1. Tính cấp thiết của đề tài
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là một trong những chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. 50 năm đã trôi qua, song tầm vóc và giá trị to lớn của nó đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cần được tiếp tục khai thác để tìm ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước hiện nay.
Thắng lợi của kháng chiến chống Pháp là kết quả tất yếu và tổng hợp của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó một nhân tố hết sức quan trọng là cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tư tưởng "toàn dân kháng chiến" hết sức độc đáo và sáng tạo. Đó là cơ sở, nền tảng để Đảng ta hình thành đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, yếu tố quyết định đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình cách mạng thế giới và trong nước diễn biến phức tạp trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng nước ta vừa có thuận lợi vừa gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là thủ đoạn thâm hiểm của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu quán triệt đầy đủ, sâu sắc vai trò to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói chung và cuộc kháng chiến chống Pháp nói riêng càng có ý nghĩa to lớn, quan trọng, đây là việc làm cần thiết, cấp bách góp phần khẳng định cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đồng thời, qua đó góp phần tích cực vào việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, theo tinh thần chỉ thị số 23 (ngày 23 tháng 7 năm 2003) của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Mặt khác, việc nghiên cứu những cống hiến của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này còn góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ lịch sử oanh liệt của dân tộc, thời kỳ toàn dân tộc tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Hồ Chủ tịch, từ đó nâng cao niềm tự hào, lòng kính yêu vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh- Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Trên cơ sở đó, đấu tranh kiên quyết chống lại những quan điểm sai trái, phản động nhằm hạ thấp giá trị, coi nhẹ và phủ nhận vai trò to lớn của Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược cũng như trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam.
Với những ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (9/1945 - 7/1954)" làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
0
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CHỮ VIẾT TẮT
Ban Chấp hành Trung ương
BCHTƯ
Chiến tranh nhân dân
CTND
Chính trị quốc gia
CTQG
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
Chủ nghĩa đế quốc
CNĐQ
Lực lượng vũ trang
LLVT
Lực lượng vũ trang nhân dân
LLVTND
Nhà xuất bản
Nxb
Quân đội nhân dân
QĐND
Quốc phòng toàn dân
QPTD
xã hội chủ nghĩa
XHCN
1
MỤC LỤC
Trang
4
MỞ ĐẦU
Chương 1 TƯ TƯỞNG TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC
9
DÂN PHÁP XÂM LƯỢC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH
1.1 Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến
9
1.2 Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn
22
dân kháng chiến
Chương 2
TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
38
XÂM LƯỢC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(9/1945 - 7/1954)
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chỉ đạo
38
toàn dân chống Pháp xâm lược trong những năm
đầu toàn quốc kháng chiến (9/1945 - 12/1947).
2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chỉ đạo đẩy
55
mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện, làm thất bại nặng
nề âm mưu mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp
(1948-1950).
2.3 Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng động
64
viên toàn dân tập trung sức mạnh đánh bại hoàn
toàn chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp (19511954).
2.4 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến
trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
76
2
KẾT LUẬN
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87
PHỤ LỤC
94
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược là một trong những chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. 50 năm đã trôi qua, song tầm vóc và
giá trị to lớn của nó đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cần
được tiếp tục khai thác để tìm ra những bài học bổ ích cho sự nghiệp dựng
nước và giữ nước hiện nay.
Thắng lợi của kháng chiến chống Pháp là kết quả tất yếu và tổng hợp của
nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó một nhân tố hết sức quan
trọng là cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tư tưởng "toàn dân
kháng chiến" hết sức độc đáo và sáng tạo. Đó là cơ sở, nền tảng để Đảng ta
hình thành đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, yếu tố quyết định đưa
cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Ngày nay, trong bối cảnh tình hình cách mạng thế giới và trong nước diễn
biến phức tạp trước yêu cầu nhiệm vụ mới của cách mạng nước ta vừa có thuận
lợi vừa gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là thủ đoạn thâm hiểm của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu quán triệt đầy đủ, sâu sắc vai trò to lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam nói chung và cuộc kháng chiến
chống Pháp nói riêng càng có ý nghĩa to lớn, quan trọng, đây là việc làm cần
thiết, cấp bách góp phần khẳng định cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh cả về
lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đồng
thời, qua đó góp phần tích cực vào việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh, theo tinh thần chỉ thị số 23 (ngày 23 tháng 7 năm 2003) của Ban Bí thư
Trung ương Đảng. Mặt khác, việc nghiên cứu những cống hiến của Hồ Chí
Minh trong giai đoạn này còn góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ lịch sử oanh
5
liệt của dân tộc, thời kỳ toàn dân tộc tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Hồ
Chủ tịch, từ đó nâng cao niềm tự hào, lòng kính yêu vô hạn đối với Chủ tịch
Hồ Chí Minh- Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Trên cơ sở đó, đấu tranh kiên quyết
chống lại những quan điểm sai trái, phản động nhằm hạ thấp giá trị, coi nhẹ và
phủ nhận vai trò to lớn của Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp
xâm lược cũng như trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam.
Với những ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về
toàn dân kháng chiến trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược (9/1945 - 7/1954)" làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, nổi tiếng với những cống hiến lớn lao
cho cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Vì vậy, cuộc đời và sự
nghiệp cách mạng của Người đã được nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước, quân đội và nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước tìm hiểu, nghiên
cứu ở những góc độ khác nhau.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tư tưởng toàn dân kháng
chiến của Hồ Chí Minh được công bố như: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(sơ thảo), tập 1, (1981), Nxb Sự thật, H. Sự nghiệp tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh (2002), Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng, Nxb QĐND.
Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945 - 1954, tập 1,
tập 2, (1993), Nxb QĐND, H. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, Thắng lợi và bài học (1996), Nxb CTQG, H. Chiến tranh cách mạng
Việt Nam 1945 - 1975, Thắng lợi và bài học, (2000), Nxb CTQG, H. Giáo
trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nxb CTQG, H. Giáo trình tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh (2002), Nxb QĐND, H. Các công trình trêm đã
6
đề cập đến nhiều vấn đề lịch sử quan trọng liên quan đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về toàn dân kháng chiến, nhưng không đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng
toàn dân kháng chiến của Hồ Chí Minh như một công trình khoa học độc lập.
Nhiều chuyên khảo về cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh, trong đó có
đề cập tới tư tưởng toàn dân kháng chiến như: Hồ Chủ tịch và những vấn đề
quân sự của cách mạng Việt Nam của Trường Chinh, QĐND, H, 1971. Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của Võ Nguyên Giáp
(chủ biên) (1997), Nxb CTQG, H. Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ
Chí Minh của Trịnh Nhu- Vũ Dương Ninh (1996), Nxb CTQG, H. Sức mạnh
dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê
Mậu Hãn (2001), Nxb CTQG, H. Hồ Chí Minh người chiến sĩ trên mặt trận
giải phóng dân tộc của Hùng Thắng, Nguyễn Thành (1985), Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội… Đây là những công trình nghiên cứu sâu sắc về cuộc đời, sự
nghiệp và những tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến
tư tưởng về toàn dân kháng chiến.
Ngoài ra, còn nhiều chuyên luận của các nhà khoa học trong và ngoài
nước đã được công bố trên các tạp chí: Cộng sản, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu
lịch sử, Lịch sử quân sự hoặc trong Kỷ yếu của các cuộc Hội thảo khoa học
về Chủ tịch Hồ Chí Minh; các luận án, luận văn chuyên ngành Lịch sử
Đảng… Tất cả các công trình khoa học trên đều đề cập đến tư tưởng Hồ Chí
Minh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và có nhiều giá trị để tác giả kế
thừa vận dụng vào quá trình thực hiện luận văn.
Như vậy, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc gián
tiếp liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến, tuy nhiên
chưa công trình nào đi sâu nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về tư tưởng toàn dân
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược 1945- 1954, với tư cách một đề tài độc lập như tác giả lựa chọn.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Thông qua nghiên cứu nguồn gốc, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
toàn dân kháng chiến và vai trò của Người cùng Trung ương Đảng chỉ đạo toàn
dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954, từ đó khẳng định
cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và giá trị vận
dụng to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến nhằm phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Luận giải nguồn gốc, phân tích nội dung cơ bản và tính đúng đắn
sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến chống Pháp
xâm lược.
Trình bày chân thực những thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân
kháng chiến của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945 - 1954).
Nêu lên phương hướng sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân
kháng chiến trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tư tưởng toàn dân kháng chiến của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
(1945-1954).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận để thực hiện đề tài là quan điểm, phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về vai trò của quần chúng cách mạng và xây dựng lực
lượng cách mạng.
8
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lô
gíc, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu và trình bày của khoa học
lịch sử như: phương pháp đồng đại, lịch đại, phương pháp so sánh, thống kê,
tổng kết lịch sử… để thực hiện mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sâu sắc thêm vai trò to lớn
của Hồ Chí Minh với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng; thấy rõ giá trị vận dụng to lớn
của tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến trong giai đoạn hiện nay,
làm cơ sở chống lại những quan điểm sai trái, phản động xuyên tạc, hạ thấp
vai trò của Hồ Chí Minh và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp; nâng
cao lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và thắng
lợi của cách mạng trong giai đoạn mới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu,
giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các
nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương 6 tiết.
9
Chương 1
TƯ TƯỞNG TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
XÂM LƯỢC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1.1. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn dân kháng chiến
1.1.1. Nguồn gốc lý luận, tư tưởng
Hồ Chí Minh tiếp thu những giá trị nhân bản của văn hoá phương
Đông và phương Tây.
Với lòng yêu nước, thương dân nồng nàn, với mục đích cao cả giải
phóng đất nước, giải phóng nhân dân và một trí tuệ thông minh, tinh thần
ham học hỏi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tham khảo nhiều chủ
thuyết, các trào lưu tư tưởng về tập hợp lực lượng cách mạng của các bậc
tiền bối trên thế giới và khu vực để làm giàu trí tuệ cho mình và tìm đường
cứu nước. Với Tôn Dật Tiên- lãnh tụ của Quốc dân Đảng ở Trung Quốc,
Người tổ chức lãnh đạo cách mạng Tân Hợi năm 1911, nhờ có chủ trương
tập hợp lực lượng đông đảo, không phân biệt giai cấp, cùng với chính sách:
Liên Nga, hợp tác với Đảng Cộng sản Trung Quốc, ủng hộ công - nông, đã
tạo ra một phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ thời kỳ 1924 - 1926.
Do vậy, chủ nghĩa Tôn Dật Tiên được đánh giá là một học thuyết tiến bộ,
đồng thời đã có tác động ảnh hưởng khá lớn đến các nhà yêu nước Việt
Nam, trong đó có Hồ Chí Minh. Với quan điểm tiếp thu và kế thừa có chọn
lọc, Hồ Chí Minh đã có nhận xét: chủ nghĩa Tôn Dật Tiên là một học thuyết
tiến bộ có nhiều điểm phù hợp với Việt Nam.
Đối với nhà ái quốc vĩ đại của Ấn Độ- Ma hát ma-Gandhi, đã giương
cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, thức tỉnh, tập hợp lực lượng toàn dân nhằm
đấu tranh giành độc lập dân tộc, đó là tư tưởng có tác động ảnh hưởng
không nhỏ tới nhiều nước ở khu vực và châu Á.
10
Nghiên cứu, tiếp thu văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ
những giá trị nhân bản của Nho giáo, Phật giáo. Đó là tinh thần "mưu cầu hạnh
phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội" (Khổng tử), như Hồ Chí
Minh đã nhận xét; đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, thương yêu con người,
chống lại phân biệt đẳng cấp của Phật giáo.
Những học thuyết, tư tưởng tiến bộ, những tinh hoa văn hoá phương Đông
đã được Hồ Chí Minh nghiên cứu tiếp thu những mặt tích cực, khắc phục những
hạn chế để sớm hình thành quan điểm tư tưởng hết sức đúng đắn về sức mạnh
của toàn dân trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Là một người phương Đông yêu nước, ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân,
Hồ Chí Minh đã có một thời gian dài nghiên cứu tham gia hoạt động cách mạng
ở phương Tây. Ở đó những giá trị nhân bản của văn hoá phương Tây cũng được
Hồ Chí Minh nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc. Những hạt nhân hợp lý trong tư
tưởng "Tự do, bình đẳng, bác ái" của đại cách mạng tư sản Pháp vốn rất hấp dẫn,
nó đã đến với Người qua một số nhà hoạt động chính trị ngay từ khi còn đi học.
Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, qua hoạt động, học tập nghiên cứu tiếp cận
văn hoá phương Tây đã giúp Hồ Chí Minh hiểu rõ tinh thần "nhân dân là sức
mạnh không ai chế ngự nổi" (Vonte). Người cũng hiểu sâu sắc quan điểm của
Mông tetskiơ: "với một ngàn cánh tay, nhân dân có thể lật đổ tất cả"…
Là một người vốn giàu lòng yêu nước, thương dân, khi được tiếp thu những
tinh hoa văn hoá thế giới đã có tác dụng to lớn góp phần bổ xung, phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn
dân, tổ chức tập hợp lực lượng toàn dân đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân dân.
Hồ Chí Minh trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin về
vai trò quần chúng trong cách mạng.
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, mà cốt
lõi là quan điểm về sức mạnh của quần chúng trong cách mạng vô sản là
11
nhân tố quan trọng nhất để hình thành tư tưởng toàn dân kháng chiến của
Hồ Chí Minh.
Theo lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử, người quyết định tiến trình phát triển của lịch sử. Do vậy "Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng".
Đề cập đến vai trò của quần chúng nhân dân là vấn đề cơ bản đầu tiên
mà Mác đã quan tâm trong nghiên cứu lý luận và hoạt động cách mạng của
mình. Đây là mốc đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng của Mác từ chủ nghĩa
duy tâm sang chủ nghĩa duy vật trong lĩnh vực xã hội.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, quần chúng nhân dân bao gồm
đông đảo các tầng lớp nhân dân, họ là những người bị bóc lột khổ cực. Quần
chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội ; trực tiếp sáng tạo ra
mọi của cải của xã hội. Quần chúng nhân dân có vai trò chuyển hoá lý luận
cách mạng thành hiện thực cách mạng. Lý luận một khi nó xâm nhập vào
quần chúng sẽ trở thành một lực lượng vật chất mạnh mẽ nhằm thực hiện sự
cải tạo xã hội, vì theo lý luận chủ nghĩa Mác: "Lực lượng vật chất chỉ có thể
bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất" [21, 580]. Lịch sử phát triển của xã hội
loài người có lúc quanh co phức tạp, song tất yếu phải theo một trật tự nhất
định nhờ có hoạt động của quần chúng. Bởi vậy Ăng ghen khẳng định: quần
chúng là những người đã đưa mọi việc trở lại nền nếp.
Trong cách mạng vô sản, giai cấp vô sản muốn giành thắng lợi, nhất thiết
phải có sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân, đặc biệt là của nông
dân. Mác coi sự ủng hộ của lực lượng nông dân đông đảo đối với phong trào
vô sản là một bài đồng ca, nếu không có bài đồng ca đó thì cách mạng vô sản
sẽ trở thành "một bài ai điếu".
Đề cập đến vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân trong cách mạng
vô sản cũng như trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Lênin đã khẳng định:
12
"Một khi chiến tranh đã không thể tránh được, thì phải dốc tất cả cho chiến
tranh", không một người nào dù ở đâu và làm nhiệm vụ gì được trốn tránh
nghĩa vụ này. Và trong chiến tranh thì khẩu hiện phải là "Tất cả cho chiến
tranh" [19,175]. Bởi vậy, khi ra lời kêu gọi "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm
nguy", Lê nin tuyên bố: Tất cả mọi lực lượng, mọi tài nguyên của đất nước
đều phải giành cho công cuộc bảo vệ cách mạng; tất cả lực lượng của nhân
dân đều phải được động viên cho cuộc chiến tranh đó.
Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính, lòng yêu thương vô hạn đối với
những người dân lao khổ và niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng
toàn dân đã thôi thúc Hồ Chí Minh quyết ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.
Nhờ tích cực hoạt động trong phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế,
Người đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin khi đọc "Sơ thảo lần thứ nhất luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy ở đó con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam- con
đường cách mạng vô sản. Người đã tin và theo Lênin, vì chủ nghĩa Lênin đã
bênh vực quyền lợi của các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa Lênin đã chỉ ra con
đường tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng cách mạng toàn thế giới,
lực lượng cách mạng ở thuộc địa, thức tỉnh nhân dân lao khổ toàn thế giới
đứng lên làm cách mạng. Đặc biệt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin
về vai trò của quần chúng trong cách mạng, về cách thức tổ chức, xây dựng
lực lượng cách mạng là cơ sở khoa học, có ý nghĩa lý luận dẫn đường để Hồ
Chí Minh xem xét đánh giá đúng những yếu tố tích cực, những mặt hạn chế
của các di sản truyền thống dân tộc, văn hoá thế giới, những quan điểm tư
tưởng về tập hợp lực lượng cách mạng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền
bối và các nhà tư tưởng cách mạng trên thế giới, trên cơ sở đó hình thành tư
tưởng toàn dân kháng chiến của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, Hồ Chí Minh khẳng
định chủ nghĩa Mác-Lênin là cái "cẩm nang thần kỳ", là "Kim chỉ nam", là
"con đường giải phóng cho chúng ta". Nhưng theo Người, học tập tiếp thu chủ
13
nghĩa Mác-Lênin không được "giáo điều", máy móc. Vì chủ nghĩa Mác-Lênin
đã giải đáp được yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam, song đó mới chỉ là
phương hướng, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Muốn giành
thắng lợi, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam phải biết vận dụng
sáng tạo lý luận Mác-Lênin để đề ra chủ trương, đường lối, phương pháp cách
mạng phù hợp thực tiễn Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, đó mới là hiểu và
thấm nhuần lý luận Mác-Lênin, thể hiện sự trung thành và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam.
1.1.2. Nguồn gốc thực tiễn
Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển truyền thống toàn dân đánh giặc của
dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng và giữ nước.
Dân tộc Việt Nam nằm ở khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa nên có nhiều
điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển của nền văn minh nông nghiệp
trồng lúa nước, đồng thời phải thường xuyên đối phó với sự khắc nghiệt của
thiên tai. Đó là những yếu tố khách quan tác động đến việc hình thành ý thức
cộng đồng của con người Việt Nam từ rất sớm. Sức mạnh của cộng đồng dân
tộc chống thiên tai được phản ánh sinh động qua truyền thuyết sơn tinh, thuỷ
tinh. Hệ thống đê điều đồ sộ cùng biết bao nhiêu công trình thuỷ nông lớn nhỏ
thể hiện sức mạnh của nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam tạo dựng nên.
Mặt khác, do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng của Đông nam châu Á và thế
giới, lại tương đối giàu tài nguyên khoáng sản; nằm cạnh một đế chế phong
kiến to lớn luôn có tư tưởng bành trướng, nên từ xưa đến nay nước ta luôn bị
các thế lực ngoại bang đe doạ thôn tính, xâm lược. Hoàn cảnh lịch sử và địa
lý đặt ra cho dân tộc ta luôn phải chống ngoại xâm trong điều kiện hết sức
khắc nghiệt, trong điều kiện so sánh lực lượng quá chênh lệch. Kẻ thù dân tộc
thường là những thế lực hùng mạnh với đạo quân xâm lược đông gấp nhiều
lần quân ta, như : nhà Tống xâm lược nước ta (1075 - 1077) có 30 vạn quân,
khi đó Đại Việt dân số chỉ hơn 4 triệu người với 5 đến 7 vạn quân thường
14
trực. Quân Nguyên khi tiến hành xâm lược Đại Việt (thế kỷ XIII) đã huy động
gần 1 triệu lượt quân, trong khi nước ta chỉ có khoảng 5 đến 6 triệu dân và
quân thường trực nhà Trần lúc cao nhất chỉ khoảng 30 vạn… Song thực tế,
các đạo quân xâm lược hùng mạnh đó (kể cả những đạo quân từng tung hoành
vó ngựa đi xâm lược và thống trị nhiều dân tộc từ Tây sang Đông), nhưng khi
đến Việt Nam đều phải chịu thất bại bởi sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc
Việt Nam, sức mạnh của truyền thống yêu nước, toàn dân đánh giặc giữ nước.
Ví như khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43) giành thắng lợi, đập tan ách
thống trị của nhà Hán, do đã lôi kéo tập hợp được đông đảo người dân yêu
nước tham gia. Nhà Lý (thế kỷ thứ XI) thực hiện kháng chiến chống quân
xâm lược Tống thành công lẫy lừng bởi biết dựa vào đông đảo các tầng lớp
nhân dân, các dân tộc phía Bắc để xây dựng lực lượng quốc phòng hùng
mạnh, đánh bại kẻ thù.
Đặc biệt, thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIII), nhờ nhận rõ vai trò sức mạnh
của nhân dân, với chủ trương đúng đắn "khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền
gốc". Cùng với chính sách phù hợp "ngụ binh ư nông ", "bách tính giai binh".
Trăm họ đều là lính, cả nước ra quân, thể hiện sự đoàn kết trên dưới đồng
lòng, anh em hoà thuận, cả nước chung sức, toàn dân đánh giặc. Đó là những
yếu tố quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân, thực hiện ba lần
đánh bại quân Nguyên Mông hung bạo, giữ yên bờ cõi nước nhà.
Vào thế kỷ XV, khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo,
nhờ nhận rõ sức mạnh của nhân dân "đẩy thuyền là dân" và "lật thuyền là
dân", "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", chủ trương tập hợp "bốn phương manh
lệ" dưới ngọn cờ cứu dân cứu nước để tiến hành khởi nghĩa. Vì thế qua 10
năm kháng chiến trường kỳ nghĩa quân Lam Sơn đã đánh bại giặc Minh,
giành lại giang sơn gấm vóc.
Từ thế hệ này qua thế hệ khác, qua thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ
nước ông cha ta đã tôi luyện nên tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự chủ.
15
Trước hoạ xâm lăng, thái độ duy nhất của toàn dân tộc là quyết đứng lên
chiến đấu "quét sạch nó đi". Điều đó được thể hiện sâu sắc ở lời tuyên bố
đanh thép của Trần Thủ Độ vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo" (1258); những
tiếng hô "quyết đánh" của các bô lão vang lên trong Hội nghị Diên Hồng, mùa
đông năm 1284; tinh thần quyết chiến của Trần Quốc Tuấn: "Bệ hạ muốn
hàng trước hết hãy chém đầu tôi đi đã"; tinh thần chiến đấu dũng cảm của
Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản.v.v.. Đó chính là tinh thần xả thân vì nước,
quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, giống nòi đã trở thành truyền thống quý báu của
dân tộc ta. Trong cuộc chiến gay go phức tạp, gian khổ hy sinh, có khi thất bại
tạm thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào lòng yêu nước, chí căm thù giặc
luôn rực sáng trong tâm can mỗi người Việt Nam. Cuộc sống tủi nhục trong
cảnh nước mất nhà tan cùng với cuộc đấu tranh trường kỳ chống ngoại xâm
càng làm cho mỗi người Việt Nam thấy rõ bản chất tàn bạo dã man của quân
xâm lược, nhận thức sâu sắc hơn về giá trị cuộc sống độc lập, tự do mà càng
hăng hái trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung.
Như vậy, thực tiễn đấu tranh không mệt mỏi của nhân dân ta trong chống
thiên tai đe doạ và chống ngoại xâm bảo vệ bờ cõi qua hàng ngàn năm lịch sử,
đã hun đúc tạo dựng nên chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và đã trở thành một
truyền thống bền vững từ đời này sang đời khác. Đó là "sợi chỉ đỏ" xuyên
suốt toàn bộ lịch sử dân tộc, là tư tưởng tình cảm thiêng liêng nhất của nhân
dân ta. Yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp dựng nước và giữ nước trở
thành một lẽ sống tự nhiên, ý thức cộng đồng người Việt Nam, thành phép
ứng xử và tư duy chính trị của mỗi người: "Tình làng, nghĩa nước, nước mất
thì nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh"[6, 83].
Vì vậy, chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát huy sức mạnh của toàn dân
trong dựng nước và giữ nước là một yêu cầu tất yếu khách quan, là việc làm
thường xuyên của mọi triều đại Nhà nước Việt Nam từ xưa đến nay, đó là
16
nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Ngược
lại, nếu không chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát huy sức mạnh toàn dân đánh
giặc như dưới thời An Dương Vương, Hồ Quý Ly và Tự Đức tất yếu phải
gánh chịu thất bại cay đắng. Điều đó được thể hiện trong câu nói của Hồ
Nguyên Trừng như một sự tổng kết kinh nghiệm trong dựng nước và giữ
nước "không sợ giặc mạnh mà chỉ sợ lòng dân không theo".
Truyền thống yêu nước nông nàn, ý chí kiên cường bất khuất trong chống
thiên tai và chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa truyền lại
đã thấm sâu và trở thành nếp nghĩ, việc làm hàng ngày của mỗi con người, mỗi
gia đình, mỗi tập thể, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam và trở
thành thứ tài sản vô giá của dân tộc ta. Hồ Chí Minh là người ý thức sâu sắc giá
trị truyền thống quý báu đó, Người đã tổng kết: "Dân ta có một lòng nồng nàn
yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc
bị xâm lăng, thì tinh thần yêu nước ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và cướp nước"[64, 171].
Sự tổng kết hết sức cô dọng, sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện
sự thấu triệt đầy đủ giá trị to lớn của truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết
dân tộc. Theo Người, kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước của toàn dân tộc
nhằm làm cho "Cuộc kháng chiến của ta tập trung tất cả cái tinh thần quật cường
yêu nước của giống nòi Hồng Lạc lưu truyền từ mấy ngàn năm…" [51,440].
Như vậy, truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc là cơ sở đặc biệt quan
trọng để Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển trong điều kiện mới, hình thành nên tư
tưởng toàn dân kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm vai
trò to lớn của quần chúng.
Thực tiễn thế giới:
17
Lịch sử chiến tranh xảy ra trên thế giới từ xưa đến nay cho thấy (trừ
dưới thời trung cổ, chiến tranh là sự đọ sức, đọ tài chủ yếu giữa các "tướng
quân" thủ lĩnh của các bên tham chiến), nhân tố quyết định thắng lợi trong
các cuộc chiến tranh là sức mạnh của đông đảo quần chúng nhân dân tham
gia. Cuộc đại cách mạng tư sản ở Pháp, cách mạng tư sản Anh, Mỹ, tuy là
những cuộc "cách mạng không đến nơi" nhưng đã giành thắng lợi, nhờ giai
cấp tư sản đã lôi kéo được đông đảo dân chúng tham gia. Công xã Pari thất
bại do giai cấp vô sản chưa tập hợp được đông đảo nông dân và các tầng lớp
lao khổ khác cùng chiến đấu. Cách mạng Tháng Mười Nga thành công vì
biết tập hợp đông đảo quần chúng công- nông- binh, dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân.
Từ chủ nghĩa yêu nước ra đi tìm đường cứu nước, đó là quá trình Hồ Chí
Minh nghiên cứu, khảo sát tỷ mỉ, toàn diện tình hình các nước tư bản chủ
nghĩa và thuộc địa phụ thuộc trên thế giới. Bằng vốn tri thức uyên thâm,
phong phú, Hồ Chí Minh đã nhanh chóng rút ra những tổng kết quan trọng.
Theo Người, trên thế giới chỉ có hai hạng người: bóc lột và bị bóc lột. Muốn
xoá bỏ áp bức bóc lột, chỉ có một cách là tập hợp toàn thể nhân dân lao động,
những người bị áp bức bóc lột để đánh đổ toàn bộ giai cấp bóc lột. Nhờ
nghiên cứu sâu sắc, nhìn rõ bộ mặt tàn ác của chủ nghĩa thực dân- Đế quốc và
nỗi thống khổ của nhân dân lao động, Người khẳng định tiềm năng cách mạng
to lớn, sức mạnh vô địch của nhân dân các dân tộc thuộc địa nếu họ được thức
tỉnh, được giáo dục, tổ chức và lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh: ngày mà hàng
trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột
đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực
lượng khổng lồ… Với Đông Dương, Người chỉ rõ: Đằng sau sự phục tùng
tiêu cực, người Đông Dương đang che dấu điều gì đó, sôi sục ghê gớm và nó
sẽ bùng nổ dữ dội khi thời cơ đến.
18
Thực tiễn lịch sử cách mạng thế giới đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết đúc
rút thành bài học lớn về phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, tổ chức
tập hợp lực lượng toàn dân có ý nghĩa quyết định thành bại của cách mạng.
Đây là một trong các nhân tố quan trọng để hình thành tư tưởng toàn dân
kháng chiến của Hồ Chí Minh.
Thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam từ khi Pháp xâm lược
Không cam chịu kiếp sống trâu ngựa dưới ách đô hộ của thực dân Pháp,
với truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất chống ngoại xâm của dân
tộc, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân ta diễn ra cuối thể kỷ
XIX đầu thế kỷ XX hết sức sôi nổi, bền bỉ với tinh thần :"Bao giờ nước Nam
hết cỏ thì mới hết người Nam đánh Tây". Ngay khi Pháp nổ súng đánh chiếm
Đà Nẵng (1858) nhiều đội quân nông dân khắp mọi nơi kéo về phối hợp với
quân Triều đình đánh giặc, gây cho địch nhiều khó khăn tổn thất. Khi Pháp
đánh chiếm Nam bộ lại gặp nhiều cuộc khởi nghĩa bùng nổ mạnh mẽ như
khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân… Đến
khi Pháp thực hiện song việc xâm lược cả nước ta thì một phong trào chống
Pháp với danh nghĩa cần vương lại nổ ra sôi nổi trên phạm vi khắp cả nước
với nhiều cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Khởi nghĩa Hương Khê (18851896), khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) và khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886 1892), khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 - 1889)…
Sang đầu thế kỷ XX, phong trào chống Pháp phát triển lên một bước mới
theo tư tưởng dân chủ tư sản với nhiều hình thức hoạt động phong phú và sôi
nổi: phong trào Đông Du do Phan Bộ Châu lãnh đạo (1904 - 1909) với chủ
trương bạo động vũ trang và "xuất dương cầu viện"; phong trào Đông Kinh
nghĩa thục của Lương Văn Can và Nguyễn Quyền lãnh đạo, hoạt động nhằm
thúc đẩy tinh thần dân tộc, phát triển văn hoá…; phong trào Duy Tân (19061908) do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng lãnh đạo
19
nhằm vận động cải cách văn hoá, xã hội, động viên lòng yêu nước, đấu tranh
cho dân tộc thoát khỏi ách ngoại bang. Tiêu biểu trong phong trào đấu tranh
vũ trang đầu thế kỷ XX, là cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa
Thám đứng đầu đã gây cho Pháp nhiều tổn thất.
Các phong trào yêu nước, chống Pháp kể trên phản ánh thực tế tinh thần
yêu nước và lòng quả cảm của các sĩ phu yêu nước là hết sức đáng khâm phục,
nhưng các phong trào đều chung kết cục thất bại. Đó là thất bại của ý thức hệ
phong kiến, thất bại của một chế độ xã hội đã suy tàn và sự bế tắc của con
đường cách mạng dân chủ tư sản "cách mạng không triệt để". Do hạn chế của
lịch sử khiến các nhà yêu nước Việt Nam lúc đó không giải thích được nguyên
nhân thất bại trong sự nghiệp cứu nước của mình, như Phan Bội Châu không
hiểu nổi tại sao cuộc đời cách mạng của mình lại bị "một trăm thất bại mà
không một thành công". Cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
rơi vào thời kỳ khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước giải phóng dân tộc.
Thực chất là thiếu một giai cấp tiên tiến lãnh đạo với một đường lối cách mạng
đúng đắn để có thể tập hợp, huy động lực lượng toàn dân đông đảo, tạo sức
mạnh tổng hợp đánh đuổi đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc. Đây là một
cơ sở thực tiễn quan trọng, góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về toàn
dân kháng chiến.
Thực tiễn cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đặt ra yêu
cầu phát huy sức mạnh toàn dân.
Đặc điểm, tính chất cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
của nhân dân ta là yếu tố hết sức quan trọng, nó đặt ra những điều kiện và yêu
cầu cấp thiết cho việc tập hợp, xây dựng lực lượng kháng chiến.
Trước hết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân
dân ta là một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Tính chất chính nghĩa là yếu tố
thuận lợi cơ bản của chúng ta trong tiến hành tập hợp lực lượng kháng chiến.
20
Ngược lại, tính chất xâm lược phi nghĩa là điểm yếu cơ bản không thể khắc
phục được đối với thực dân Pháp.
Cách mạng tháng 8/1945 thành công không được bao lâu, thực dân Pháp
với bản chất hiếu chiến đã lập tức quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Dân tộc Việt Nam bị đặt trước hai con đường: "Một là khoanh tay, cúi đầu trở
lại nô lệ; hai là đấu tranh đến cùng để giành lấy tự do và độc lập"[33,483].
Trải qua hơn 80 năm sống dưới ách nô lệ của thực dân Pháp, hơn ai hết
nhân dân Việt Nam hiểu sâu sắc giá trị thiêng liêng cao cả của "độc lập tự do"
và nỗi nhục của người dân mất nước. Vì vậy, mục đích cao cả, thiêng liêng
của cuộc kháng chiến là giành độc lập, thống nhất thực sự cho Tổ quốc, thực
hiện tinh thần "thà chết chứ không chịu mất độc lập và tự do". Mục tiêu đặt
ra của kháng chiến nhằm bảo vệ nền độc lập của dân tộc, bảo vệ cuộc sống tự
do, dân chủ cho toàn thể nhân dân, đây là điều kiện tiên quyết cho phép huy
động, tập hợp toàn dân kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Như Lênin đã
chỉ rõ: "Việc quần chúng nhận thức mục đích và nguyên nhân của chiến tranh
có một tầm quan trọng to lớn và đó là sự bảo đảm cho thắng lợi"[ 20, 147].
Tư tường toàn dân kháng chiến đáp ứng nguyện vọng ý chí của toàn thể
dân tộc Việt Nam, quyết hy sinh vì độc lập Tổ quốc bởi mỗi người Việt Nam
đều nhận rõ: "Tổ quốc là Tổ quốc chung. Tổ quốc độc lập thì ai cũng được tự
do. Nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ… Vì vậy ai cũng phải kháng
chiến"[34, 485] . Tính chất chính nghĩa giúp cho toàn dân tuyệt đối tin tưởng
và đi theo Đảng, Bác Hồ tiến hành kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng như
lời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định với đồng bào Nam Bộ và cả nước:
"Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc
dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc chiến đấu của chúng ta là chính
đáng"[25,27].
- Xem thêm -