm cao tư tưởng như: Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát… hay trong lịch sử dân tộc có không ít ông Trạng với nhiều đặc điểm nổi bật như: Nguyễn Hiền - Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất, Quách Đồng Dần - ngƣời đỗ Trạng lớn tuổi nhất hoặc cùng thời Nguyễn Bỉnh Khiêm sống cũng có những Trạng nguyên tài giỏi 2 như: Giáp Hải - Trạng nhà Mạc, Phùng Khắc Khoan - Trạng nhà Lê Trung Hƣng… Nhưng hễ nhắc đến tài năng dự báo và khả năng thuyết phục lòng người của các tài danh là người ta lại nhớ ngay đến Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông đã đi vào ký ức dân gian như một tiêu điểm của tài năng tiên tri, dự báo, nói như Vũ Ngọc Khánh “…Không phải bất cứ danh nhân nào cũng có cái vinh hạnh đƣợc đi vào thế giới folklore” [19, tr.362]. Điều đó càng hấp dẫn chúng tôi kế thừa người đi trước tiếp tục đi sâu nghiên cứu để tìm hiểu những giá trị phong phú của nhà tư tưởng “...nhìn nhận mọi thứ biến đổi với con mắt của nhà triết học, nhà đạo đức học” [34, tr.7]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng Triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm là vấn đề rất phức tạp bởi Trạng Trình không để lại tác phẩm hoặc chuyên luận Triết học nào. Mặt khác nguồn tư liệu có được chủ yếu là thơ văn, được dịch từ cổ văn chữ Hán và Nôm của các nhà nghiên cứu, trong khi đó công việc nghiên cứu của tác giả mới chỉ là bước đầu, cho nên trong giới hạn luận văn này chúng tôi chỉ tập trung tìm hiểu tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về mối quan hệ “Tự nhiên - con người – xã hội” và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay từ góc độ đạo đức sinh thái nhân văn. Điều này góp phần đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay ở nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sau hai thập kỷ đổi mới đã thu được những thành tựu đáng kể trên nhiều bình diện: Kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng... cho phép đất nước chuyển sang chặng đường “đẩy mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá... tập trung mọi nguồn lực, ra sức phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản đƣa nƣớc ta trở thành nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại...” [8, tr.24 - 28]. Cùng với Công nghiệp hoá – Hiện đại hóa là quá trình con người tác động vào tự nhiên để ngày càng tối đa hoá lợi ích cho mình, đó là việc làm có ý nghĩa. Tuy nhiên mặt trái của sự khai thác trên là chỉ biết triệt để khai thác tự nhiên, coi tự nhiên như kho tài nguyên vô tận, là đối tượng để vơ vét. Những việc làm đó có nguy cơ “để lại sau lƣng là bãi hoang mạc” như C. Mác đã cảnh báo [4, tr.45], hệ quả của nó là cạn kiệt tài 3 nguyên thiên nhiên, huỷ hoại môi trường sống, phá vỡ trật tự cân bằng sinh thái, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiện trạng môi sinh và cuộc sống nhân loại nói chung, con người Việt Nam nói riêng. Chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ khía cạnh đạo đức - sinh thái - nhân văn ẩn dấu trong quan niệm về sự thống nhất “Tự nhiên - con ngƣời - xã hội” và vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn hiện nay ở nước ta là góp phần phát huy những tinh hoa truyền thống dân tộc… củng cố cho chúng ta ý thức tự hào dân tộc và trách nhiệm xây dựng nền văn hóa mới trên tinh thần “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [7, tr.5]. Đó cũng là việc làm có ý nghĩa quán triệt tinh thần Nghị quyết Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX: “Cổ vũ cái đúng, cái tốt trong quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời, con ngƣời với xã hội, con ngƣời với thiên nhiên…” [8, tr.77]. Bởi, chúng ta không thể đổi mới nhanh khi chưa hiểu hết cái cũ, nếu không nhận biết rõ các giá trị truyền thống để kế thừa, không biết mình là ai, chúng ta sẽ không có lời giải cho tương lai. Vì những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về mối quan hệ “Tự nhiên – con người – xã hội” và ý nghĩa của nó đối với đạo đức con người Việt Nam hiện nay từ góc độ đạo đức sinh thái làm đề tài nghiên cứu cho bản Luận văn Thạc sĩ Triết học của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chúng ta đều biết Nguyễn Bỉnh Khiêm là chủ đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều lĩnh vực: Văn học, sử học, triết học, đạo đức học… Có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau đây: Trƣớc tiên là các tài liệu nghiên cứu về Văn bản học và Văn học: Từ trước đến nay thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm được xuất bản nhiều lần. Trước cách mạng tháng tám năm 1945 nếu không kể một số bài lẻ tẻ được chú thích in trong tuyển tập thơ văn như: Việt Nam thi văn hợp tuyển của Dương Quảng Hàm, Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố, thì đã có ba lần 4 thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm được in phổ biến và đầy đủ nhất, đó là: Trên các số Tạp chí Nam Phong (1926), Bạch Vân Am thi văn tập của Sở cuồng Lê Dư (1939), và Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên (1932) do Nhà xuất bản Nam Ký phát hành. Sau cách mạng, dựa vào các tài liệu trên có khảo đính lại, Lê Trọng Khánh - Lê Anh Trà (đồng chủ biên) đã biên soạn lại phần thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm có ít nhiều chú thích, lấy tên “Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ Triết lý”(1958) – Nxb Văn hóa, Bộ VHTT, Hà Nội [11, tr.73]. Công trình khảo cứu quan trọng mà chúng tôi dựa vào chủ yếu, đồng thời toàn bộ thơ văn trích dẫn trong quá trình làm luận văn lấy từ tác phẩm này, đó là cuốn “Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm” do Đinh Gia Khánh (chủ biên), Nxb Văn học ấn hành lần thứ nhất vào năm 1983. Trong tác phẩm này, tập thể tác giả đã có sự kế thừa và dày công khảo cứu, biên dịch hiệu đính văn bản tư liệu cổ văn với những sáng tác thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn lưu giữ được; lần xuất bản thứ hai vào năm 1997 nội dung cuốn sách được bổ sung sửa chữa, ở lần này các tác giả Đinh Gia Khánh – Hồ Như Sơn ngoài việc dựa vào lần xuất bản trước, còn đối chiếu hai văn bản rất quan trọng làm căn cứ đó là bản gốc chữ Nôm và chữ Hán trong Thư viện Khoa học xã hội, với ba cuốn sách chép nhiều thơ nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm: Bạch Vân Am thi văn tập ký hiệu AB, có 157 bài, Bạch Vân Am thi văn tập ký hiệu AB 309, có 100 bài và Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm ký hiệu 635, có 165 bài. Sau khi đã chọn lọc những bài trùng với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi các tác giả đã chọn ra được 172 bài thơ nôm. Trước đó chưa bao giờ số lượng thơ nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm được công bố vượt quá 100 bài. Tiếp theo còn có sách Văn chƣơng Nguyễn Bỉnh Khiêm của Bùi Văn Nguyên (1987), NXb VHTT, Hà Nội hướng nhiều về phân tích các giá trị văn học trong thơ văn của ông; Nguyễn Bỉnh Khiêm Tác gia tác phẩm do Trần Thị Băng Thanh, Vũ Thanh (Tuyển chọn và giới thiệu, 2001), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trong sách này, các tác giả đã sưu tầm, biên soạn tinh tuyển lại thơ văn 5 Nguyễn Bỉnh Khiêm cùng danh sách 66 công trình, bài viết của các tác giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trên cơ sở đó, những người tuyển chọn đã sắp xếp phân định theo các mảng chủ đề: Nguyễn Bỉnh Khiêm giữa thế kỷ đầy biến động; Triết nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm tƣ tƣởng - nhân cách; Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ; Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tâm thức thế nhân xƣa và nay. Ngoài ra,các tác giả còn lục thuật: Niên biểu Nguyễn Bỉnh Khiêm, thƣ mục về Nguyễn Bỉnh Khiêm…. Trên đây là các căn cứ tư liệu về cuộc đời thơ văn để chúng tôi tìm hiểu về tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm trong luận văn này. Các công trình nghiên cứu tiếp cận từ góc độ Sử học: Ngoài các bộ thông sử ra, đáng chú ý là Kỷ yếu các Hội thảo khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm như: Hội thảo khoa học tại Hải Phòng năm 1985 của Hội sử học và Viện văn học, nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của Danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm, cuốn Kỷ yếu đã tập hợp được hơn 50 bản tham luận của các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm chủ đề Nguyễn Bỉnh Khiêm, nội dung các bản tham luận đã đề cập đến nhiều phương diện tài năng và đóng góp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với lịch sử dân tộc; Hội thảo khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Thành Phố Hồ Chí Minh năm 1991, tại đây một lần nữa tiếp tục khẳng định những giá trị di sản văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm mà Hội thảo năm 1985 đã đề cập đến, đồng thời có nhiều tư liệu mới phát hiện làm sáng tỏ hơn mối quan hệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm với triều Mạc và vai trò của nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam; Gần đây nhất, năm 2001, Hội đồng khoa học Lịch sử Hải Phòng một lần nữa tổ chức Hội thảo khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trên cơ sở các nhận định của các lần hội thảo trước, tại đây các báo cáo một lần nữa khẳng định vai trò của Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc. Đó là những nguồn sử liệu mà tác giả lấy làm căn cứ quan trọng trong quá trình viết luận văn này. 6 Các công trình tiếp cận từ giác độ tƣ tƣởng Triết học: Nổi bật là sách Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam (tập I) - Nguyễn Tài Thư (Tổng chủ biên, 1993), Nxb KHXH, Hà Nội. Trong cuốn sách này, ở chương XVII:“Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà tƣ tƣởng tiêu biểu thế kỷ XVI” tác giả đã trình bày hai vấn đề tư tưởng lớn được gọi là “phạm trù”: Đạo trời (Thế giới quan), Đạo ngƣời (Nhân sinh quan) của Nguyễn Bỉnh Khiêm; Các công trình nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm ở một số khía cạnh tư tưởng có Khóa luận tốt nghiệp Đại học “Triết lý về cuộc sống trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm” của Phan Thanh Long (1985), khoa Triết học – Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nội dung khóa luận gồm 4 chương: Chương 1. Khái quát bối cảnh chính trị - kinh tế - tƣ tƣởng thời đại Nguyễn Bỉnh Khiêm; Chương 2. Tƣ tƣởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về các vấn đề: Tƣơng sinh tƣơng khắc, Âm trƣởng dƣơng tiêu, biến hóa; Chương 3. Quan niệm về lẽ sống, đạo làm ngƣời; Chương 4. Nội dung “chữ Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đáng chú ý là Luận án Tiến sĩ Triết học “Những quan điểm Triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm” của tác giả Trần Nguyên Việt (1998). Luận án gồm 132 trang, bao gồm cả phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 2 chương (90 trang) : Chương 1. “Sự hình thành Thế giới quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm” tác giả đã trình bày: Tiểu sử, thân thế, sự nghiệp Nguyễn Bỉnh Khiêm; đặc điểm di sản tinh thần Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ văn còn lại đến hiện nay; ảnh hưởng Triết học Trung Quốc đối với sự hình thành Thế giới quan Triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chương 2. “Các quan điểm Triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm” đi vào làm sáng tỏ một số vấn đề: Triết học, quan điểm về con người, Pháp trị; Trên Tạp chí Triết học chủ đề Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đƣợc các tác giả quan tâm ở một số nội dung: “Vấn đề con ngƣời trong tƣ tƣởng Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Trần Nguyên Việt (2000), Số 01, tr.35-38. 7 “Một số vấn đề tƣ tƣởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Cao Thu Hằng (2000), Số 02, tr.51-53. “Trở lại vấn đề Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Vũ Khiêu (2001), Số 01, tr.25 -28 “Tƣ tƣởng triết học tự nhiên của Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Trần Nguyên Việt (2002), Số 01, tr.38-41. Kế thừa những thành quả của những người đi trước, chúng tôi đã bảo vệ thành công Khóa luận tốt nghiệp Đại học Hệ thống “Tự nhiên – con ngƣời – xã hội” trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm năm 2002, tại khoa GDCT – ĐHSP Hà Nội. Như vậy, qua các công trình hoặc bài viết trên đây, các tác giả đã ít nhiều nghiên cứu các khía cạnh tư tưởng về tự nhiên, con người, chính trị - xã hội, đạo đức, nhân tình thế thái, tư tưởng biện chứng, lý tưởng thẩm mỹ… của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ở luận văn này, chúng tôi xác định tiếp tục đi sâu tìm hiểu với đối tượng nghiên cứu của đề tài tốt nghiệp đã được thực hiện năm 2002, trên tinh thần học tập, kế thừa những thành tựu của các nhà khoa học đi trước, chúng tôi cố gắng tập trung vào phân tích mối quan hệ thống nhất về bản thể luận chỉnh thể “Tự nhiên – con người – xã hội” qua di thảo thơ, văn Nguyễn Bỉnh Khiêm từ giác độ Triết học với cách nhìn đạo đức học – sinh thái nhân văn hiện đại, từ đó vận dụng vào thực tiễn chỉ ra ý nghĩa những yếu tố tiến bộ trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với việc xây dựng đạo đức sinh thái cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích: Trình bày một cách hệ thống tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về mối quan hệ “Tự nhiên – con người – xã hội” từ đó làm rõ hơn ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng đạo đức sinh thái cho con người Việt Nam hiện nay. * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất: Nghiên cứu những điều kiện khách và chủ quan cho sự ra đời tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm. 8 Thứ hai: Làm rõ nội dung quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm về quan hệ chỉnh thể “Tự nhiên - con người - xã hội”, chú ý phân tích những giá trị tích cực và hạn chế của nó. Thứ ba: Làm rõ ý nghĩa tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về mối quan hệ chỉnh thể “Tự nhiên – con ngƣời – xã hội” đối với việc xây dựng đạo đức con người Việt Nam từ góc độ sinh thái nhân văn trong tình hình hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận nghiên cứu: * Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận Triết học Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về mối quan hệ con người, xã hội với tự nhiên; về xây dựng và phát triển nền “văn hoá Việt Nam tiên tiến - đậm đà bản sắc dân tộc. * Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu trực tiếp thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm kết hợp với những tài liệu liên quan khác, bằng quan điểm duy vật lịch sử và phương pháp tư duy biện chứng, tác giả đã kết hợp các phương pháp: Lô gíc - lịch sử, Quy nạp - diễn dịch, Phân tích - tổng hợp, Đối chiếu – so sánh… Trong luận văn còn sử dụng một số phương pháp liên ngành đạo đức sinh thái. Xuyên suốt quá trình nghiên cứu là phương pháp nghiên cứu Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Tƣ tƣởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về mối quan hệ “Tự nhiên – con ngƣời – xã hội” và ý nghĩa của nó đối với đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ đạo đức sinh thái nhân văn. * Phạm vi: Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về mối quan hệ tự nhiên - con người – xã hội qua nghiên cứu thời đại, cuộc đời và thơ văn của ông và bước đầu vận dụng vào thực tiễn, chỉ rõ giá trị tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm trong xây dựng đạo đức sinh thái – nhân văn ở Việt Nam trong những năm gần đây. 9 6. Ý nghĩa của luận văn - Về lý luận: Luận văn làm sáng tỏ hơn nội dung tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm về mối liên hệ chỉnh thể “Tự nhiên – con người – xã hội” và vận dụng vào thực tiễn để làm rõ ý nghĩa tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm với xây dựng đạo đức sinh thái nhân văn cho con người Việt Nam, trong khi khía cạnh này đang ít được các nhà nghiên cứu chú ý đến. - Về thực tiễn: Luận văn góp phần làm đầy đủ hơn căn cứ để chỉ ra các yếu tố nội dung của tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, những giá trị tư tưởng mới còn có thể vận dụng vào việc xây dựng đạo đức sinh thái nhân văn cho con người Việt Nam hiện nay. Với những nội dung mới đã trình bày, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập tư tưởng triết học truyền thống Việt Nam nói chung và tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm nói riêng, đặc biệt chỉ rõ giá trị tư tưởng của ông từ khía cạnh đạo đức sinh thái, nhân văn. 7. Đóng góp mới của luận văn Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của những người đi trước, luận văn sẽ góp phần làm phong phú và khẳng định thêm nội dung tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm ở khía cạnh mối liên hệ “Tự nhiên – con người – xã hội”, đặc biệt chỉ ra giá trị đạo đức sinh thái nhân văn trong xây dựng đạo đức con người Việt Nam hiện nay. 8. Kết cấu luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn gồm có 2 chương, 4 tiết. Trong đó: Chương 1. Những tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) gồm 2 tiết. Chương 2. Nội dung và ý nghĩa của quan niệm về mối quan hệ “Tự nhiên – con ngƣời – xã hội” trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm 2 tiết. 10 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 NHỮNG TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1585) 1.1. Những điều kiện khách quan Xét đến cùng thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, do đó Các Mác khẳng định: Mọi tƣ tƣởng cho dù có vĩ đại đến đâu cũng xuất phát từ thực tế xã hội và trở lại phục vụ xã hội ấy. Vì vậy để hiểu tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta phải tìm hiểu các điều kiện khách quan ảnh hưởng đến sự hình thành các tư tưởng này. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585) sống gần trọn thế kỷ XVI, sinh quán tại làng Trung Am, Huyện Vĩnh Lại (nay là xã Cổ Am, Huyện Vĩnh Bảo, Thành phố Hải Phòng). Vĩnh Bảo là vùng đất tích hợp bởi các yếu tố: đồng ruộng, kênh rạch… Các điều kiện tự nhiên trên đã góp phần ảnh hưởng đến sự phong phú trong tư duy Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hơn nữa, thế kỷ XVI là thế kỷ đầy biến động, một hiện tượng chưa có tiền lệ trong lịch sử, nó giống như khúc chuyển mình trong tiến trình lịch sử sử Việt Nam. Tất cả các điều kiện khách quan đó, đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhà tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm. 1.1.1. Chính trị - xã hội Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra khi thời cực thịnh của nhà Lê đã qua, chuyển sang thời kỳ suy thoái. Bao trùm xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XVI là nạn bao chiếm ruộng đất công và sự sa sút của nền sản xuất nông nghiệp, thay vì chính sách quân điền của Lê Thái tổ (chia ruộng đất cho dân làng theo số lƣợng khẩu khác nhau) là tình trạng các thế lực phong kiến công khai chiếm đoạt ruộng đất công các làng xã, chẳng hạn vào năm Canh Ngọ (1510) dưới triều Lê Oanh - Lê Tương Dực quy định: Phàm các hạng ruộng đất, bãi dâu, …chƣa vào sổ quan, cho quan Thái bộc làm bản tâu lên... làm sắc cấp cho các công, hầu, bá theo thứ bậc khác nhau [22, tr.380]. Thêm vào đó, thời kỳ này thuế khóa nặng nề. Trong các đời Uy Mục (1505 – 1509) và Tương Dực 11 (1509 – 1516) cùng với việc hỗn chiến giữa các phe cánh, kinh tế nông nghiệp còn trở nên sa sút. Kết quả là năm Đinh Sửu (1517) trong nƣớc đói to nhân dân chết đói nằm gối lên nhau. Các đời sau đó vua Uy Mục (con thứ của Hiến Tông) thì ăn chơi sa đoạ, sử cũ chép rằng: Vua thích uống rƣợu, hay giết ngƣời; hiếu sắc làm oai, giết hại ngƣời tôn thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại chuyên quyền, trăm họ căm oán. Tương Dực giết Uy Mục cướp ngôi vào năm Kỷ Tỵ (1509), nhưng Tương Dực cũng đồi bại không kém làm cho xã hội càng thêm tiêu điều. Sử sách còn ghi: Vua Tƣơng Dực ăn chơi xa xỉ tột bậc, bắt nhân dân phục dịch, làm nhiều thổ mộc, thuế khóa nặng nề, nạn đói triền miên, đời sống nhân dân điêu đứng, khiến nông dân khởi nghĩa ở nhiều nơi. Trước tình trạng trên các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra, tiêu biểu ở thời kỳ này là cuộc khởi nghĩa của Trần Cảo (1516 - 1521). Những người dân cày thì chỉ biết hồi tưởng về một thời đã qua : “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Thóc, lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn” Trong khi đó, triều đình có dấu hiệu rạn nứt, hai phe cánh rõ rệt mọc lên: Nội cung là Trịnh Duy Sản, bản thân Sản là một võ tướng chỉ huy quân Cấm vệ, đại diện cho họ ngoại chuyên quyền; Ngoại cung là Nguyễn Hoằng Dụ phòng thủ kinh thành. Tuy nhiên, trước sức mạnh của Trần Cảo cả họ Trịnh và họ Nguyễn đều tạm ngừng việc tranh chấp, để cùng đối phó. Như vậy, đến lúc này chế độ quân chủ nhà Lê với việc liên tiếp phế vua, hỗn chiến giữa các phe cánh quân chủ khiến người dân bị đẩy đến bên bờ vực thẳm. Sự khủng hoảng chính trị - xã hội trầm trọng ấy đã tạo điều kiện khách quan cho phái Mạc Đăng Dung từng bước đứng lên vũ đài chính trị để lật nhà Lê, lập ra nhà Mạc. Mạc Đăng Dung vốn có sức khỏe tốt nên dưới thời Uy Mục tuyển dũng sĩ ông đã dự thi môn đánh vật và trúng Đô lực sĩ xuất thân, sau đó được bổ sung vào đội quân Túc vệ cầm dù theo vua. Nhờ được gần vua nên tháng 3 12 năm Mậu Thìn (1508), Mạc Đăng Dung được phong chức Đô chỉ huy sứ ty, đến năm Hồng Thuận thứ 3 (1511), Đô chỉ huy sứ được phong Vũ Xuyên bá khi ông 29 tuổi. Nhờ có uy tín với nhà vua trong việc đánh dẹp và mưu kế trừ khử những kẻ tà thuật, phản nghịch, Mạc Đăng Dung được phong chức Vũ Xuyên Hầu. Kể từ đây Mạc Đăng Dung ra sức chỉnh đốn quân ngũ, đồng thời gièm pha kích động vua trừ khử những đối trọng bất lợi cho mình như Trần Chân… Càng ngày Dung càng được vua tin tưởng giao nhiều quyền, từ Vũ Xuyên Hầu lần lượt được phong các chức Đề thống doanh quân thủy và bộ, rồi Minh quận công. Để thâu tóm quân đội vào tay mình Dung bàn với người thông gia của mình là Phạm Gia Mô là quan Thượng Thư Bộ Lễ dâng tờ thảo thay đổi tổ chức quân đội và bổ nhiệm Dung làm Tiết chế tổng quân thủy và bộ. Từ đây binh quyền trong tay Mạc Đăng Dung, thậm chí như rồng được chắp cánh, vua còn phong cho Dung chức Thái Phó. Do nắm được binh quyền trong tay từ đấy Mạc Đăng Dung chuyên quyền lấn át cả vua, một mình xử đoán mọi việc, quần thần không ai dám chống đối. Thêm vào đó, Dung còn có công đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa ở Lạng Nguyên, Đông Ngàn….. Lúc này, lòng người đã mệt mỏi với triều Lê, ai ai cũng hy vọng vào Mạc Đăng Dung, vì thế Mạc Đăng Dung càng chú tâm đến việc chiếm ngôi vua. Kết quả là năm Đinh Hợi 1527, Mạc Đăng Dung làm cuộc đảo chính lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thống Nguyên năm thứ nhất. Ngay sau khi lên ngôi Hoàng đế, nhằm thiết lập vị thế chính danh của vương triều mới, Mạc Đăng Dung đã ban lệnh đại xá thiên hạ, cho đổi họ một số cựu thần nhà Lê sang họ Mạc, ban phong các chức tước cho 56 cựu thần nhà Lê theo mình, đồng thời thi hành những chính sách đối nội, đối ngoại riêng, ít nhiều thể hiện được sự độc lập, tự chủ. Trong nội triều, chính thể quân chủ của nhà Mạc tôn trọng tuyệt đối trật tự sự nối dõi theo nguyên tắc: lập con trưởng làm vua và theo dòng đích. Có lẽ vì thế mà trong thời gian cầm quyền dưới góc độ này Triều Mạc tương đối ổn định, vững vàng so với cuối triều Lê sơ. 13 Về chính trị, cơ bản triều Mạc vẫn thực hiện cách thức quản lý hành chính, luật pháp dựa theo mô hình của nhà Lê, mặt khác trong cách thức quản lý xã hội thời Mạc có một số điểm thông thoáng hơn như: Thay vì quản lý hành chính ngặt nghèo từ trung ương đến địa phương, triều đình nới lỏng và tăng tính tự quản của các làng xã với những lệ tục khác nhau. Trong các chính sách đối nội: Để trấn áp nhân dân và đối phó các thế lực thù địch, nhà Mạc rất chú trọng đến xây dựng quân đội, ngoài các đội quân ở phủ cũ như thời Lê, triều Mạc còn xây dựng các phủ mới ở Hải Dương, Sơn Tây, Bắc Ninh… chia bổ các ty, mỗi ty có một Chỉ huy sứ nhằm tạo thế phòng thủ vững chắc. Thêm vào đó, Triều Mạc còn chú ý thúc đẩy phát triển kinh tế, nhất là nông nghiệp, vì thế đã phần nào làm cho an ninh ổn định, đời sống nhân dân bớt cực khổ. Chính sử nhà Lê Trung Hưng cũng phải chép rằng: “… thời ấy ngƣời đi đƣờng đều đi tay không, ban đêm không có trộm cƣớp, trâu bò thả chăn không phải mang về, mỗi tháng chỉ kiểm soát một lần hoặc sinh sản cũng không thể biết là của mình. Trong khoảng vài năm, đƣờng xá không nhặt của rơi, cổng ngoài không đóng, trong cõi tam yên” [11, tr.41]. Về đối ngoại, trước mối đe doạ xâm lược của đế chế Minh phương Bắc, kể từ khi xã hội Đại Việt diễn ra những chính biến phức tạp dẫn đến sự chiếm ngôi của nhà Mạc, nhà Minh không ngừng theo dõi tình hình và muốn thâu tóm Đại Việt, lúc này một mặt nhà Minh muốn đem quân chinh phạt Mạc, mặt khác lại do dự vì đang gặp khó khăn trong nước cả về chính trị lẫn kinh tế…., nhưng cuối cùng nhà Minh cũng cho hai tướng Cừu Loan và Mao Bá Ôn chinh phạt Đại Việt. Trước tình hình trên Mạc Đăng Dung dâng biểu xin tạ tội, cầu ban ấn tín, trong biểu có ba nội dung cơ bản: Thứ nhất, viện vì lý do tuổi già Mạc Đăng Dung không sang Bắc Kinh xin hàng; thứ hai, nộp bốn động cho nhà Minh; thứ ba, đề nghị nhà Minh ban cho Ấn tín. Bản sớ được chấp nhận, nhưng Mạc Đăng Dung chỉ được phong chức An nam Đô thống sứ, được cấp ấn bạc (năm 1541). Với sự kiện trên nhà Minh chính thức thừa nhận sự thay thế nhà Lê bởi nhà Mạc trên đất Đại Việt. 14 Mặc dù có nhiều cố gắng đem lại sự khởi sắc cho nước nhà, song triều Mạc ra đời trong một khung cảnh đặc biệt, một mặt chiến tranh loạn lạc liên miên không có cơ sở vững chắc thật sự cho một nhà nước quân chủ tập quyền. Mặt khác, việc Mạc Đăng Dung lật đổ vua Lê đã gây nên mâu thuẫn đối địch với tầng lớp cựu thần nhà Lê mà người đứng đầu là Nguyễn Kim với danh nghĩa lập vua mới phục hưng triều Lê. Kim kêu gọi quần thần và nhân dân chống lại Mạc Đăng Dung, do đó năm 1533 sự nghiệp Trung Hưng của nhà Lê bắt đầu, lập căn cứ địa ở miền Thanh – Nghệ. Cũng từ đây xung đột đã xảy ra, nhân dân bị lôi vào cuộc hỗn chiến tàn khốc trong cuộc tranh giành quyền lực của các thế lực phong kiến với hai triều đối chọi mà sử quen gọi là Nam triều (Lê Trung Hưng) – Bắc triều (Mạc), cuộc chiến diễn ra từ 1533 – 1592. Trong 46 năm chiến tranh với 38 cuộc giao tranh lớn nhỏ, hai bên đã huy động hàng chục vạn quân, chủ yếu là các trai tráng khỏe mạnh – đó là lực lượng lao động chính của xã hội, tuy cục diện mỗi lúc nghiêng về một phía khác nhau, song phần thắng cuối cùng thuộc về họ Trịnh. Trịnh Tùng đánh bại Mạc Hậu Hợp, cướp Thăng Long lập nên chính thể Vua Lê – chúa Trịnh. Các cuộc giao tranh dai dẳng hao người tốn của đến mức Nguyễn Bỉnh Khiêm phải thốt lên: “Ngán xem nghịch tặc rông rỡ đã lâu, Đánh lẫn nhau chết một nửa” (Cảm hứng, bài 2) [18, tr.301] “Chiến tranh kế tiếp nhau hoạ loạn đến cùng cực” (Thương loạn) [18, tr. 423] Trong thời gian chiến tranh nổ ra, giang sơn Đại Việt bị cắt xẻ, mỗi thế lực phong kiến hùng cứ một nơi. Họ Mạc ở vùng trung du Bắc Bộ, tập đoàn Lê Trịnh trị vì vùng từ Thanh – Nghệ đến Thuận Quảng, họ Vũ (Anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên) chiếm cứ miền Tây Bắc Tuyên Quang. Tình trạng cát cứ trên đã làm cho đường xá tắc nghẽn, giao thông đi lại khó khăn, cản trở 15 cho quá trình giao lưu kinh tế giữa các vùng miền, cộng với các triều đình phong kiến quá chú trọng đến xây dựng quân đội mạnh, nên đã không chú trọng thực sự đến đắp đê trị thủy, kè đập chống hạn. Kết quả là lũ lụt, hạn hán liên tiếp xảy ra, ở đàng trong: năm 1530 ở Thanh Hóa đói to, một đấu gạo phải mua 60 đồng tiền kẽm, tháng 8 năm 1558 nƣớc lụt ở Thanh Hóa – Nghệ An trôi vài trăm nhà… năm 1571 ở Thanh Hóa không thu đƣợc hạt thóc nào, nhân dân đói khổ nhiều nơi phải xiêu dạt; Ở đàng ngoài tình hình cũng rối ren: nhà Mạc cho xây thành đắp lũy trong ngoài Thăng long, huy động tre nứa, gạch ngói xây dựng, khôi phục có đợt kéo dài hàng năm, của cải vật chất, sức ngƣời là vô tận, nhiều năm vỡ đê ở Thăng Long…[22, tr.420] Có thể nói xã hội Việt Nam hồi đầu thế kỷ XVI là khúc quanh khá phức tạp với những đặc điểm nổi bật là nạn hỗn chiến giao tranh và chuyên chế của các tập đoàn phong kiến Việt Nam thời bấy giờ. 1.1.2. Kinh tế Tương ứng với sự cát cứ phân chia, tình hình kinh tế ở hai triều cũng có những nét khác biệt. * Ở Bắc triều Trƣớc hết là vấn đề ruộng đất, trong xã hội phong kiến Việt Nam thì ruộng đất luôn là cơ sở kinh tế quan trọng. Dưới triều Mạc có một số đổi mới tiêu biểu trong lĩnh vực ruộng đất, tháng 10 năm 1528, nhận thấy tình hình trong nước tạm ổn định, nhưng luật pháp còn lỏng lẻo, Mạc Đăng Dung bàn bạc với triều thần việc phép điền, phép lộc (công việc cụ thể như thế nào thì sử cũ không chép lại), mặc dù vậy nhà Mạc trong vòng 65 năm cầm quyền số ruộng đất thuộc quyền quản lý ít hơn nhiều so với triều Lê bởi nhiều lý do khác nhau: Thứ nhất, lãnh địa của nhà Mạc bị thu hẹp đi rất nhiều kể từ khi nhà Lê Trung Hưng nổi lên ở Thanh - Nghệ và mở rộng địa bàn cai quản ở xứ Thuận Hóa; Thứ hai, ở vùng Tây Bắc Tuyên Quang anh em nhà Vũ Văn Mật nối nhau cai quản;
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan