Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Khoa học xã hội Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng nền quốc phòng – an ninh (Hỗ trợ dowload t...

Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc xây dựng nền quốc phòng – an ninh (Hỗ trợ dowload tài liệu zalo 0587998338)

.DOC
70
70
137

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG - AN NINH Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Giáo viên hướng dẫn: Sinh Viên Thực Hiện Ths. Đinh Văn Phương Nguyễn Thanh Tưới MSSV: 6075737 Cần Thơ 5/2011 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương MỤC LỤC MỞ ĐẦU...............................................................................................................2 NỘI DUNG............................................................................................................ 6 Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN; VỀ XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN...........6 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân......6 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân..................................24 Chương 2. XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG - AN NINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. .43 2.1. Hoàn cảnh lịch sử.................................................................................43 2.2. Nhiệm vụ quốc phòng – an ninh trong giai đoạn hiện nay....................44 2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền quốc phòng an ninh ................................................................................................................... 47 2.4. Thành tựu và hạn chế............................................................................52 2.4.1. Thành tựu........................................................................................52 2.4.2. Hạn chế...........................................................................................55 2.4.3. Nguyên nhân...................................................................................56 2.5. Một số giải pháp...................................................................................57 KẾT LUẬN................................................................................................66 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................68 Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 2 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế kỷ XX là thế kỷ đầy biến động đối với dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quân và dân ta đã làm nên nhiều chiến công hiển hách. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật nhào ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đó là hai cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc ta đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, non sông thu về một mối và sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo đã và đang đem lại nhiều thành tựu quan trọng. Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trước hết bắt nguồn từ đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ của Đảng ta, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình tìm tòi và vận dụng sáng tạo học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam là sự kế thừa một cách sáng tạo truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha ta trong lịch sử. Vận dụng, kế thừa và phát huy lên một tầm cao mới di sản quân sự của cha ông cùng những kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng bộ tham mưu của Đảng đã đề ra hệ thống những quan điểm quan trọng về quân sự; về quốc phòng, an ninh; về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng; kết hợp quốc phòng với an ninh, kinh tế, ngoại giao; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, tình hình chính trị thế giới và trong nước đang có nhiều diễn biến phức tạp. Trên thế giới, các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn tiếp tục Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 3 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương diễn ra gay gắt và quyết liệt, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi nhưng những cuộc xung đột vũ trang và nội chiến vẫn xảy ra và kéo dài ở nhiều nơi, những mâu thuẫn gay gắt về dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ đang tiếp diễn. Trong bối cảnh đó, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiếp tục phấn đấu xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm từng nước. Việt Nam đã và đang nằm trong tầm ngắm của các thế lực phản động và đế quốc, chúng lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc để can thiệp vào công việc nội bộ của ta nhằm thực hiện diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, gây bạo loạn chính trị. Tình hình đó đã đặt ra những yêu cầu mới cho nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong thời kỳ mới, không chỉ của riêng Đảng và Nhà nước mà là của toàn thể nhân dân. Vì thế, cần thiết phải học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng toàn dân trong bối cảnh hiện nay để phát huy tổng hợp sức mạnh toàn dân, của hệ thống chính trị, từng bước nâng cao tiềm lực quốc phòng - an ninh của đất nước để bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, làm thất bại mọi âm mưu chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch. Mặt khác, đứng trước sự nghiệp đổi mới, quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã đặt ra nhiều vấn đề cấp bách, phức tạp không thể không giải quyết, đặt biệt trước sự biến đổi nhanh chóng, khó lường của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới, của hàng loạt vấn đề toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế. Sự tiếp thu thiếu chọn lọc các nền văn hóa trên thế giới của bộ phận thanh thiếu niên đã làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc, một khi an ninh văn hóa bị khủng hoảng thì ý thức dân tộc cũng dần phai mờ đi từ đó ảnh hưởng đến ý thức bảo vệ Tổ quốc. Nếu không làm tốt công tác xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc, không thực hiện tốt việc giáo dục tuyên truyền cho đồng bào Việt Nam, về những vấn đề liên quan đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, thì không những không phát huy được vai trò của họ đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, mà họ còn bị các thế lực thù địch lợi dụng, chia rẽ gây mất đoàn kết và có thể trở thành lực lượng đối lập, chống đối lại dân tộc và đất nước. Âm mưu, thủ đoạn đó chỉ có thể thất bại trước sức mạnh tổng hợp của nước ta được nâng cao, khi chúng ta thực hiện tốt việc Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 4 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho mọi người dân. Vì vậy, việc ý thức bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là vấn đề cấp thiết, nhất là trong tình hình hiện nay. Hơn nữa, việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành cuộc vận động lớn trong cả nước. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng nền quốc phòng – an ninh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm, luận điểm toàn diện bao gồm nhiều nội dung: tư tưởng dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng; tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân; tư tưởng chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ, lấy sức mình là chính; về nghệ thuật quân sự; về xây dựng căn cứ địa-xây dựng hậu phương; xây dựng lực lượng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân… Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp đại học, đề tài chỉ tập trung khai thác những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh trong tư tưởng về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng nền quốc phòng an ninh. - Những quan điểm, chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng lực lượng vũ trang; về xây dựng nền quốc phòng - an ninh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay. 3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu - Đề tài sẽ từng bước làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng nền quốc phòng toàn dân và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Phân tích, đánh giá quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong giai đoạn hiện nay nhằm rút ra những giải pháp góp phần nâng cao sức mạnh quốc phòng - an ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 5 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp cụ thể sau: Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu,… 5. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2 chương, 6 tiết, 69 trang. Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 6 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN; XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN 1.1. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân 1.1.1. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, có tính nhân dân và dân tộc sâu sắc. Xác định bản chất cách mạng cho lực lượng vũ trang là nguyên tắc hàng đầu của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó bắt nguồn từ quan điểm “ lấy dân làm gốc”, coi “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Người chỉ rỏ: “ Không có dân thì không có bộ đội”, còn bộ đội thì “ ở trong dân, bên vực quyền lợi cho dân, vì dân mà hy sinh chiến đấu”, “ tận tâm tận lực vui lòng hy sinh vì sự nghiệp cứu nước, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì cách mạng” [24,tr. 71]. Tư tưởng đó còn xuất phát từ tư tưởng Mác- Lênin rằng: lực lượng vũ trang là công cụ bạo lực của giai cấp, phải tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của chính đảng vô sản. Xuất phát từ những quan điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt tên cho lực lượng vũ trang ta là Lực lượng vũ trang nhân dân và quân đội ta là Quân đội nhân dân. Một trong những nội dung cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu là xây dựng bản chất cách mạng của nó. Khi chưa giành được chính quyền, lực lượng vũ trang cách mạng là một công cụ của Đảng, một tổ chức quần chúng vũ trang đặc biệt của Đảng cùng toàn dân đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Khi đã giành được chính Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 7 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương quyền, lực lượng vũ trang ta trở thành một bộ phận cấu thành của quốc gia mang bản chất cách mạng của chính quyền mới, của Nhà nước mới phát triển từ Nhà nước dân chủ nhân dân thành Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhìn nhận bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang nhân dân có thể xem các mối quan hệ của lực lượng vũ trang nhân dân với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, với nội bộ, với bạn bè và với kẻ thù. Cũng có thể nhận rõ bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở mục tiêu chiến đấu vì Đảng, vì nước, vì dân, do dân và có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lực lượng vũ trang nhân dân là công cụ bạo lực chủ yếu của Đảng, của Nhà nước ta và đó là lực lượng nòng cốt cho toàn dân tiến hành khởi nghĩa vũ trang, giành chính quyền, tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Lực lượng vũ trang ở nước ta trong các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh dân tộc trước kia chủ yếu do giai cấp phong kiến tổ chức và lãnh đạo, mang bản chất của giai cấp phong kiến. Đó là lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến có sự điều hòa về lợi ích dân tộc và mục tiêu chiến đấu với đông đảo quần chúng nhân dân. Đó là nguồn sực mạnh to lớn bảo đảm cho lực lượng vũ trang dân tộc đánh thắng giặc ngoại xâm. Tuy nhiên, lực lượng vũ trang của nhà nước phong kiến và dân chúng đông đảo trong nước có sự đối lập về lợi ích giai cấp và mục tiêu chiến đấu bị hạn chế, nên trong một số thời điểm lịch sử, lực lượng vũ trang không hoàn thành được sứ mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới- thời đại Hồ Chí Minh, đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, nhưng lại khác hẳn về chất so với lực lượng vũ trang trong lịch sử dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân ta, đồng thời là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Người nhấn mạnh: vấn đề cơ bản là phải tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang ta. Theo Người, với việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân, với xác định rõ mục tiêu chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lực lượng vũ trang ta sẽ vững vàng trong mọi tình huống, luôn theo kịp sự chuyển biến to lớn của cách mạng và khi nào cũng giữ được mối liên hệ máu thịt, Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 8 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương mối quan hệ “ cá- nước” với nhân dân lao động, giữ nghiêm kỷ luật quần chúng, vì nhân dân mà phục vụ nhân dân không điều kiện. Mang trong mình bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, lực lượng vũ trang nhân dân ta giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ, quân đội và nhân dân, giữa quân đội và các cơ quan của Đảng, Nhà nước; giữa quân đội ta với quân đội các nước trong khối liên minh ba nước Đông Dương chiến đấu vì chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng chỉ đạo cơ bản trong vây dựng bản chất cách mạng cho lực lượng vũ trang nhân dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ là: “trung với nước, hiếu với dân”. Đó là bổn phận thiêng liêng của mọi cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang ta. Trung với vua, với nước, hiếu với cha mẹ là hai đạo lý lớn của người Việt Nam từ ngàn xưa, nay được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên thành đạo lý cho lực lượng vũ trang nhân dân ở tầm cao mới, sâu sắc hơn. Trung với vua trước kia nay trở thành trung với nước, hiếu với cha mẹ nay gồm cả long hiếu với nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh. Năm 1964, nhân kỉ niệm 20 năm ngày thành lập quân đội, Người chỉ thị rõ hơn: “ trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [17,tr.350] Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng việc xây dựng và không ngừng tăng cường bản chất cách mạng của giai cấp công nhân cho các lực lượng vũ trang coi đó là yếu tố cơ bản cho lực lượng vũ trang ta ngày càng có sức chiến đấu mạnh mẽ, luôn là công cụ bạo lực tin cậy của Đảng và Nhà nước. Bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang nhân dân thể hiện tập trung ở mục tiêu chiến đấu: giải phóng dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong việc xây dựng và không ngừng bồi đắp bản chất cách mạng các lực lượng vũ trang nhân dân Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “trước hết phải có Đảng cách mạng… Đảng có vững cách mạng mới thành công” [8,tr.268]. Và chính Người đã sáng lập, tổ chức ra Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam . Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang nhân dân Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 9 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương nhằm đảm bảo cho lực lượng vũ trang mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân thể hiện đầy đủ và sâu sắc tính nhân dân và tính dân tộc. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng bản chất của lực lượng vũ trang nhân dân . Đảng phải nắm quyền lãnh đạo chặt chẽ các lực lượng vũ trang nhân dân, không thể chia sẻ cho bất cứ giai cấp, đảng phái hoặc cá nhân nào khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang điểm cốt lõi là để xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị, thực chất là để xây dựng đội quân kiểu mới ở Việt Nam theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, quân đội của dân, do dân, vì dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, vừa là lực lượng chính trị tin cậy, vừa là lực lượng vũ trang sắc bén, vừa là đội quân chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Đảng. hết long phục vụ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội. Quá trình lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang hơn nữa thế kỷ qua, là quá trình bảo đảm mọi thắng lợi, trưởng thành của quân đội, không những đánh thắng các đế quốc hùng mạnh, mà còn hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị khác, luôn là lực lượng chính trị đáng tin cậy của nhân dân. Quá trình thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo các lực lượng vũ trang cũng là quá trình xây dựng nên hình tượng Bộ đội Cụ Hồ- một giá trị tinh thần vĩnh cửu. Bộ đội Cụ Hồ không chỉ hoàn thành nhiệm vụ dân tộc, mà còn làm nhiệm vụ quốc tế cao cả, không chỉ trong chiến đấu mà còn trong xây dựng, là lực lượng xung kích cứu giúp nhân dân khi thiên tai lũ lụt, là người lính tiên phong trong công cuộc đấu tranh với những tư tưởng và hành vi sai trái, trở thành những điểm sáng văn hóa trong các sinh hoạt cộng đồng; khi không còn trong quân ngũ, Bộ đội Cụ Hồ về địa phương, cũng vẫn giữ được phẩm cách, truyền thống, là chổ dựa về chính trị của chính quyền và nhân dân nơi cư trú. Một nội dung khác trong xây dựng lực lượng vũ trang được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng là xây dựng về chính trị đây cũng là một nguyên tắc rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Lực lượng vũ trang ta khởi đầu hình thành từ phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân, tuyển chọn trong số hạt nhân tiêu biểu của Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 10 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương quần chúng cách mạng, và ngay từ buổi ấu thơ đó, nó đã thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ phong trào chính trị và hỗ trợ quần chúng đấu tranh cách mạng. Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ phương châm xây dựng quân đội là “ chính trị quan trọng hơn quân sự”. Tư tưởng đó của Người tiếp tục được giữ vững, phát huy cao độ trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang trở thành một công cụ sắc bén của Đảng, lấy bản chất chính trị và mục tiêu chính trị của cách mạng làm nội dung hoạt động. trong hoạt động chính trị quân sự, cán bộ chiến sĩ các lực lượng vũ trang đều phải tuân thủ đường lối chính trị của Đảng. Theo Hồ Chí Minh, chính trị phải được biểu hiện ra trong lúc đánh giặc. Đặt nhiệm vụ chính trị trong mối quan hề với nhiệm vụ quân sự, Hồ Chí Minh khẳng định: “ nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị” [23,tr. 225], quân sự mà không có chính trị, như cây không có gốc vô dụng lại có hại”. [12, tr. 318] Quan điểm coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang về mặt chính trị, xem chính trị là nền tảng, là gốc để tạo cơ sở xây dựng các mặt hoạt động khác. Quân sự phải phục tùng chính trị cũng có nghĩa là đường lối quân sự phải tuân thủ theo đường lối chính trị. Các hoạt động quân sự, công tác đảng, công tác chính trị, công tác hậu cần, kỹ thuật của lực lượng vũ trang phải quán xuyến đường lối chính trị, quân sự, đối nội, đối ngoại của Đảng, từ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và từ Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh coi trọng xây dựng bản chất của lực lượng vũ trang nhân dân về mặt chính trị phản ánh quy luật phát triển khách quan của mối quan hệ chính trị và quân sự, định hướng cho các lực lượng vũ trang hoạt động đúng, đáp ứng với yêu cầu cách mạng, hoàn thành tốt nhiệm vụ. 1.1.2. Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân - một tổ chúc quân sự Việt Nam kiểu mới Lực lượng vũ trang nhân dân được Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục và rèn luyện là lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng kiểu mới gồm các tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Đó thực chất là đội quân của công nông ( đội quân chủ lực hùng hậu của cách mang). Đội quân đó được tổ chức chặt chẽ và vũ trang với mức độ khác nhau, hoàn Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 11 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương toàn thoát ly sản xuất, hoặc không thoát ly sản xuất tự nguyện chiến đấu theo mục đích chính trị của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với truyền thống chống ngoại xâm gắn liền giữa xây dựng và bảo vệ đất nước, dân tộc ta đã sớm thực hiên “ cả nước là binh”, huy động được đông đảo dân chúng tham gia dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao nhất là dân chúng vũ trang kết hợp với quân đội của triều đình. Trừ một số ít trường hợp chỉ có lực lượng vũ trang của dân chúng hoặc chỉ có quân đội triều đình, còn nhìn chung, lực lượng vũ trang thường tổ chức thành ba bộ phận, gồm quân triều đình ( thường gọi là quân trong kinh hoặc cấm quân), quân địa phương ( quân các lộ, các châu) và lực lượng dân binh( hương binh ở vùng đồng bằng, thổ binh ở miền núi). Quân triều đình và quân các lộ, châu là lực lượng vũ trang thường trực của Nhà nước, được tổ chức với số lượng vừa phải và huấn luyện chính quy, tinh nhuệ. Dân binh là lực lượng vũ trang dân chúng rộng rãi, được động viên vào đội ngũ khi xảy ra chiến tranh để chiến đấu tại chổ hoặc tác chiến cơ động theo sự điều động của Nhà nước. Việc kết hợp giữa các bộ phận lực lượng này đã trở thành nguyên lý trong xây dựng lực lượng vũ trang của dân tộc ta thời trước. Là lãnh tụ có tầm nhìn chiến lược, từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc rằng, trong điều kiện đất nước bị ngoại xâm thống trị, nhân dân bị áp bức bóc lột nặng nề, thì vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang được đặt ra cấp thiết, có vai trò quyết định đối với tiến trình phát triển và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sau khi bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam gửi tới hội nghị Vecxay ( 1919) không có kết quả, Người rút ra kết luận: các dân tộc muốn được giải phóng phải “ trong cậy vào lực lượng của bản than mình” [7,tr. 65]. Năm 1924, Người khẳng định: công cuộc giải phóng Việt Nam sẽ được tiến hành bằng cách mạng khởi nghĩa trong cả nước. Muốn thế, phải “ tổ chức càng nhiều càng tốt những nhóm vũ trang của những người nông dân và công nhân tại Việt Nam. Đó là những tế bào có thể hợp thành hạt nhân của cuộc khởi nghĩa” [20,tr.239]. Đây hẳn là luận điểm ghi dấu ấn đầu tiên của Người về tổ chức vũ trang và vai trò của nó trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 12 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng tổ chức quân sự của giai cấp công nhân, kế thừa những kinh nghiệm quý báu của ông cha về chính sách “ngụ binh ư nông”, “tận dân vi binh”,… Hồ Chí Minh xác định phương thức tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân ở Việt Nam gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Đây là phương thức thích hợp trong xây dựng phát triển lực lượng vũ trang cách mạng ở Việt Nam làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giữ nước, vừa đúng với nguyên tắc tập trung lực lượng vừa đáp ứng yêu cầu bí mật, phân tán lực lượng mà vẫn bảo đảm phối hợp hành động và phát huy sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Nhận thức đúng vị trí, vai trò của đội quân chủ lực, vì thế khi quyết định thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “… về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể, sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực” [9, tr.507]. Đồng thời, Người cũng yêu cầu: “… trong khi tập trung lực lượng để thành lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện” [9, tr.507].Cùng với việc xác lập về cơ cấu tổ chức lực lượng, Hồ Chí Minh còn xác định về chiến thuật và phương thức hoạt động “vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung”. Đây không chỉ là đội vũ trang tập trung, chủ lực đầu tiên ở vùng căn cứ Cao - Bắc -Lạng mà còn là đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng cả nước. Với sự ra đời của đội quân chủ lực này, hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng bao gồm ba thứ quân ở nước ta được hình thành: Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân - đội quân chủ lực; các đội vũ trang thoát ly ở các tỉnh, các châu, các huyện và các đội du kích, đội tự vệ chiến đấu ở các làng xã, xí nghiệp, đường phố - lực lượng bán vũ trang địa phương. Bộ đội chủ lực, là bộ phận quan trọng nhất của quân đội thường trực, lực lượng giữ vị trí chiến lược chủ yếu trong đấu tranh vũ trang và kháng chiến, là lực lượng cơ động đánh địch trên chiến trường cả nước. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ đội Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 13 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương chủ lực là tác chiến tiêu diệt những đơn vị cơ động chiến lược của địch, góp phần quyết định làm chuyển biến cục diện chiến tranh, làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho ta để giành thắng lợi. Phối hợp cùng bộ đội địa phương, dân quân du kích, tự vệ và lực lượng chính trị của quần chúng phát triển thế trận chiến tranh nhân dân, chủ động tiến công địch liên tục, rộng khắp trên chiến trường cả nước. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vệ Quốc quân phải lo đánh những trận to để tiêu diệt chủ lực của địch. Phải giúp tổ chức và huấn luyện bộ đội địa phương và dân quân du kích” [11,tr.687]. Bộ đội địa phương, được thành lập theo Sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (7/4/1949), là một bộ phận quân đội thường trực, do cấp uỷ địa phương trực tiếp lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương trực tiếp chỉ huy, dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự cấp trên. Bộ đội địa phương là lực lượng nòng cốt trong đấu tranh vũ trang và chiến tranh nhân dân ở địa phương; cùng bộ đội chủ lực và dân quân du kích, tự vệ tác chiến tiêu diệt, tiêu hao lực lượng quân địch, bảo vệ Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương. Xác định nhiệm vụ tác chiến của bộ đội địa phương, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Bộ đội địa phương phải phụ trách đánh những trận vừa vừa, và phải chuẩn bị chiến trường sẵn sàng khi Vệ quốc quân đánh trận to ở địa phương mình” [11,tr.687].Dân quân du kích, tự vệ (nay là dân quân, tự vệ), ra đời ngày 28/3/1935 theo Nghị quyết về Đội tự vệ của Đảng. Hồ Chí Minh hết sức coi trọng vai trò chiến lược của lực lượng này, bởi vì theo Người: “Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận địch nhân hung bạo thế nào, hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã” [11,tr.132]. Là lực lượng vũ trang quần chúng rộng khắp, tham gia đánh địch tại chỗ bảo vệ xóm làng, đường phố, góp phần tiêu hao lực lượng địch, giam chân, phân tán, chia cắt chúng, làm cho chúng mệt mỏi, đui mù, đói khát và suy yếu. Về ưu thế của lực lượng này, Người nêu rõ: “Quân địch tiến đến chỗ nào, không thuộc địa hình, địa vật bằng dân quân Việt Nam ở chỗ đó. Chúng sẽ bị đánh úp bất ngờ. Trên đường hành quân của chúng, dân quân sẽ phá huỷ đường xá, cầu cống, hoặc chiếm đoạt quân nhu, lương thực, làm cho chúng hao mòn lực lượng” [10,tr.464]. Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 14 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương Theo Hồ Chí Minh, bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ phải gắn bó chặt chẽ với nhau, giúp đỡ nhau để cùng trưởng thành lớn mạnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Người căn dặn: “Đội quân chủ lực… có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên” [9,tr.507]. Bộ đội địa phương “là lực lượng tập trung cơ động trên địa bàn địa phương, cùng dân quân du kích và tự vệ làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân ở địa phương, đồng thời làm lực lượng hậu bị trực tiếp của bộ đội chủ lực”. Dân quân tự vệ “là lực lượng hùng hậu của toàn dân tộc”, “tiến công địch rộng khắp” nhưng cũng là nơi “chọn lọc số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất” để xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, là hình thức tổ chức thích hợp nhất, phù hợp với nghệ thuật quân sự và cách đánh của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Vì thế, đã phát huy sức mạnh to lớn, huy động toàn dân tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ thắng lợi, tiếp tục phát huy trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay. 1.1.3.Kết hợp xây dựng con người, trang bị vũ khí và huấn luyện quân sự, nâng cao sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang nhân dân Trong đấu tranh cách mạng cũng như trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng nhân tố con người. Lực lượng vũ trang ta được hình thành trên cơ sở phong trào cách mạng sôi nổi của nhân dân ta. Con người trong lực lượng vũ trang phải là những con người có giác ngộ chính trị, thấm nhuần lý tưởng của Đảng, trung kiên nhất, hăng hái nhất trong nhân dân, luôn trung thành với lợi ích của nhân dân. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang nhân dân là một tập thể những con người có đạo đức, có tinh thần cách mạng triệt để, được phát triển toàn diện về trình độ giác ngộ chính trị, trình độ kỹ thuật, chiến thuật, có kỷ luật tự giác nghiêm minh, sử dụng mọi thứ vũ khí trang bị có trong tay để đánh thắng quân thù. Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 15 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương Trong khi luôn coi trọng yếu tố trang bị, vũ khí, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh nhân tố con người, xem đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân. Xuất phát từ tư tưởng coi trọng nhân tố con người, tin tưởng vào khả năng của quần chúng cách mạng, Hồ Chí Minh đã nêu luận điểm “ người trước, sung sau”, “ tinh thần của con người phải truyền qua súng”. Nhưng như thế không có nghĩa là coi nhẹ yếu tố vũ khí, trang bị của lực lượng vũ trang. Người đặt con người và vũ khí trong mối quan hệ biện chứng; trong những điều kiện cho phép, phải hết sức chăm lo cho việc trang bị vũ khí và huấn luyện cho lực lượng vũ trang nhân dân. Vì thế, từ những năm còn đang hoạt động ở nước ngoài Người đã xác định phương hướng xây dựng lực lượng vũ trang để làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa và tiến hành chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc, mà ở đó Hồ Chí Minh đề cập tới mối quan hệ giữa con người và vũ khí trang bị. Trong xây dựng lực lượng vũ trang, Người khẳng định phải coi trọng xây dựng con người đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ, tướng lĩnh tài giỏi, xem đó là nhân tố quan trọng quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của các lực lượng vũ trang nhân dân. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định công nông là gốc là chủ lực quân của cách mạng Việt Nam. Vì thế, Người rất chú trọng lựa chọn những người xuất thân từ công nông và trí thức cách mạng, đào tạo họ trở thành những cán bộ ưu tú, những tướng lĩnh tài ba để xây dựng lực lượng vũ trang. Thấm nhuần lời dạy của Người vế phẩm chất cần có của quân nhân cách mạng: “ trí, nhân, dũng, nghĩa, liêm”, đội ngũ cán bộ được đào tạo đã ra sức rèn luyện nhân cách của người cán bộ, chỉ huy các lực lượng vũ trang, trung thành tuyệt đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, tận trung với nước, tân hiếu với dân, hết long thương yêu chiến sĩ có tài thao lược, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Những quan điểm tư tưởng và sự quan tâm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên lĩnh vực xây dựng và phát huy nhân tố con người là một đảm bảo cho sự phát triển vững chắc, liên tục của sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Con người được Đảng và Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện đã có ý thức giác ngộ Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 16 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương chính trị, giác ngộ giai cấp, hình thành nên những con người mới. Đó là những cán bộ có tinh thần chiến đấu cao, có ý thức kỷ luật tự giác nghiêm minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa con người, trang bị vũ khí và huấn luyện cách sử dụng, thấy rõ mối quan hệ của những nhân tố đó đề ra những phương hướng xây dựng thích hợp, phát huy sức mạnh to lớn của lực lượng vũ trang để đánh thắng địch. Trong khi chú trọng nhân tố con người, xem đó là nhân tố quyết định trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời không coi nhẹ trang bị vũ khí. Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn lạc hậu, thiêu thốn phải chóng lại những đội quân xâm lược được trang bị vũ khí hiện đại, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn chăm lo tăng cường trang bị vũ khí cho lực lượng vũ trang cách mạng của mình lúc đầu thường là những vũ khí thô sơ, tương đối hiện đại , sau dân có thêm những vũ khí trang bị hiện đại để đánh địch. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vai trò, vị trí của vũ khí trang bị trong khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam từ khi thực dân pháp xâm lược, Người chỉ ra nguyên nhân không thành công, trong đó có nguyên nhân thiếu vũ khí. Người khẳng định: “ khởi nghĩa thì phải có vũ khí. Đó là một trong những vấn đề quan trọng của cách mạng”. Người còn căn dặn đồng chí Đặng Văn Cáp: “ Cái gì đánh được giặc đều phải dùng cả… Khi có dịp phải rèn dao mác cho du kích” [24,tr.254255]. Sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang được quy định bởi nhiều yếu tố hợp thành, ngoài yếu tố chính trị, tư tưởng, vũ khí, trang bị còn yếu tố đảm bảo vật chất, trình độ kỹ thuật, năng lực tổ chức chỉ huy của đội ngũ cán bộ. Trên cơ sở tổ chức lực lượng hợp lý và những vũ khí trang bị ngày càng được cải tiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc huấn luyện quân sự nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu cho các lực lượng vũ trang . Vấn đề này, ngay từ năm 1925 khi gặp gỡ một số cán bội được cử đi học tại Trường quân sự Hoàng Phố ( Trung Quốc), Người căn dặn: “ không được sao nhãng việc học tập chính trị. Chính trị quân sự phải đi đôi. Cách mạng sau này rất cần đến đội ngũ cán bội quân sự, chính trị giỏi. Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 17 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương Từ khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tổ chức đẩy mạnh công tác huấn luyện quân sự cho lực lượng vũ trang cách mạng. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941), dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, nhiều đội tự vệ đã xuất hiện ở các xã huyện thuộc tỉnh Cao Bằng. Để đáp ứng với yêu cầu huấn luyện quân sự cho các đội tự vệ, Người biên soạn các tác phẩm: Cách đánh du kích, kinh nghiệm du kích Tàu, kinh nghiệm du kích Pháp làm tài liệu học tập. Người còn biên soạn: phép dung binh của Tôn Tử và sách dạy làm tướng của Khổng Minh, đặt dưới một đầu đề mới là cách huấn luyện cán bộ quân sự. Tháng 11 năm 1941, tại lễ thành lập đội vũ trang tập trung của tỉnh Cao Bằng, về huấn luyện quân sự, Người nhắc nhở: “ Không được quên là chúng ta còn có nền quân sự truyền thống quý giá của ông cha”[24,tr.263]. Người trực tiếp duyệt chương trình giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự và chỉ thị cho các đội huấn luyện trong một tuần rồi đi hoạt động. Sau một năm xây dựng cơ sở, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh phong trào cách mạng Cao Bằng phát triển và có đà “ ồ ạt lan tràn khắp xứ”[19,tr.10]. Cùng với sự phát triển của phong trào chính trị, phong trào huấn luyện quân sự của các đội tự vệ được tổ chức khá chặt chẽ ở các xã, huyện suốt những năm 1942-1943. Trước tình hình thế giới có nhiều diễn biến thuận lợi, tháng 4 năm 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng lên một bước mới. Về nhiệm vụ huấn luyện quân sự cho lực lượng vũ trang , chỉ thị nêu rõ: 1- Mỗi làng phải tổ chức một ủy ban quân chính (quân sự, chính trị) toàn làng để huấn luyện quân sự theo ba chương trình là: a- Huấn luyện các đội tự vệ; b- Huấn luyện các đội viên du kích; c- Huấn luyện các cán bộ chỉ huy quân sự ; 2- Tất cả các cán bộ chỉ đạo tỉnh trở lên phải lần lượt được huấn luyện quân sự theo chương trình đại đội trưởng; 3- Mỗi tỉnh cử ra một hay hai, ba đồng chí có khiếu quân sự về dạy cho các đội viên; 4- Mỗi tỉnh cử một đồng chí khá về quân sự làm ủy viên quân sự để trông nôm, đôn đốc việc phát triển và thống nhất các tổ chức tự vệ toàn tỉnh. Thực hiện chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của các cấp bộ đảng, phong trào huấn luyện quân sự của du kích, tự vệ diễn ra ở nhiều địa phương, sôi nổi nhất là ở trung tâm căn cứ địa Cao Bằng. Khi Đội Việt Nam tuyên Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 18 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương truyền Giải phóng quân – đội quân chủ lực đàn anh ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “ Đội quân chủ lực… có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện… làm cho các đội này trưởng thành mãi lên. Đối với các đội vũ trang địa phương: đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thong suốt, phối hợp tác chiến ”[9,tr.507]. Tại các chiến khu, các căn cứ cách mạng và hầu khắp các tỉnh thành của cả nước càng gần tới ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, phong trào huấn luyện quân sự của giải phóng quân các địa phương cùng dân quân du kích, tự vệ và cả một bộ phận đông đảo quần chúng càng trở nên sôi nổi, bừng bừng khí thế giành thắng lợi. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Bộ Tổng tham mưu, cơ quan quân sự cơ mật của Đảng. Đây là cơ quan có nhiệm vụ: “ Tổ chức huấn luyện quân đội cho giỏi… để đánh thắng mọi kẻ thù, bảo vệ thành quả cách mạng ”[22,tr.7]. Tháng 6 năm 1947, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 3 chỉ rõ những yêu cầu về huấn luyện quân sự cho bộ đội: “ luyện tập cho đội viên những động tác chiến đấu cá nhân cho đến trình độ rất thành thục, đặc biệt là động tác xung phong, bắn súng, ném lựu đạn…” [2,tr.170]. Khi cuộc kháng chiến phát triển sang giai đoạn giành thắng lợi quyết định, Tổng Quân ủy chủ trương huấn luyện quân sự phải quán triệt quan điểm thực tiễn của Đảng, từ nội dung đến phương pháp, giải quyết tốt mối quan hệ giữa huấn luyện cơ bản với huấn luyện ứng dụng, sát với thực tế của chiến trường. Nội dung huấn luyện phải phù hợp với trang bị vũ khí và trình độ của lực lượng vũ trang ta. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh , trong những năm 1948 – 1949, bộ đội ta học tập ba kỹ thuật lớn là bắn sung, đâm lê, ném lựu đạn và các kỹ thuật đánh đồn, đánh vận động. Từ những năm 1950 trở đi, bộ đội ta tập trung luyện tập về kỹ thuật bộc phá, đào công sự, chiến thuật công kiên và đánh cứ điểm, công sự vững chắc của địch. Trước những biến chuyển của tình hình mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Báo cáo chính trị đọc tại đại hội đã nêu rõ: “ Trong công việc xây dựng và phát triển quân đội, chúng ta phải Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 19 MSSV: 6075737 Luận văn tốt nghiệp Gv hướng dẫn: Đinh Văn Phương ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và củng cố công tác chính trị và quân sự trong bộ đội ta. Phải nâng cao giác ngộ chính trị, nâng cao chiến thuật và kỹ thuật… Đồng thới phải phát triển và củng cố dân quân du kích về mặt tổ chức, huấn luyện…”[12,tr 171]. Nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, việc huấn luyện cán bộ và cơ quan chỉ huy giữ vị trí vai trò trung tâm. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nuôi quân, luyện quân, dung quân tốt hay không, cán bộ giữ vai trò quyết định, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Nhằm đáp ứng yêu cầu kháng chiến và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ cần khẩn trương đào tạo một đội ngũ cán bộ quân sự đủ về số lượng và chất lượng ngày càng cao. Người xác định: “ Phải tăng cường công tác quân sự, trước hết là phải luôn luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội. Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác… có thể nâng cao chiến thuật và kỹ thuật của bộ đội”[13,tr.14]. Nội dung huấn luyện cán bộ gồm các phần về phẩm chất chính trị, bản lĩnh chiến đấu, năng lực chỉ huy, quản lý bộ đội, trình độ hiểu biết về khoa học kỹ thuật quân sự, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Chiến tranh diễn ra khẩn trương, nội dung huấn luyện cán bộ đòi hỏi phải bám sát thực tế chiến trường. Chủ tịch Hồ Chí Minh , Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy chỉ đạo chặt chẽ các cuộc hội nghị, kịp thời rút ra những bài học kinh nghiệm chỉ đạo nâng cao trình đội năng lực chỉ huy của cán bộ. Tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ các lực lượng vũ trang đề cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu trong công tác huấn luyện ra sức nâng cao sức mạnh chiến đấu của bộ đội để đánh thắng địch. Nhìn chung lại, cũng như đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, trong sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc bồi dưỡng, xây dựng con người, “ người trước, súng sau”. Chiến lược “ trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo nên đội ngũ cán bộ chiến sĩ trung thành với sự nghiệp của toàn dân tộc, với Đảng Cộng sản Việt Nam, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trên cơ sở xây dựng Sv thực hiện: Nguyễn Thanh Tưới 20 MSSV: 6075737
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan