Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về đảng cầm quyền...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về đảng cầm quyền

.PDF
100
34
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC (ỈIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỤC XÃ HỘI VÀ NHẢN VĂN L Ư Ơ N G M IN H H Ạ N H T ư TƯỞNG HỔ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỂN CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHÚNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH s ử M Ã SỐ 5.01.02 L U Ậ N V Ẫ N T H Ạ C SỸ T R IẾ T H Ọ C N gười hướng dẩn khoa học: P(ỈS Bùi T h a n h Q u ấ t HÀ NỘI - 2005 MỤC LỤC Lời nói đâu Trang 1. Lý do chọn đề tài 3 2. Tinh hình nghiên cứu đe tài 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 6 6. Đóng góp của luận văn 6 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6 8. Kết cấu của luận vãn 6 ('hương 1. Cơ sở lý luận và thực tiền hình thành tư tưững Hổ Chí Minh vè Đảng cầm quvền. 1.1. Quan điểm của chú nghĩa Mác - Lènin về Đảng cộng sản 7 1.1.1 Quan điểm của c. Mác và Ph. Ảng ghen 7 1.1.2. Quan điểm của V.I. Lênin 14 1.2. Thực tiễn cách mạng Việt Nam, thế giới cuối thế kỷ XIX 22 đầu thê ký XX đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền 1.2.1. Thụt' tiền đáu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam 22 cuối thê kỷ XIX đầu thế ký XX 1.2.2. Thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của nhân ciân thê giới 28 cuối thê ký XIX - đầu thế kỷ XX Chương 2. Một sô nội dung cơ bản về Đảng cầm quyền trong 37 tư tưởng Hồ Chí Minh 2.1. Tính tất yếu phái có Đảng cộng sản cầm quyền lãnh đạo 37 cách mạng Việt Nam 2.2. Đáng cộng sản cầm quyền lãnh đạo nhân dân xây dựng 50 Nhà nước cùa dân do dân và vì dân 2.3. Đoi mới chinh đôn Đáng trong điều kiện Đáng cầm quyền. 57 Chương3. Vận dụng tư tướng Hổ Chí Minh vé Đáng cầm quvén trong thời kỳ đổi mới 3 .1. Tãng cường sự lãnh đạo của Đàng là nhân tô thành công của cách tnạng Việt Nam 3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đáng đỏi với Nhà nước và xã hội 3.3. Nâng cao sức nãng lực và chiến đâu của Đáng trong thời kỳ đổi mới Ket luận I>dnh mục tài liệu tham khảo LỜI NÓI ĐẨU 1. LÝ DO CHỌN ĐÊ TÀI Giú tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đáng cộng sán Việt Nam. Tên tuổi của Người luôn gán với sự nghiệp cách mạng cúa Đáng, với vận mệnh của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thô dân tộc Việt Nam. Đi theo con đường của Người dã lựa chọn, Đảng và nhân dân ta đã giành được những thắng lợi ngày càng to lớn trong công cuộc đâu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chù tịch Hồ Chí Minh không những chí là vị lãnh lụ thiên tài của dân tộc, một chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản Quốc tế mà còn là danh nhân văn hoá của thế giới. Từ kinh nghiệm lịch sử và những yêu cầu cấp bách trong sự nghiệp đổi mới đát nưóe, Đáng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đáng ta lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tương Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tướng và kim chi nam cho hành động” 112,127]. Chủ tịch Hổ Chí Minh đã đê lại cho chúng ta một di sản vỏ gía về tư tương, đạo đức, lối sống; về phương thức lãnh đạo, tác phong công tác. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hổ Chí Minh thể hiện ở rất nhiều lĩnh vực. trong đó tư tướng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản, đặc biệt là trong giai đoạn Đảng cộng sản cầm quyền, lãnh đạo quá trình xây dựng đất nước là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưứng của Người về con đường cách mạng Việt Nam . Chúng ta có thể thấy, tư tưởng về xây dựng Đáng cộng sản Việt Nam tổ chức chính trị đại diện cho lợi ích của của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc - được thê hiện đậm nél trong nhiều bài nói, bài viết của Hổ Chí Minh . Vấn đề đặt ra là tại sao tư tưứng của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cộng sản trong sạch, vững mạnh đú sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam lại đậm nét như vậy. Tư tưởng đó được hình thành trên những cơ sở nhũng tiền đề lý luận và thực tiễn nào?. Việc khảo sát và nghiên cứu để tìm ra lời giải đáp cho những câu hỏi đó không những góp phấn vào việc làm sáng tỏ hơn 3 tư tưởng Hổ Chí Minh vé Đáng cầm quyền mà còn có thê gợi mớ nhiéu vân đề cho thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay. Kinh nghiệm lịch sử thế giới đã cho thấy, hất kỳ một giai cấp nào muôn làm cách mạng thành công đều phái tìm ra hoặc xây dựng cho mình một hệ tư tưởng tiên tiến. Hệ tư tưởng đó vừa là cơ sơ định hướng cho các chiến lược cách mạng vừa là vũ khí tinh thần của lực lưựng cách mạng. Đặc hiệt, khi vũ khí tinh thần ấy được thâm nhập vào lực lượng quần chúng thì nó cũng trở thành một lực lượng vật chất tham gia trực tiếp vào quá trình cải tạo xã hội. Với suy nghĩ và góc nhìn đó, tôi đã chọn “Tư tướng Hổ Chí Minh về Đảng cầm quyền” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ Triết học của mình. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN c ú u ĐỀ TÀI Trong những năm qua, nhất là sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, đã xuất hiện nhiều công trình, nhiều bài viết và nghiên cứu tư tướng Hồ Chí Minh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, vãn hoá, xã hội và con người. Trong sô đó, cũng đã có một số công trình hàn đến tư tuởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và vận dụng tư tưởng này vào thực tiễn đổi mới ớ nước ta hiện nay có thê kể tên một số c ô n g trình sau: - ‘Tư tướng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản” của PGS TS Mạch Quang Tháng Nhà xuâí bán chính trị Quốc gia 1995. - “Nghiên cứu tư tuởng Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo Nhà nước” của Nguyền Duy Gia, Trần Đình Huỳnh- Nhà xuâí bản Chính trị Quốc gia 19%. - “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền” Trần Đình Huỳnh ( chú biên) - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1996. - “Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước” của Trần Đình Huỳnh - Nhà xuất bản Hà Nội 2001. - “Tư tưưng Hổ Chí Minh về vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đíing trong điều kiện Đảng cầm quyến” PGS Lê Vãn Lý (chủ biên) - Nhà xuất bản chính trị Quốc gia 2002. - “Tư tướng Hồ Chí Minh vế Đang cầm quyền” của Trần Đình Huỳnh - Ngô Kim Ngân - Nhà xuất bản Hà Nội 2(K)4. 4 Ngoài ra còn một sô hài viết của một sô tác già khác đề cập đến tư tướng Hồ Chí Minh về Đáng cộng sán trong các tạp chí như: Tạp chí Triết học, Tạp chí Cộng sán... và một sô giáo trình phục vụ giảng dạy môn học tư tướng Hổ Chí Minh. Về mặt nội dung, các cổng trình nghiên cứu trên đã đi theo 3 xu hướng cơ bản: Nghiên cứu tổng quát tư tướng Hồ Chí Minh về Đáng cộng sán nói chung và Đúng cầm quyén nói riêng: nghiên cứu chuyên sâu về nội dung và phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước; nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đáng. Về góc độ tiếp cận, hầu hết các công trình trên đều tiếp cận tư tưưng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền dưới góc độ các khoa học chuyên hiệt như chính trị học, xây dựng Đáng. Mặt khác, tư tướng Hồ Chí Minh về Đáng cầm quyền cũng đã được tiếp cận dưới góc độ của các khoa học liên ngành như Hồ Chí Minh học, quán lý học... Trong công trình này, chúng tôi vẫn muôn một lần nữa đề cập tới tư tướng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền nhưng dưới góc độ tiếp cận của triết học - một góc độ vẫn còn mờ nếu không muôn nói là còn bỏ ngỏ trong việc nghiên cứu tư tương Hổ Chí Minh vế Đảng cầm quyền. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM v ụ NGHIÊN c ú u Mục đích của luận văn là từ góc độ của triết học trình bày một cách có hệ thống những tư tướng cơ hản của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền và chỉ ra ý nghĩa của những tư tưởng đỏ đôi với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đê đạt được mục đích trên, luận vãn có những nhiệm vụ : 1. Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền. 2. Làm rõ một sô nội dung cơ bản trong tư tướng Người về Đáng cầm quyến. 3. Chi ra sự vận dụng của tư tướng Hổ Chí Minh về Đáng cầm quyền Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4. Cơ SỎ LÝ LUẬN VÀ PHI ONG PHÁP NGHIÊN c ú u Luận văn được triển khai nghiên cứu trên cơ sỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Đáng cộng sản Việt Nam về chính Đảng cùa giai cáp vô sán, luận văn cững kê thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước về Đáng cầm quyền. Luận văn được triển khai, nghiên cứu dựa trên các nguyên tắc phưưng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và của chú nghĩa duy vật lịch sứ và một sô phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử. phương pháp hệ thống - cấu trúc, phưcmg pháp đôi chiếu so sánh... 5. ĐỐI TUỢNG V à ph ạ m VI NGHIÊN c ú u CỦA LUẬN VĂN Khái niệm "đáng cầm quyền” được xác định là một đáng phái chính trị nấm quyền lực đê thông qua nhà nước quán lý xã hội. Vì vậy, khái niệm “đảng cầm quyền” có ngoại diên khá rộng. Trong khuôn khổ luận vãn, chúng tôi chi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sán Việt Nam trong giai đoạn cầm quyền. Vì vậy, trong luận văn này chúng tôi dùng khái niệm “ Đảng cầm quyền”. 6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn góp phần nghiên cứu và hộ thống hóa những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền dưới góc độ tiếp cận triết học. 7. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỤC TIẺN CỦA LUẬN VĂN Kết quả nghiên cứu của luân văn góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu tư tướng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền và có thế là nguồn tài liệu tham khảo cho việc giáng dạy, nghiên cứu và học tập môn tư tưỏng Hồ Chí Minh trong các trường Đại học và Cao Đẳng. 8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VÃN Ngoài phần mớ đầu, kêì luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương 8 tiết. 6 CHƯƠNG 1 CO SỎ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH T ư TƯỞNG HỔ CHÍ MINH VỂ ĐẢNG CẨM QUYỂN 1.1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊN1N VỀ ĐANG CỘNG SẢN 1.1.1. Quan điếm của CMác, PhĂngghen vê f)ảng cộng sấn Khi nói đến quan điểm cua c. Mác, Ph Ảngghen về Đáng cộng sản như là tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tướng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, chúng tôi khảo sát quan điểm của c. Mác, Ph Ảngghen trên 3 phương diện: Quan điểm của c. Mác, Ph Ángghen vé sứ mệnh lịch sử của giai cáp vô sấn : Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở châu Âu vào cuối thê kỷ XVIli đầu thê ký XIX đã đưa lại một nền sản xuất công nghiệp cơ khí và cùng với nó là sự xuất hiện giai cấp vô sản - giai cấp khác hẳn với tất cả các giai cấp bị nô dịch trước đây trong lịch sử. Cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ ở Anh, Pháp, Đức... đã góp phần thúc đẩy chủ nghĩa tư bán phát triển, đổng thời cũng làm bộc lộ một cách rõ nét những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản mà trước hết và chủ yếu là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản . Phong trào đấu tranh của công nhân dưới hình thức “công liên” đã ra đời, phong trào này đã chịu ảnh hưởng của rất nhiều quan điểm của các nhà khổng tướng đương thời như H. Xanh xi mông, s. Phuriê, R. Ôoen. Vào những năm 30 - 40 của thế ký XIX phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ngày càng phát triển mạnh mẽ, có thê kế tên một số phong trào diễn ra trong thời kỳ này: Cuộc đấu tranh của công nhân dệt thành phố Lyông (Pháp) năm 1831 và 1834. cuộc khởi nghĩa của công nhân dệt thành phố Xilêdi (Đức) năm 1844 và đính cao là phong trào Hiến chương ờ Anh (1838 - 1848). Phong trào của giai cấp công nhân giai đoạn này tuy đã mờ 7 rộng về quy mỏ liên vùng, liên quốc gia nhưng về bản chất vẫn là những cuộc đâu tranh tự phát. Qua thực tiễn những phong trào đấu tranh tự phát của giai cấp vỏ sản chòng lại các chú tư bản, c. Mác. Ph Ảngghen đã nhìn thây sức mạnh to lớn ẩn chứa bên trong những con người lao động này. Với phát kiến vĩ đại về giá trị thặng dư. C.Mác đã có cư sớ khoa học để khảng định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản và tính tất yếu ra đời của nền chuyên chính vô sán. Đốn đầu thế ký XIX, trôn cơ sở phát triển của kinh tế- xã hội. nói theo cách của c. Mác chủ nghĩa cộng sán đã được tất cả các thê lực ở châu Âu nhìn nhận là một thế lực và đã đến lúc những người cộng sản phái công khai trình bầy trước toàn tế giới về những quan điểm, mục đích ý đồ của mình. Trong tác phám “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” c. Mác, Ph Ãngghen đã chứng minh một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản - Sứ mệnh được quyết định không phái bới ý chí chủ quan của giai cấp vô sản mà nó được quyết định bởi những yếu tố khách quan của hình thái kinh tế - xã hội Tư bản chủ nghĩa: Một là, do địa vị kinh tế xã hội của mình, giai cấp vô sản gắn liền với nền đại công nghiệp, đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến. “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sán lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[5, 610]. Hai là, không giống với các giai cấp khác, giai cấp vô sán là giai cấp không có tư liệu sản xuất, không có tài sản, phải bán sức lao động và bị giai cấp sư sản bóc lột. cho nên không có gì ngãn cản họ tiến hành đến cùng cuộc đâu tranh cách mạng đê xoá hò chủ nghĩa tư bản. Họ có tinh thần cách mạng triệt để vì “trong cuộc cách mạng ấy. những người vố sản chảng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới” [5. 646], 8 Ba là. mục đích đâu tranh của giai cấp vô sản không chí dừng lại ở việc đòi những lợi ích về kinh tế, chính trị và những quyổn tự do, dân sinh tối thiếu, mà hơn thế họ đấu tranh de lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và thiết lập chế độ xã hội mới. Cuộc đấu tranh của họ hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội, như c. Mác và Ph Ảngghen đã phân tích một cách khoa học rằng “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thăng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”[5,613]. Lợi ích của giai cấp vô sản thông nhất với lợi ích của toàn thê nhân dân lao dộng. Vì vậy, họ nhận được sự đồng tình và úne hộ của đại đa số nhân dân lao động. Sự đổng tình và ủng hộ này làm cho giai cấp vô sản trở thành đại biêu của tuyệt đại đa số nhân dân lao động và có khả năng thực hiện khối liên minh, đoàn kết xung quanh mình tất cả những người lao động bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới. Vì lẽ đó, c. Mác, Ph Ăngghen khẳng định phong trào của giai cấp vô sán là phong trào của đa số vì “lợi ích của đa số” và “trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn đại biểu cho lựi ích của toàn bộ phong trào” [5, 44]. Đổng thời, C.Mác và Ph.Ảng ghen cũng đi đến kháng định giai cấp vô sán chi có thê tự giải phóng mình nếu đổng thời và vĩnh viễn giải phóng cho toàn xã hội và họ chỉ có thể giành chiến thấng nếu thực hiện liên minh với các tầng lớp nhân dân lao động mà trong đó lực lượng cơ bán là giai cấp nông dân. Bôn là, do ra đời gắn liền với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, nên giai cấp vô sán là giai cấp có ý thức tổ chức và ký luật cao nhất so với các giai cấp hị trị khác, giai cấp này có khả năng lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Từ việc xác định vai trò lịch sử thê giới của giai cấp vô sán. qua tổng kết thực tiễn phong trào đâu tranh của giai cấp này, C.Mác và Ph.Ãngghen đã thấy một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của những phong trào đấu tranh lúc này là giai cấp vô sản chưa được tập hợp trong một tổ 9 chức và hoạt động chưa tuân theo một đường lối đâu tranh thông nhất. Đồng thời, chính thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản cũng dã làm náy sinh một nhu cầu hức thiết phái có một tổ chức thông nhất chặt chẽ đê lãnh đạo, phong trào phái có một lý luận tiên tiến soi đường, phái có một cương lĩnh mang đấy đủ tính cách mạng và tính khoa học làm kim chỉ nam cho hành động của quần chúng. Từ đó, các ông xác định sự cần thiết phái thành lập một chính đáng cách mạng của giai cấp công nhân “Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hợp của các giai cấp hữu sán. giai cấp công nhân chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối đầu với tất cả các chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thê hành động với tư cách là một giai cấp”[ 7, 203]. Cũng trong tác phẩm ‘Tuyên ngôn của Đáng cộng sản”, c. Mác và Ph.Ảngghen đã chỉ rõ sức mạnh của giai cấp vô sản sẽ được nhân lên và họ chí có thế thực hiện vai trò lãnh đạo cách mạng khi được tổ chức thành một chính đảng riêng biệt, được lãnh đạo bới một chính đảng cách mạng - Đáng cộng sản. Sự ra đời của Đảng cộng sản là yếu tố, điều kiện tâí yếu đam bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. C.Mác và Ph.Ảngghen cũng thấy được nhiệm vụ của mình xây dựng một lý luận cách mạng, giúp cho giai cấp vô sản toàn thế giới hiểu rõ sứ mệnh lịch sử và mục đích đấu tranh của mình, đồng thời vạch ra những biện pháp đấu tranh đê đạt được mục đích đó. Sau này, V.I.Lênin đã đánh giá: “Công lao vĩ đại, có ý nghía lịch sử toàn thê giới của C.Mác và Ph.Ảngghen là ở chỗ, hai ông đã vạch rõ cho những người vô sản ở tất cả các nước thấy vai trò của họ, nhiệm vụ của họ, sứ mệnh của họ là làm những người đầu tiên vùng lên đấu tranh cách mạng chông tư bản, tập hợp xung quanh mình, trong cuộc đấu tranh này. tất cả những người lao động và tất cả những người bị áp bức” [51.201-2021 và “điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thê giới của giai cấp vô sản là người xày dựng xã hội xã hội chủ nghĩa” [46, 1]. 10 Khi chứng minh tính tất yếu của việc thành lập chính đáng của giai cáp công nhân. C.Mác và Ph.Ãngghen cũng chi ra rằng nhiệm vụ đầu tiên của Đảng cộng sản là xây dựng giai cấp vô sán thành giai cấp thòng trị. giành lây dân chù, giành lấy chính quyền bàng con đường bạo lực. Sau đó. Đáng cộng sán lãnh đạo giai cấp công nhân ớ mồi nước sử dụng quyền lực chính trị của mình đê xây dựng một xã hội tự do, dân chủ; làm cho sức sản xuất tăng trướng mạnh mẽ; cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Đổng thời, sự lãnh đạo của Đáng cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đám cho cách mạng xã hội chú nghĩa thu được tháng lợi và thực hiện mục đích cuối cùng là xoá bỏ giai cấp. Quan điếm của C.Mác và Ph.Ảngghen vé Đảng cộng sản. Một là: Sự ra đời của Đáng cộng sản là một tất yếu khách quan, là sán phẩm lịch sử tự nhiên của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Đảng là một tổ chức chính trị, là tổ chức đại diện cho quyền lợi, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử. Hai là: Đảng cộng sản mang bản chất giai cấp vô sản, đứng trên lập trường của giai cấp vô sản. Ba là: c. Mác đã nêu lên những nguyên tắc để phân hiệt giữa Đảng cộng sản và giai cấp vô sản. về mặt thực tiễn những người cộng sản là bộ phận tiên tiến nhất, là bộ phận thúc đẩy phong trào tiến lên. về mặt lý luận, Đáng cộng sản là đội tiên phong có tổ chức, toàn hộ đời sống và sự hoạt động của Đáng cộng sản đều được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. Nói cách khác, Chủ nghĩa xã hội khoa học là cơ sở tư tướng của Đảng cộng sản. Đáng cộng sán phải là một tổ chức chiến đấu cách mạng, nhằm mục tiêu lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và thiết lập chuyên chính vô sản. Mục đích trước tiên của Đảng cộng sản là lãnh đạo giai cấp vô sán và dân tộc đấu tranh lật đổ sự thòng trị của giai cấp tư sản giành lấy chính quyền 11 VC tay mình. Đáng cộng sán phải trớ thành lực lượng đại diện cho dân tộc. Mục đích cuối cùng là xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản Bốn là: Tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thê mà mỗi Đáng cộng sán đề ra đường lòi chính trị phù hợp với hoàn cảnh cua nước mình. Quan điếm của C.Mác và Ph.Ângghen vé:táy dựng Đáng Do điều kiện và hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ còn hạn chế. C.Mác và Ph. Àng ghen chưa có điều kiện nghiên cứu để hình thành một học thuyết hoàn chinh về xây dụng Đáng cộng sản. Nhưng trong khi nêu lẻn những quan điểm về Đảng của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph. Áng ghen cũng đã đặt cơ sở cho lý luận xây dựne Đảng cộng sản về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” C.Mác và Ph. Ảng ghen đã trình bày không những quan điểm lý luận chung về Đáng cộng sán mà còn ncu rõ mục đích, nhiệm vụ của Đảng cộng sản, những cơ sờ lý luận chung của chiến lược và sách lược đâu tranh cách mạng đây là một kiểu mẫu quan trọng trong việc xây dựng Đảng về chính trị. Về mặt tư tướng: Đảng cộng sản thể hiện lập trường quan điểm của giai cấp công nhân, thảng thắn bác bỏ mọi tư tưởng chống đối với hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, bóc trần những quan điểm lý luận sai trái của giai cấp tư sản. Về mặt tố chức: Đảng cộng sản thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Mặc dù lúc bấy giờ C.Mác và Ph. Ảng ghen chưa có một định nghĩa nào như vậy, nhưng trong các vãn kiện của Đồng minh và của Quốc tế 1 do C.Mác thảo ra đã nêu rõ mọi thành viên cúa Đồng minh đều tham gia vào việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo, vào việc dự thảo thống qua cương lĩnh và điểu lệ. các cơ quan cấp dưới phải phục tùng các cơ quan cấp trên, thiểu sô phục tùng đa sô. Việc phát huy dân chủ được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với việc tôn trọng ký luật của Đáng cộng sản, một ký luật hắt buộc đối với tất cả mọi đáng viên. Kinh nghiệm của của Đóng m inh nhữtiỊị ngKíri cộng sản và đặc biệt là của Quốc tế 1đã cho thấy rõ rằng, việc chấp hành đầy đủ nguyên tắc tập 12 trung dán chú là điều kiện vô cùng quan trọng đc đám bảo sức chiến đâu đè Dáng cộng sán thực hiện vai trò lãnh đạo của mình. C.Mác và Ph.Ảngghen đã luôn luôn đấu tranh để củng cô thõng nhất các đội ngũ của các tổ chức vô sản về tư tưởng và tổ chức, kiên quyết chống lại bọn cơ hội, xét lại, những quan điểm phán xã hội chủ nghĩa, chống lại tát cả những người vi phạm ký luật của Đáng cộng sản. C.Mác và Ph.Ảngghen đã chứng minh ràng, củng cô hàng ngũ của Đáng cộng sản, đuổi ra khỏi Đảng cộng sản những phần tử thù địch và cơ hội là quy luật phát triển của Đảng. C.Mác và Ph.Ăng ghen khắng định rằng, phong trào vô sán nhất định phải trái qua những hước phát triển khác nhau, trong mồi bước đều có một số người dừng lại. họ không đi xa hơn được nữa. Vì vậy, các ông đã nhấn mạnh: Ngày nay chúng ta nhất thiết phải duy trì ký luật của Đảng cộng sản, nếu không mọi cái sẽ mất hết. Một vấn đề nữa thuộc về cơ cấu tổ chức của Đảng cộng sản là vấn đề thành phần xã hội của Đảng cộng sản, rằng nếu các đại biểu của các giai cấp muốn tham gia vào phong trào công nhân thì trước hết họ phải vứt bỏ những tàn tích của giai cấp tư sản và tiểu tư sản và những thành kiến khác tơưng tự và phải nám vững một cách không điều kiện thê giới quan của giai cấp công nhân. Như vậy, hai ông đã chi rõ thành phần xã hội của Đảng cộng sản không phái là điều quyết định tính chất của một Đảng, mà điều quyết định là ở lập trường tư tướng, ở thế giới quan giai cấp công nhân của Đáng cộng sản đó. Điều đó có ý nghĩa quan trọng đối với những Đảng cộng sán mà thành viên đa sô là những nông dân, tiểu tư sản, thì vân đề cần phải chú trọng là giáo dục về lập trường tư tưởng, thế giới quan của giai cấp công nhân đê hảo đám tính chất giai cấp công nhân của Đảng cộng sán. Chu nghĩa quốc tê vô sản của giai cấp công nhân là một trong những nguyên tắc xây dựng Đảng cộng sản quan trọng nhất mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề ra. Ngay trong “Tuyên ngôn của Đáng cộng sán" hai ông đã nêu ra kháu hiệu: “Vớ sẩn tất cả các nước, đoàn kết lại!". Kháu hiệu đó 13 đã trớ thành kháu hiệu chung cua phong trào cộng sán và phong trào công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân phái lây sự thống nhất quốc tế của mình chống lại sức mạnh quốc tế cửa giai cấp tư sản. Theo quan điểm của C.Mác, không làm như vậy thì giai cấp công nhán không thế giành được thắng lợi và không tự giái phóng mình được. Bởi việc giải phóng giai cấp công nhàn đòi hỏi phải có sự hợp tác của giai cấp công nhân các nước. Nhưng đồng thời C.Mác và Ph.Ăngghen cũng nhân mạnh thêm: “Giai cấp vô sán mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vưom lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc tuy hoàn toàn không phải theo cái nghía như giai cấp tư sản hiểu”[5,623- 624]. C.Mác và Ph.Àngghen đã đấu tranh không khoan nhượng đối với mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sán trong các tổ chức của giai cấp cống nhân. Những luận điểm chủ yếu của Mác và Ảngghen về giai cấp vô sán, Đáng cộng sản và những chỉ dẫn của hai ông về vấn đề xây dựng Đảng cộng sản trên đây, đương nhiên chưa phải hoàn chinh ngay từ đầu, mà trải qua một sô quá trình phát triển. Song, những luận điểm đó đã ánh hưởng sâu sắc tới toàn bộ sự phát triển của phong trào công nhân quốc tế và là điều kiện chuẩn bị cho việc thành lập hàng loạt Đảng cộng sản. V.I.Lênin đã nhấn mạnh rằng: Quốc tế I đã hoàn thành vai trò lịch sử của nó và đã nhường chỗ cho thời đại lớn mạnh không lường được của phong trào công nhân ở tất cả các nước trên thế giới, thời đại phát triển phong trào đó theo chiều rộng, thời đại thành lập hàng loạt Đảng dân tộc. V.I.Lênin viết: “Quốc tế I không thể bị lãng quên được, nó sống mãi trong lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân nhàm tự giải phóng. Nó đã xây nền đăp móng cho lâu đài cộng hoà xã hội chủ nghĩa thế giới mà ngày nay chúng ta đang được vinh hạnh xây dựng”[38, 278]. 1.1.2 Quan điểm của V.I.IJ nin. Kế tục sự nghiệp vĩ đại của C.Mác và Ph.Ảngghen. V.I.Lênin phát triển chứ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới khi chủ nghĩa tư bán chuyển sang giai đoạn đê quốc chu nghĩa. Một mặt, V.l.Lê nin đấu tranh 14 chống lại những phán tứ cơ hội đế háo vệ tính cách mạng của học thuyết Mác. Mật khác, thông qua quá trình trực tiếp lãnh đạo cách mạng Nga đâu tranh giành chính quyền và xây dựng chú nghĩa xã hội, V.I.Lô nin đã bố sung và phát triển lý luận của chú nghĩa Mác. xây dựng học thuyết về đáng kiểu mới của giai cấp công nhân. Kế thừa tư tướng của chủ nghla Mác về Đáng cộng sán. trong các tác phẩm của mình, V.I.Lê nin đã kháng định tính tất yếu phải có sự lãnh đạo của Đàng cộng sản, cũng như chi ra vai trò. nhiệm vụ của Đáng cộng sản trong quá trình lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh giành chính quyén và xây dựng chủ nghĩa xã hội Vê tư tưởng: Trong tác phẩm “ Làm gì” Lênin đã khảng định mọi sự xa rời hệ tư tướng xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tướng tư sán. Lênin nhấn mạnh ý thức xã hội chủ nghía không phái phát sinh từ phong trào tự phát của giai cấp công nhàn mà là do Đảng mác xít cách mạng truyền bá vào phong trào công nhân. Đảng ấy phái được vũ trang bằng lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, phải nâng mình lên ở tầm vóc lý luận tiên tiến của thời đại bơi vì “không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” 130,30] và “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong” [30. 32 ]. Đồng thời, Lênin cũng chí ra nhiệm vụ của những người cộng sản là “phải học tập ngày càng nhiều hơn, tất cả các vấn đề lý luận; phải tự giải thoát, ngày càng nhiều hơn, khỏi ảnh hướng của những câu cổ truyền của thê giới quan cũ và không bao giờ được quên rằng chủ nghĩa xã hội từ khi trở thành khoa học, đòi hỏi phải được coi là một khoa học, nghĩa là phải được nghiên cúru”[30,34]. v ề chính trị: Đảng phải tố cáo, vạch trần ách áp hức, bóc lột của chế độ phong kiến chuyên chế. chê độ tư sán. phải nắm vững quan điểm giai cấp, không chi hạn chê trong đấu tranh kinh tế. đấu tranh nghề nghiệp. Tất cá những hình thức đấu tranh cống liên chi đưa phong trào của công nhãn đi đến chỗ phụ thuộc vào hệ tư tướng của giai cấp tư sán và chính trị tư sán. V.I.Lenin đã nêu và luận chứng luận điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác về ý nghĩa hàng đầu của đấu tranh chính trị trong sự phát triên xã hội và trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản với giai cấp tư sán. đảm bảo cho sự thăng lợi của chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin khắng định: những quyén lợi chủ yếu, “quyết định’' của các giai cấp, nói chung, chí có thê được thoả mãn bàng cuộc cải biến chính trị căn bản; còn quyền lợi về kinh tê trọng yếu cúa giai cấp vô sản, nói riêng, chi có thê được thoá mãn bàng một cuộc cách mạng chính trị thay thê chuyên chính của giai cấp tư sản bằng chuycn chính vô sản [30, 59]. Về tổ chức: V.I.Lênin đánh giá rất cao vị trí của công tác tổ chức. Người viết: Sức mạnh của giai cấp công nhân đó là tổ chức. Không có tổ chức, giai cấp công nhân sẽ không là cái gì hết. Được tổ chức lại - nó sẽ là tất cả: Tính tố chức là sự thống nhất hành động thực tiễn..., nhưng tính tổ chức không có tư tướng là điều vô nghĩa. Trong kho tàng lý luận cúa mình, V.I.Lênin đã bàn đến sự cần thiết của tổ chức chính trị đối với bất cứ một cuộc cách mạng nào trên thế giới. Lênin khảng định: Nếu không có một tổ chức của những người cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng vững chắc được. Tổ chức cua những người cách mạng có tính chất quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người nói: “ Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng và chúng tôi sẽ làm đảo ngược nước Nga”[30,162]. Từ thực tiễn và kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng Nga.V.I. Lênin đã đưa ra kết luận: “ Cuộc đấu tranh tự phát của giai cấp vô sản sẽ không the trở thành cuộc “đấu tranh giai cấp” thực sự của giai cấp vô sản chừng nào nó chưa được tổ chức mạnh mẽ gồm những người cách mạng lãnh đạo”[30, 173]. Tuy nhiên, chi riêng việc thống nhất tư tưởng chưa đủ đảm bảo cho giai cấp công nhân chiến thắng mà cần thiết phái cúng cô sự thống nhất tư tướng bàng sự thống nhất vật chất của tố chức. Ràng, giai cấp công nhân vẫn có thể trở thành và tất nhiên sẽ trở thành một lực lượng vỏ địch vì một lý do duy nhất: Đó là sự thông nhất tư tưởng của giai cấp công nhân dựa 16 trẽn cơ sớ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác, được cúng cồ bàng sự thòng nhất vật chất cùa tổ chức... V.l.Lênin còn nhấn mạnh: Không có một tổ chức vững vàng gồm những người lãnh đạo đê háo đám cho sự liên tục công tác. thì không thê có phong trào cách mạng vững chác được. Trong các tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi”(1904), “Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản”, “Nhiệm vụ trước mắt cùa chính quyền Xô viết” ( 1918) hay trong tác phám “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”,“Sáng kiến vĩ đại”( 1919) V.I.Lênin đã đưa ra những quan điểm của mình về xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, đặc biệt trong điều kiện đảng cầm quyền lãnh đạo quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thứ nhất, Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tô chức và lủ dội ngũ có tố chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Đây là tư tưởng đã được C.Mác và Ph.Ảng ghen đề cập tới trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” năm 1848. Lúc này, để chông lại tư tưởng của phái Mensêvíc chủ trương nhàm xoá nhoà ranh giới giữa đảng và giai cấp. Lênin đã khẳng định lại “ Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiên phong của giai cấp công nhân với toàn bộ giai cấp”[31,289]. Đảng chí kết nạp vào hàng ngũ của mình những đại biểu ưu tú nhất, giác ngộ nhất và có tinh thần kỷ luật nhất của giai cấp công nhân. Sơ dĩ, đảng có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo và hướng tất cả các tổ chức của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào một mục đích chung là thủ tiêu chế độ hóc lột, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa vì đảng bao gồm những phần tử tiên tiến giác ngộ nhất, được vũ trang bằng lý luận khoa học và có tổ chức chặt chẽ. Điều đó có nghĩa. Đang cộng sản là một chính the cố kết vững chắc, có ký luật nghiêm minh chặt chẽ, có qui định rõ nững mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, giữa hộ phận này với bộ phận khác. Trong tác phàm “Một hước tiên, hai bước lùi” V.I.Lênin nhân mạnh “trong cuộc đấu tranh đế giành chính quyền, giai cấp vô sán không có vũ khí nào tốt hơn là sự tổ chức" ĐAI H O C Q UỐ C GIA HÀ Nỏi !jy . ING TÂM THÒNG Tin thự Viện V-L L/ Ị31,490]. Theo V.I.Lênin tổ chức là một vũ khí mà nhờ đó giai cấp vỏ sán có thế tựgiái phóng, với giai cấp vô sản tổ chức là vũ khí đấu tranh giai cấp. Là đội tiên phong, Đảng cộng sản trung thành tuyệt đôi với sự nghiệp cua giai cấp công nhân, có lý luận tiên phong, có tố chức chặt chẽ và sự gương mẫu cúa mồi đáng viên trong thực tiễn. Đảng cộng sản phái được tổ chức chặt chẽ đê háo đám là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành động, có ky luật nghiêm minh. Theo V.i.Lê nin trong điều kiện cầm quyền, Đáng cộng sán phái là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”[35,122]. Thứ hai : Dâng cộng sán được tổ chức theo những nguyên tắc Đang kiêu min của giai cấp cồng nhân. Trong các tác phẩm của mình V.I.Lênin đã chỉ ra 5 nguyên tắc tổ chức Đảng cộng sản: - Tập trung dân chủ - Tinh thần kỷ luật nghiêm minh và tự giác - Tự phê bình và phê bình - Đoàn kết thông nhất trong Đảng - Mối quan hệ giữa Đảng và toàn thể quần chúng nhân dân lao động. Trong điều kiện đảng cầm quyền, V.I.Lênin đặc biệt quan tâm đến sự thống nhất của đảng. Thực tế đã chứng tỏ sự thống nhất đội ngũ đảng là nguồn gốc của mọi thắng lợi, là nhân tố để đoàn kết toàn dân, quyết định sự vững mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền tảng chính trị, xã hội của nó. Lênin còn chi rõ, khi đã có chính quyền, nếu để xảy ra chia rẽ thì “không phải chỉ là nguy hiểm mà còn là cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong nước đó, giai cấp vô sản lại chỉ là thiểu sô nhỏ bé trong dân cư”[41,336]. Trong nhiều tác phẩm của mình.V.I.Lênin đã lý giải một cách toàn diện, sâu sắc tính tất yếu và tầm quan trọng đặc biệt của sự thống nhất trong đội ngũ Đáng cộng sản. Theo V.I.Lênin, muôn đưa cách mạng đến tháng lợi. Đáng cộng sản “phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ. tuyệt đối” [35. 245] và đó chính là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận của 18 Đáng cộng sán. là điều kiện để đoàn kết giai cấp. Người coi mục tiêu của công tác xây dựng và củng cô Đáng cộng sản là nhằm xây dựng và củng cô sự thống nhất của đội ngũ. Đảng cộng sản là đội tiên phong giác ngộ tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp. do đó, trong hệ thông chính trị cùa xã hội - xã hội chủ nghĩa chi có Đáng cộng sản mới đú phám chất chính trị và nãng lực, xứng đáng là người lãnh đạo. V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục đảng công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chú nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức môt chê đô mới. đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”[34, 33]. Người còn nhấn mạnh: “Về nguyên tắc, Đảng cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”[33,453]. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” V.I.Lênin đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đảm xây dựng thành công chú nghĩa xã hội. Buông lỏng sự lãnh đạo của Đáng cộng sản là sai lầm về nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của nhà nước và của cả hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội; là mở đường cho những phần tử phản động phá hoại chính quyền, đưa đất nước trở lại con đường tư bản chủ nghĩa. Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngãn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa ròi quần chúng. Đê đảm hảo sự thống nhất trong đảng luôn luôn được củng cố và phát triển, đáng cần phải thường xuyên và nghiêm chinh thực hiện tự phê bình và phê hình. V.I.Lênin chí ra rằng: “Thái độ của một chính đáng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chác chắn nhất đê xem xét đảng ấy có nghiêm túc khống và có thực sự làm tròn nghía vụ của mình đối với giai cấp mình và đôi với quần chúng lao động 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan