Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Bài tập lớn
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Thạc sỹ: Lê Thị Hoa
SV thực hiện: Nguyễn Thị Kiều Oanh
Lớp: Tư tưởng Hồ Chí Minh 16
MSV: CQ513799
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Đề bài: Hãy tìm hiểu về tư tưởng thân dân của chủ tịch Hồ Chí Minh so với
các bậc tiền bối. Vấn đề này được Đảng và nhà nước ta hiện nay giải quyết
như thế nào?
Bài làm
Tư tưởng HCM là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính khoa
học và cách mạng về văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt Nam, được kết
tinh và chắt lọc những giá trị cả văn hóa phương Đông, phương Tây, của
truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế.
Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại, Hồ
Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Không chỉ
dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Người chỉ có
một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành. Đây chính là tư tưởng thân dân.
Vậy tư tưởng thân dân là gì?Và tại sao phải “thân dân”?
“ Thân dân” là phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân
nghe, làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết
được họ đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ
đang mong đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết
phát hiện và đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là
nhìn thấy cả cái thực tại và vạch ra con đường đúng đắn cho dân phát triển; là
biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và
hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng của dân.
Thân dân, luôn coi dân là gốc là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự đặt mình vào địa vị của người dân mà
mình đại diện để hiểu, suy xét, chia sẻ tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị, đề
xuất , mong muốn của họ. Có lắng nghe, thấu hiểu nguyện vọng chính đáng
của dân thì đại biểu dân cử mới thực hiện tốt việc “Việc gì có lợi cho dân ta
phải hết sức làm, việc gì hại đến cho dân ta phải hết sức tránh”. Bởi, ta có yêu
dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta.
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Thân dân biểu hiện ở việc cán bộ, đảng viên thực hiện nghĩa vụ và
quyền lợi do pháp luật quy định. Tức là, phải trung thành với mục tiêu lý
tưởng, với chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải hướng đến một nền hành
chính, một tổ chức, một bộ máy phục vụ nhân dân; luôn gương mẫu hoàn
thành kế hoạch được giao và nếu có chức vụ phải biết sử dụng quyền lực để
giao việc, kiểm tra, theo dõi, đánh giá, phê bình, khen thưởng một cách công
minh chính trực; phải lắng nghe và dựa vào quần chúng nơi cơ quan để xây
dựng quy chế làm việc, quy chế dân chủ cơ sở, quy chế chi tiêu tài chính, các
biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, làm cho cơ
quan đoàn kết nhất trí; không xu nịnh, không ưa nịnh, không chia bè chia
cánh, cục bộ, bản vị; phải luôn đề cao trách nhiệm vì dân để giải quyết nhanh
chóng, kịp thời những chế độ, chính sách liên quan đến người dân; phải thận
trọng trong việc xem xét, quyết định các vấn đề hệ trọng có ảnh hưởng đến
quyền bình đẳng, quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Khi nhân dân có ý
kiến, khiếu nại, tố cáo, kể cả tố cáo cá nhân mình, thì phải biết bình tĩnh lắng
nghe, phân tích và có thái độ kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, nếu quyết
định của mình chưa đúng. Không né tránh, đùn đẩy, gây phiền hà và khó
khăn, tốn kém cho dân…
Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Đây là nguyên
tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Người kế thừa
và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bãn của chủ nghĩa duy vật lịch sử:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng
vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh
giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân
chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì
làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản
đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ
mãi không ra”.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định
trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những
chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn
như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có
quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự
do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập... trong khuôn khổ
luật pháp cho phép. Người dân có quyền làm chủ tập thể, làm chủ địa phương,
làm chủ cơ quan nơi mình sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ các
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội thông qua bầu cử và bãi miễn. Đúng như
Hồ Chí Minh nói: "Mọi quyền hạn đều của dân". Cán bộ từ Trung ương đến
cán bộ ở các cấp các ngành đều là "đầy tớ" của dân, do dân cử ra và do dân
bãi miễn.
Hồ Chí Minh giải thích rằng: dân là gốc của nước. Dân là người đã hi
sinh máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì
không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo
vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người
con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân.
Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ
cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và
phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ
trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự
tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả
các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách
mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác- Lênin, chưa có cuộc cách
mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá
đúng đắn về nhân dân.
Theo Người, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được
giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu
là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân
người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ
họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu
nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể
thực hiện được vai trò làm chủ.
Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế
bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà
nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền
lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân
Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và
làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì... Chúng ta
phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều
là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng
ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Người yêu cầu cán bộ
từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đầy tớ trung thành của nhân dân. Theo
Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Ủy viên này khác
là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan
cách mạng”
Từ thực tế, Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp
cao, khi xuống cấp dýới triển khai công việc thì khệnh khạng như “ông quan”
và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng
không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không
phải vì lợi ích của quần chúng.
Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền,
nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn
biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy
mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có
biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”,
không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”.
Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng
thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Theo Người: Nếu
không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính
phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để
xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của
nhân dân. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập vai trò
người lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ
của Đảng và Nhà nước, mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng
đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân. Là lãnh đạo không có nghĩa là đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Bởi vì: “Chế độ
ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo,
nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã,
bất kỳ cấp nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân
dân”
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc; Gốc có
vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc
với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân
liệu cũng xong”.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải
tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất
khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn
biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng, thành sức
mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên
“phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì
nhất định thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu không học
hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”, mà “muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt
phải có nhiệt thành, có quyết tâm”. Theo Hồ Chí Minh phải thực hiện dân chủ
với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân là cốt lõi của vấn đề dân là gốc.
Người thường nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ”.
Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời của
Người là: “Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải
là chửi”. Và người yêu cầu: người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận
công dân, tức là phải tuân theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao
động; giữ gìn trật tự chung; nộp thuế đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo
vệ Tổ Quốc. “Phải chăm lo việc nước như việc nhà”, “phải biết tự mình lo
toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”; “làm chủ sao cho ra làm chủ,
không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH đã ghi: “Sự
nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Chính người
dân là người làm nên thắng lợị lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng
là sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ
dẫn đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất
nước”.Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay phần mở đầu đã nhấn mạnh:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền. Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân
dân; dựa vào dân để xây dựng Đảng”. Trang Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ
Chí Minh để lại cho Đảng ta và nhân dân ta, Người đặc biệt nhấn mạnh, tăng
cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân: "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người
đầy tớ thật trungthành của nhân dân”.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những
quan niệm sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử và mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân. Người không chỉ khẳng định dân là gốc của
nước, mà còn tôn vinh nhân dân: ''Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân
dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đòan kết của nhân dân''.
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Người còn nói, nhân dân là người xây dựng, là người đổi mới, làm nên sự
nghiệp lớn, mọi quyềnhành và lực lượng đều ở nhân dân.
Lịch sử đã từng chứng minh, một chế độ chính trị - xã hội chỉ tồn tại
được khi nào có khả năng tập hợp, đoàn kết được quảng đại quần chúng nhân
dân. Trong những giai đoạn cách mạng trước, sở dĩ Đảng ta luôn luôn giữ
vững được vai trò lãnh đạo của mình, bởi nhờ có sự ủng hộ, che chở, bảo vệ
của nhân dân. Ngày nay, đứng trước cuộc đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội,
trước hết là làm trong sạch các tổ chức đảng, bộ máy Nhà nước, khắc phục tệ
quan liêu, tham nhũng và sự tha hóa đạo đức, phẩm chất của một bộ phận cán
bộ, đảng viên chỉ có thể thực hiện đạt hiệu quả khi nào các tổ chức đảng, các
cấp ủy đảng thực sự tin ở dân, dựa vào sự tham gia kiểm tra, giám sát của
nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tham gia giám sát cán bộ, đảng viên
và tổ chức dảng còn là quyền và nghĩa vụ của nhân dân đối với Đảng. Đối với
một Đảng cầm quyền, Đảng có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị
và toàn xã hội tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN.
Do đó, toàn bộ cuộc sống từ vật chất đến tinh thần, văn hóa của mỗi người
dân trong xã hội đều gắn với sự lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng có trong
sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên có tiên phong gương mẫu thì mới bảo
đảm cho sự lãnh đạo của Đảng thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đất
nước, và cũng nhờ đó mà cuộc sống của nhân dân được đảm bảo, cải thiện và
nâng cao. Trái lại, cán bộ, đảng viên tiêu cực, tha hóa, tổ chức đảng không
trong sạch, vững mạnh thì không chỉ làm cho tổ chức đảng bị rệu rã, dẫn đến
mắc sai lầm, thất bại mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống, cuộc
sống của nhân dân. Do vậy mà việc giám sát cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng
vừa là một quyền cơ bản không thể thiếu của công dân, vừa là nghĩa vụ, trách
nhiệm vẻ vang của nhân dân đối với Đảng. Nhân dân giám sát cán bộ, đảng
viên và tổ chức đảng là một nội dung về quyền làm chủ của nhân dân nhằm
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh và từ đó cũng
nhằm bảo vệ lợi ích thiết thân, chính đáng, hợp pháp của nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Dân chủ là bản chất của chế độ và của Đảng ta. Bác Hồ đã
khẳng định: ''Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị
của toàn dân... Làm cho mọi công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý
Nhà nước". 76 năm qua, chính nhờ bắt rễ sâu rộng trong quần chúng, đường
lối chính trị được lòng dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, cho nên Đảng và
nhân dân ta đã kết thành một khốivững chắc, quan hệ máu thịt với nhân dân là
cội nguồn sức mạnh to lớn của Đảng ta. Ở đâu và lúc nào, tổ chức đảng, cán
bộ, đảng viên thường xuyên chăm lo lợi ích của nhândân, sống đồng cam
cộng khổ với dân, mọi việc làm đều vì lợi ích của dân, thì ở đó Đảng và dân
có mối quan hệ tốt đẹp; cán bộ, đảng viên được dân tin, dân phục, dân theo.
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Trái lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quay lưng
lại với dân, quan liêu, thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì ở đó sẽ bị dân oán
ghét, chê trách, bất hợp tác. Qua 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, với việc
phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống, mở mang dân trí, dân chủ trong
xã hội, Đảng ta ngày càng củng cố được niềm tin của nhân dân, khơi dậy
được những tiềm năng, tạo ra được những nguồn sinh lực của cách mạng. Ý
Đảng, lòng dân là sức mạnh vô tận.
Bài học "Lấy dân làm gốc" để xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được
tiến hành đồng bộ trên nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng... để cùng
tác động đến đời sống, tâm lý, tư tưởng các tầng lớp nhân dân, tạo nên sự
chuyển biến tích cực trong thái độ, tình cảm, tâm lý, ý thức của từng người
dân. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân không
ngừng được cải thiện và nâng cao, dân chủ XHCN được củng cố, mở rộng; tệ
quan liêu, tham nhũng, tiêu cực bị ngăn chặn và đẩy lùi; Đảng vững mạnh,
nâng cao được sức chiến đấu, bộ máy nhà nước trong sạch, thật sự của dân,
do dân, vì dân, nâng cao được hiệu lực quản lý, thì sẽ được lòng dân. Đảng vì
dân, dân tin ở Đảng, ra sức góp phần xây dựng Đảng và bảo vệ Đảng, bảo vệ
Nhà nước, bảo vệ chế độ XHCN của chúng ta.
Theo Người, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng “cái gốc” là phải thường
xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân. Người
thường nhắc tới những câu của người xưa “có thực với vực được đạo”, “dân
dĩ thực vi thiên”. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đối với nhân dân
không thể lý luận suông”. Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm lo đời sống của dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân
rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có
lỗi.Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa
học, toàn diện. Đó là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự vận dụng sáng
tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh lưu ý: “Bất kỳ nơi nào có quần chúng,
thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém…
Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do
hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải học
hỏi dân chúng, nhưng “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt
theo”; phải “tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau, xem cái nào
đúng, cái nào sai” để vận dụng.
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người diễn đạt rất khái quát: “Bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến
Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân, vì dân.
Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề
thực hiện dân chủ với dân; làm thế nào để nhân dân “biết dùng quyền dân
chủ” và “hưởng quyền dân chủ”. Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai
sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời do Người đứng đầu đã tổ
chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam. Tháng 11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thôngqua
bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp quyền từ
ý tưởng của Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Quan điểm của Người trong những sự kiện lịch sử này rất mẫu mực, rõ ràng:
“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà”, “Hễ là những người muốn lo
việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu
cử”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước của dân còn bao hàm việc dân có
quyền bãi miễn Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà nước các cấp, nếu
họ có tư tưởng hoặc việc làm có hại đến nhà nước, hại đến dân. Nhà nước
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu mới: Nhà
nước của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của nhà nước bắt nguồn từ lực
lượng toàn dân đoàn kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà nước ta
còn là nhà nước do dân. Bác viết:“Trong thế giới không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”, “Không có lực lượng nhân dân thì việc nhỏ
mấy, dễ mấy làm cũng không xong”; “Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải
đoàn kết thành một khối”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân phải được thể
hiện ở các chủ trương, chính sách của nhà nước trong mọi mặt đời sống xã
hội là vì dân. Ngay sau khi nước nhà dành được độc lập, Người nói rõ: “…
nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân đã và sẽ
mãi mãi là người làm nên lịch sử. Thực hiện tốt Di huấn của Bác về lấy dân
làm gốc, chắc chắn bộ máy Nhà nước ta sẽ “chạy” đều, hiệu quả quản lý điều
hành chắc chắn có hiệu lực cao. Đó là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn
Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp
thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền
làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh so với các bậc tiền bối
* Các triều đại đều nhận ra rõ sức mạnh của nhân dân
Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là
những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật
chất tiềm tàng của toàn dân. Kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên
thời Lý - Trần là những minh chứng hùng hồn.
Từ những hoàn cảnh, đặc điểm và thực tế của lịch sử dân tộc, một số
nhân vật tiến bộ trong giai cấp phong kiến như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng
Đạo... đã nhận thức khá sâu sắc vai trò quyết định của nhân dân trong chiến
tranh chống ngoại xâm cũng như trong các biến cố lớn của lịch sử. Trần Hưng
Đạo cho rằng "vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là
nguyên nhân thắng lợi của kháng chiến thời Trần. Theo ông, "chúng chí thành
thành", chí dân là bức thành giữ nước. Chính vì nhận thức về vai trò đoàn kết
toàn dân là rất quan trọng, Trần Quốc Tuấn đã đề ra "thượng sách giữ nước"
là "khoan thư sức dân làm kế rễ bén gốc". Đó là điều kiện tiên quyết để chiến
thắng kẻ thù. Ông đã thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với
vĩ nhân trong lịch sử. Trần Quốc Tuấn nói: "Chim hồng học bay được cao là
nhờ ở sáu cái lông cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì cũng như chim
thường thôi". Như vậy, anh hùng xuất chúng làm nên nghiệp lớn là nhờ sự
ủng hộ của quần chúng nhân dân tộc.
Các triều đại phong kiến Việt Nam độc lập trong lịch sử đều "Lấy dân
làm gốc" trong việc ban hành các chủ trương, chính sách, từ kinh tế, xã hội,
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
văn hoá, luật pháp đến an ninh, quốc phòng, ngoại giao... Triều Khúc Thừa
Dụ có chính sách "Khoan, giản, an, lạc"; triều Lý có chính sách "Ngụ binh ư
nông"; triều Trần có "Khoan, thư sức dân" , "Chúng chí thành thành" và nổi
tiếng với Hội nghị Diên Hồng; triều Lê quan niệm "Dân như nước có thể đẩy
thuyền, lật thuyền", nên vai trò, vị trí người dân được luật hoá trong Bộ luật
Hồng Đức. Căn cứ vào thực tiễn lịch sử, nhà sử học Ngô Sĩ Liên (thời Lê)
tổng luận, các triều đại đó đã "Lấy nghĩa mà duy trì, lấy nhân để cố kết, lấy trí
để trông coi, lấy tín để ngăn phòng. Có đặt dân lên chốn chiếu êm mới làm
cho thế nước vững như núi Thái Sơn, bàn thạch. Chăm lo cho nước trở nên
văn minh, dân đến chỗ giàu thịnh là mưu hay trị dân, giữ nước; là kế xa sửa
nước, chăn dân". Cụ thể, Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện sâu sắc tư tưởng "Lấy
dân làm gốc" của dân tộc ta, trong "Điều 294: Trong kinh thành và phường
ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở đường xá, cầu điếm,
chùa quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm cháo,
thuốc men, cốt sao cứu sống họ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình
quan trên và tổ chức chôn cất, không được để lộ thi hài. Nếu phạm tội này thì
quan làng xã bị tội biếm hay bãi chức". Tính chất nhân đạo - "Lấy dân làm
gốc" được nêu trong điều này của Bộ luật Hồng Đức chỉ xuất hiện ở châu Âu
mấy thế kỷ sau đó, khi nổ ra cách mạng tư sản .
Ngay từ xa xưa của lịch sử phương Đông, khi mà ông vua được coi là
Thiên tử (con Trời), là đấng tối linh “thế thiên hành đạo” mà đã có nhà hiền
triết nêu: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” - dù mới còn ở dạng
manh nha, nhýng cho thấy rằng “dân chủ” ðã xuất hiện rất sớm trong lịch sử
nhân loại, ngay cả trong xã hội độc quyền. Dân chủ là khát vọng từ lâu của
con người. Ở nước ta, đời nhà Trần, trước họa xâm lược của giặc Nguyên
Mông, triều đình đã triệu tập Hội nghị Diên Hồng, một hình thức sinh hoạt
dân chủ trong lịch sử nước nhà khi Phật giáo là quốc đạo. Tại hội nghị, vua
tôi và các bô lão đại diện cho trăm họ đã đồng lòng quyết chiến, thể hiện khí
thế hào hùng của dân tộc trên cơ sở nhu cầu chung là bảo vệ bờ cõi. Vì có
“dân chủ” cả nước mới “đồng lòng” đứng lên đánh giặc cứu nước và đã ba lần
đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông, viết nên những trang chói lọi của
lịch sử nước nhà. Cũng với tinh thần đó mà Lê Lợi, Quang Trung đã đánh
thắng quân xâm lược phương Bắc, giành và giữ vững nền độc lập Tổ quốc.
Thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong việc giữ
nước, cho nên ngay từ thời Lý việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến
nguyện vọng của nhân dân đã được khẳng định là điều quan trọng hàng đầu
trong đạo trị nước. Trong bài văn lộ bố khi đánh Tống của Lý Thường Kiệt có
viết: "Trời sinh ra dân chúng; vua hiền tất hòa mục. Đạo làm chủ dân cốt ở
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nuôi dân". Rồi đến bài Minh bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn đã ca ngợi
công đức của Lý Thường Kiệt: "...làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn
hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến
mọi người, cho nên nhân dân kính trọng... Thái úy biết dân lấy sự no ấm làm
đầu, nước lấy nghề nông làm gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà
không khoe khoang, nuôi dưỡng đến người già ở nơi thôn dã, cho nên người
già nhờ đó mà được yên thân. Phép tắc như vậy có thể gọi là cái gốc trị nước;
cái thuật yên dân; sự đẹp tốt đều ở đấy cả". Và một khi việc bồi dưỡng sức
dân, chăm lo đời sống nhân dân có một tầm quan trọng như vậy trong đạo trị
nước, thì cũng dễ dàng trở thành một tiêu chuẩn chính trị để nhà vua dựa vào
đó mà tự răn mình. Năm 1207, vua Lý Cao Tông đã hạ chiếu rằng: "Trẫm còn
bé mà phải gánh vác việc lớn, ở tận nơi cửu trường, không biết cảnh khó khăn
của dân chúng, nghe lời tiểu nhân là gây nên oán với kẻ dưới. Dân đã oán thì
trẫm còn biết dựa vào ai? Nay trẫm sẽ sửa lỗi cùng dân đổi mới". Hay
như vua Lý Thánh Tông nhân tiết trời giá lạnh mà cảm thương đến cả "những
kẻ bị giam trong ngục xiềng xích khổ sở, ngay gian chưa định, bụng không
cơm no, thân không áo ấm" . Và cái tình cảm đó càng tha thiết khi nhà vua
nhìn công chúa Động Tiên mà bảo với ngục lại rằng: "Ta yêu con ta cũng như
những bậc cha mẹ yêu con cái họ. Trăm họ không biết gì nên phạm vào luật
pháp ta rất xót thương. Nên từ nay các tội bất kỳ nặng nhẹ nhất thiết đều
khoan giảm" (theo Đại Việt sử ký toàn thư). Với tinh thần khoan dung nói
trên, nhà Lý đặt chuông lớn ở Long Trì để dân "ai có điều oan ức không bày
tỏ được" thì đến đánh chuông tâu vua. Nhà Lý còn dựng cung Long Đức ở
ngoài Hoàng thành, trong khu vực phố phường cho Hoàng thái tử ở, để có
điều kiện "gần dân và xem xét việc dân" . Hay trước họa xâm lăng của đế chế
Mông - Nguyên, nhà Trần mở hội nghị Diên Hồng để cùng các vị bô lão những người đại biểu đầu bạc có uy tín của dân - bàn kế đánh giặc. Trong
ngày hội non sông đó, các bô lão đã nói lên tiếng nói của toàn dân "muôn
người như một" là "quyết đánh". Điều đó cho thấy, thời Lý - Trần, sự quan
tâm đến dân được đề ra như một vấn đề khẩn thiết của đạo trị nước, nhưng
vấn đề đó lại được coi là một yếu tố của khái niệm đức trị. Bởi thời đó quan
niệm rằng, vua mà có đức và biết sửa đức thì "án trạch thấm thía đến quần
chúng" làm cho "dân sinh sống dễ dàng" và "muôn họ âu ca" trong cảnh thái
bình thịnh trị.
Như vậy, trên vũ đài chính trị và tư tưởng thời Lý - Trần, nhân dân đã
được nhìn nhận như một lực lượng xã hội cần phải quan tâm đến khi tiến
hành những cuộc chiến tranh giữ nước và duy trì trật tự xã hội nhằm đem lại
sự thịnh vượng cho nước nhà. Và giá trị tích cực của quan điểm thân dân,
"khoan thư sức dân" trong thời Lý - Trần chính là ở chỗ đó.
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng” và kế thừa hệ tư tưởng phương Đông: “Nước lấy dân
làm gốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn ra sức mạnh của con người
trong sự cố kết với cộng đồng dân tộc, giai cấp với sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Theo Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không
gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Sự đoàn kết của nhân dân là
lực lượng vô địch, dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống lại nổi. “Sự đồng tâm của đồng bào đúc thành một bức tượng đồng
xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn xảo quyệt đến mức nào đụng đầu
nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Những ngày đầu xây dựng chính quyền cách mạng từ sau ngày cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ vai
trò to lớn của nhân dân, đồng thời vạch ra 12 điều răn rất cụ thể để giáo dục
bộ đội, cán bộ “khi tiếp xúc và chung sống với nhân dân”. Đảng ta tiếp thu tư
tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định:
Cần thắt chặt hơn nữa quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, chính Đảng
cũng từ nhân dân, là một bộ phận tiên tiến của nhân dân, tạo điều kiện để
nhân dân thực sự là người chủ, trực tiếp tham gia công việc quản lý đất nước,
quản lý xã hội trong giai đoạn mới của cách mạng. “Dân làm gốc”, “Dân làm
chủ”, trong tư tưởng và hành động phải nhất quán, gắn bó hữu cơ. Bước vào
công cuộc đổi mới đất nước “người chủ” chưa thể làm chủ ngay trên tất cả
các mặt hoạt động của xã hội, cần phải có người đại diện cho mình để làm
chủ. Còn bản thân “người chủ” phải được học làm chủ, trên mọi mặt của đời
sống xã hội. Đây là một quá trình lâu dài. Cho nên, để phát huy vai trò “Dân
làm gốc”, “Dân làm chủ” trong điều kiện của đất nước ta, cần thật sự bảo đảm
các quyền của “Người chủ”, chứ không phải chỉ trên các văn bản pháp lý,
hoặc trên lời nói. Người đại diện cơ quan, đại diện cho sự làm chủ của nhân
dân phải được tuyển chọn nghiêm ngặt, “có ý thức phục vụ dân”, “làm đầy tớ
cho dân”, phải đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, tự mình “Cần kiệm, liêm
chính, chí công vô tư”…
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán nghiêm khắc những hành vi xem
thường nhân dân của một số cán bộ, đảng viên. Trong tác phẩm “Cần tẩy sạch
bệnh quan liêu mệnh lệnh” (Hồ Chí Minh toàn tập – tập 6 – trang 192-193),
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Ai cũng biết bệnh quan liêu mệnh lệnh là nguy
hiểm. nhưng trong công tác thực tế như trong việc tạm vay thóc chiêm vừa
rồi, nhiều cán bộ ta còn mắc bệnh ấy. miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc
thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và
chính sách của Đảng và Nhà nước
* Quan điểm của HCM có những nét giống với Phật Giáo
Điểm thứ nhất là thái độ quý trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của
dân. Về điều này, Mạnh Tử đã có câu nói lịch sử: “Dân là quý, sau mới đến
xã tắc, vua thì xem nhẹ” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Tuân Tử
cũng có câu nói rất nổi tiếng: “Vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền,
nước cũng lật thuyền” (Quân giả chu dã, thứ dân giả thủy dã, thủy tắc tải chu,
thủy tắc phúc chu). Từ đó, Nho gia thấy được một điểm hết sức quan trọng là:
“Dân là gốc nước, gốc vững, nước yên” (Dân duy bang bản, bản cố, bang
ninh). Điều đó được nói trong sách Kinh Thi. Hoặc: “Đường lối được dân
chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước” (Đạo đắc chúng tắc đắc
quốc, thất chúng tắc thất quốc). Điều đó được nói trong sách Đại Học. Chủ
tịch Hồ Chí Minh cũng có quan điểm tương tự như Nho gia, khi Người nói:
“Trong bầu trời không có gì quý hơn bằng nhân dân. Trong thế gian không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”
Điểm thứ hai là quan tâm đến đời sống của dân. Nho gia yêu cầu các
bậc trị quốc phải bảo đảm cho người dân có đời sống tối thiểu để họ: “ngẩng
lên đủ để phụng dưỡng cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi sống vợ con” (sử
ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ cập, dĩ sức thê tử). Muốn vậy, người dân phải
có “thu nhập ổn định” (hằng sản) đủ để sống. Nếu trên nét mặt người dân có
sắc đói là trách nhiệm của kẻ cầm quyền. Đó là quan điểm tiến bộ của Mạnh
Tử. Đây cũng là quan điểm cơ bản trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
khi người xác định trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trong việc đề ra và
thực hiện các chính sách: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức
chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có
lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ
có lỗi; nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính
quyền từ trên xuống dưới phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”.
Điểm thứ ba là phải gần dân, đối xử đúng mức với dân. Kinh Thư viết:
“Đối với dân nên gần, không nên coi là thấp hèn” (dân khả cận, bất khả hạ).
Khổng Tử nhắc nhở những người cầm quyền: “Sai khiến dân phải cẩn thận
như điều hành một cuộc tế lễ lớn” (Sử dân như thừa đại lễ). Tác phong gần
gũi nhân dân là nét tính cách tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời,
Bác hay đi thăm hỏi đồng bào, tìm hiểu đời sống của nhân dân ở nhiều địa
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
phương. Tác phong gần dân của Bác còn thể hiện ở cuộc sống giản dị của
Người. Là Chủ tịch nước, nhưng từ chỗ ở đến cách ăn mặc và sinh hoạt hằng
ngày của Người không có sự khác biệt bao nhiêu so với người dân bình
thường. Bác luôn giáo dục cán bộ, đảng viên không được có tác phong quan
liêu, cuộc sống quan cách xa rời nhân dân.
Điểm thứ tư là lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (Tiên thiên hạ chi ưu
nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Đây là một phương châm sống cao
thượng của những nhà nho chân chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện
quan điểm này trong toàn bộ hoạt động cũng như đời sống của Người. Bác
chăm lo cho tất cả mọi người nhưng không bao giờ đòi hỏi đãi ngộ cho riêng
mình. Làm việc gì, sống như thế nào, bao giờ Bác cũng nghĩ đến dân trước
hết.
Sở dĩ có sự giống nhau là vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa những
yếu tố tích cực trong tư tưởng của Nho gia .Tuy nhiên,Bên cạnh đó thì những
điểm khác nhau:
Điểm thứ nhất là thái độ đối với người dân, nhất là người lao động chân
tay và cách sống gần dân.
Nho gia miệt thị người dân lao động. Về trí tuệ, họ xếp con người thành
hai loại: thượng trí và hạ ngu. Thượng trí là bọn cầm quyền, bọn “quân tử”.
Hạ ngu là người dân lao động. Họ cho rằng hai loại người này do số phận an
bài nên không bao giờ thay đổi (Duy thượng trí hạ ngu bất di). Trong xã hội,
họ phân biệt nghề sang, nghề hèn. Họ đề cao lao động trí óc bằng quan điểm:
“Vạn cái nghề đều thấp hèn, duy chỉ có đọc sách là cao cả” (vạn ban giai hạ
phẩm, duy hữu độc thư cao).
Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tôn trọng nhân
dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn học hỏi nhân
dân, học tập kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, coi nhân dân là người thầy
của mình. Người tôn trọng tất cả mọi người, tất cả các nghề trong xã hội.
Người nói: “Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư, nếu
làm tròn trách nhiệm cũng vẻ vang như nhau”
Nho gia khuyên những người cầm quyền “nới nhẹ sức dân”, “thương
dân”. Điều đó có thể là tích cực, nhưng vẫn thuộc cử chỉ của người trên, của
người “chăn dân”, của những ông “quan phụ mẫu”. Về điều này, sách Kinh
Thi viết: “Vui thay bậc quân tử là cha mẹ dân” (Lạc chi quân tử, dân chi phụ
mẫu). Sách Đại Học viết: “Dân thích điều gì, người thích điều ấy; dân ghét
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
điều gì, người ghét điều ấy, thế mới là cha mẹ dân” (Dân chi sở hiếu, hiếu chi;
dân chi sở ố, ố chi, thử chi vị dân chi phụ mẫu). Sách Trung Dung cũng cho
rằng: “Thương dân như con thì khuyến khích được trăm họ” (Tử thứ dân tắc
bách tính khuyến)
Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại cho rằng,
những người cầm quyền trong xã hội là “người đầy tớ của nhân dân”. Người
nói: “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch
nước đều là sự phân công làm đầy tớ cho dân. Đó là vinh dự cao nhất”. Trong
Di chúc, Người viết: “Phải gìn giữ Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người còn cho
rằng: cán bộ, đảng viên thương dân chưa đủ mà còn phải hiếu với dân, như
con cái giữ tròn chữ hiếu đối với cha mẹ.
Về cách sống “gần dân”, Nho gia nói “dân khả cận”. Nhưng vua chúa,
quan lại phong kiến sống trong lầu son gác tía, mấy khi người dân đen thấy
“mặt rồng”, mặt “quan phụ mẫu”. Chúng sống một cuộc đời vương giả đầy
nhung lụa và yến tiệc. Trong khi đó người dân sống trong bần hàn, cơ cực.
Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với mọi người như người cha,
người bác, người anh gần gũi. Bác ở trong căn nhà sàn giản dị, Bác cũng dùng
món ăn dân dã trong bữa cơm, Bác đi dép cao su như mọi người dân lúc đó.
Bác thường mặc bộ ka ki bạc màu khi đi công tác, kể cả đi nước ngoài, mặc
áo nâu như một lão nông khi ở nhà. Chưa kể có những lúc Bác mặc áo vá!
Một lần, mấy cán bộ gần Bác băn khoăn về chuyện này, Bác nói: “Chủ
tịch Đảng, Chủ tịch nước mà mặc áo vá vai như thế này là cái phúc của dân
đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”. Câu nói thật sâu sắc và cảm động. Không biết
hiện nay “cái phúc ấy” còn bao nhiêu cán bộ lãnh đạo giữ lại được để cho dân
nhờ? Tất nhiên, hiện nay đời sống của nhân dân đã được cải thiện nhiều thì
cán bộ không nhất thiết cứ phải mặc áo vá. Điều Bác muốn nói là: cán bộ lãnh
đạo mà biết sống giản dị, tiết kiệm, trong sạch, biết nghĩ đến dân và vì dân mà
sống thì đó là cái phúc của dân.
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Điểm thứ hai: mục đích “lấy dân làm gốc”.
Mục đích của Nho gia là để làm dịu mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị
và tầng lớp bị trị, nhất là ở thời đại nhà Chu mâu thuẫn giữa dân và giai cấp
quý tộc rất gay gắt. Giai cấp thống trị mong muốn, nếu người dân được “bề
trên” “quan tâm” thì yên bề ở vị trí nô lệ của mình, không đụng chạm đến
quyền lợi, địa vị của chúng.
Ngược lại, mục đích thực hiện quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là để giải phóng người dân thoát khỏi tình trạng bị nô lệ về
chính trị, bị kiệt quệ về kinh tế, bị tối tăm về tinh thần, tư tưởng, văn hóa, giáo
dục do xã hội cũ gây nên. Người nói: “Tôi chỉ có ham muốn, ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta hoàn toàn được tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Điểm thứ ba: sự hiện thực hóa quan điểm “lấy dân làm gốc”.
Quan điểm của Nho gia chủ yếu có ý nghĩa trên diễn đàn, học thuật,
không được giới cầm quyền đương thời thi hành, vì đụng chạm đến quyền lợi
của chúng. Về mặt vật chất, người dân vẫn sống trong bần hàn, đói rách, vì bị
bóc lột thậm tệ. Họ đâu có được “hằng sản” (thu nhập ổn định) đủ để sống,
như Mạnh Tử mong muốn. Về tinh thần, tuyệt đại bộ phận người dân sống
trong ngu dốt. Hưởng thụ văn hóa, giáo dục là đặc quyền, đặc lợi của giai cấp
thống trị. Đâu có như Khổng Tử mong muốn là “hữu giáo vô loại” (có một
nền giáo dục không phân biệt đẳng cấp).
Ngược lại, quan điểm “lấy dân làm gốc” hay lý tưởng sống vì dân của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện bằng chính hoạt động của Người.
Người không chỉ nói mà còn làm. Người suốt đời phấn đấu không ngừng cho
lý tưởng đó. Người đã tổ chức, lãnh đạo nhằm phát huy sức mạnh của toàn
Đảng, toàn dân trong các giai đoạn của cách mạng và đã đưa cách mạng đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đời sống chính trị cũng như đời sống kinh tế
và văn hóa - giáo dục của nhân dân ta không ngừng được cải thiện và nâng
cao.
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Vấn đề tư tưởng nhân thân được Đảng và nhà nước ta vận dụng
trong hiện nay
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với quan điểm
“lấy dân làm gốc” của Người. Vì đó là cái “gốc” làm nên nhân cách vĩ đại Hồ
Chí Minh, là xuất phát điểm của mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà
nước ta. Đồng thời, đó cũng là cơ sở mà cán bộ, đảng viên, nhất là lực lượng
lãnh đạo xã hội cần phải dựa vào để rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng
của mình.
Chính những tư tưởng của Người về vấn đề thân dân đã chỉ đạo cho
hoạt động cách mạng của chúng ta trong việc huy động sức mạnh vật chất và
tinh thần phục vụ cho cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng mối quan hệ
đoàn kết toàn dân.
Về mặt tích cực
Hiện nay, đại đa số cán bộ, đảng viên ta đã nhận thức và làm tốt việc
coi trọng nhân dân, vì nhân dân phục vụ, làm cho kinh tế, văn hóa và xã hội
có tiến bộ trên nhiều mặt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện...
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN của toàn dân
ta đã có những thuận lợi mới, thời cơ mới, thực lực và sức mạnh mới, đưa dân
tộc lên vị thế chưa từng có. Bạn bè tăng lên, thù giảm bớt, đói nghèo lạc hậu
từng bước được đẩy lùi, đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá không ngừng
được cải thiện. "Lấy dân làm gốc" ngày nay được kế thừa và phát huy trong
điều kiện, vẫn đất nước mình, dân tộc mình, nhưng kết cấu dân cư, thành
phần giai cấp, xã hội đã có nhiều đổi mới. Do đó, phải phát huy được hiệu quả
của mọi thành phần kinh tế, trờn co s? bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
trong cuộc trường chinh chống đói nghèo và lạc hậu, phát huy được sức mạnh
Việt Nam, trí tuệ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước, vì mục tiêu "Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Truyền thống "Lấy
dân làm gốc", hơn lúc nào hết, cần được kế thừa và phát triển một cách sáng
tạo trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững chắc để nhanh
chóng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Quốc phòng ngày
nay không chỉ là hoạt động chuẩn bị đối phó với chiến tranh mà trước hết là
hoạt động đẩy lùi và ngăn chặn chiến tranh, tạo môi trường thuận lợi cho việc
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hơn lúc nào hết, cần làm cho mỗi người dân
nâng cao ý thức quốc phòng, thực sự chăm lo, góp phần xây dựng, củng cố
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
sức mạnh quốc phòng toàn dân. Muốn vậy, phải tạo dựng được "Thế trận lòng
dân" vững chắc. Thực tế cho thấy, nơi nào nhân dân phấn khởi, tin tưởng ở
lãnh đạo thì mọi việc ở nơi đó thành công, nơi nào để cho nhân dân bất bình,
mất lòng tin ở lãnh đạo thì nơi ấy tình hình không ổn định, luôn luôn có diễn
biến phức tạp. Mặt khác, những nơi có cơ sở chính trị yếu kém, vai trò lãnh
đạo bị buông lỏng, không nắm được quần chúng, lòng dân không yên, mất
niềm tin... thì các thế lực thù địch sẽ tranh thủ lôi kéo, kích động, chia rẽ nhân
dân, tạo nên những vụ, việc phức tạp gây mất ổn định chính trị. Không thế
trận nào vững mạnh bằng "Thế trận lòng dân", tạo dựng được "Thế trận lòng
dân" vững chắc là nhân tố quyết định sức mạnh quốc phòng hiện nay. Để có
thế trận đó, trước hết phải đẩy mạnh nhiệm vụ then chốt là xây dựng, chỉnh
đốn Đảng - nhân tố quyết định của mọi thắng lợi và trực tiếp tạo ra sức mạnh
quốc phòng, trong đó có tiềm lực cơ bản là sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Cùng với đó, phải đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, tạo cơ
sở vật chất kỹ thuật để không ngừng tăng tích luỹ tiềm lực quốc phòng. Trước
mắt, tập trung đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, chăm lo cải thiện, nâng cao đời
sống mọi mặt của nhân dân, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ cách mạng. Đi đôi với phát triển
kinh tế -xã hội, thường xuyên coi trọng công tác giáo dục quốc phòng, nâng
cao lòng yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc XHCN cho toàn dân. Cần
làm cho mỗi người thấy, với tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện
nay, nếu ta giữ được sự ổn định từ trong Đảng, trong nước, trong nội bộ chế
độ thì các thế lực thù địch bên trong cũng không dễ gì gây ra đảo lộn lớn, tạo
cớ cho bên ngoài can thiệp. Trong bất kể tình huống nào, kế thừa và phát huy
truyền thống "Lấy dân làm gốc", với quan điểm "Dân thực sự là người làm
chủ". Xét trên góc độ an ninh - quốc phòng, ta phải chủ động phòng ngừa,
đồng thời bảo đảm xử lý kịp thời, kiên quyết, khẩn trương, khôn khéo, nhanh
gọn các tình huống phức tạp, thì dù nó đã xảy ra cũng không thể lan rộng, kéo
dài. Sự chủ quan đối với các nguy cơ và tệ nạn nội sinh dễ tạo ra những hậu
quả xấu, có thể dẫn đến bất ngờ về chiến lược. Đó là bài học sâu sắc của
nhiều nước XHCN vừa qua.Tạo lập được "Thế trận lòng dân" chính là xây
móng, dựng nền để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc và lực
lượng vũ trang nhân dân vững mạnh. Đó là sự liên kết chặt chẽ thế trận của
các lĩnh vực, các ngành, được thể hiện trong mối quan hệ cụ thể song phương
và đa phương, như kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng với kinh tế,
an ninh với đối ngoại hoặc kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh và quốc
phòng – an ninh với đối ngoại; kết hợp thế trận chung trên phạm vi toàn quốc
với thế trận ở từng địa phương, từng cơ sở; kết hợp thế trận tại chỗ với thế
trận cơ động; kết hợp thế trận trong nước với thế trận ngoài nước; thế trận
thời bình với thế trận thời chiến; thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chiến tranh nhân dân. Thế trận quốc phòng toàn dân là thể hiện sự liên kết
toàn diện trong mọi ngành nghề, mọi tầng lớp nhân dân... nhằm phát huy mọi
khả năng tạo nên sức mạnh tổng hợp lớn nhất, đáp ứng kịp thời mọi tình
huống, cả trong thời bình và thời chiến. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân vững mạnh, bao gồm các thứ quân, cả bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương,
dân quân, tự vệ. Trong đó phải tập trung xây dựng quân đội nhân dân "cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", có lực lượng dự bị hùng
hậu, lực lượng thường trực với chất lượng tinh, số lượng hợp lý, thực sự là
nòng cốt cho sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng và cho toàn dân chiến
đấu trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Để lực lượng vũ trang nhân dân có sức
mạnh tổng hợp, cần phải xây dựng toàn diện; trong đó hết sức coi trọng xây
dựng bản lĩnh chính trị, xây dựng lòng trung thành vô hạn đối với Đảng, với
chế độ, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân là chủ thể của đất nước, nền quốc phòng toàn dân
chỉ thực vững chắc khi được kết hợp từ nhiều nguồn lực, trong đó nguồn lực
từ nhân dân là vô tận. Trong điều kiện hiện nay, khi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
XHCN có những phát triển mới, yêu cầu xây dựng nền quốc phòng toàn dân
ngày một cao thì càng phải biết dựa vào dân, phát huy nguồn lực to lớn từ
nhân dân. Phải nghiên cứu, cân nhắc xã hội hoá một số nội dung của xây
dựng nền quốc phòng, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Vừa qua, một số địa
phương đã thực hiện xã hội hoá công tác quốc phòng khá hiệu quả, như tham
gia thực hiện chính sách, chế độ đối với dân quân, đóng góp kinh phí xây
dựng đường, mương, trạm điện.... kết hợp kinh tế và quốc phòng, xây dựng
thế trận quốc phòng. Trong thời gian tới, cần rút kinh nghiệm để đẩy mạnh
hơn nữa theo hướng này. Chỉ có như vậy, sự nghiệp quốc phòng mới thực sự
là sự nghiệp của dân. "Lấy dân làm gốc" là một truyền thống văn hóa chính
trị, chính vì thế việc nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ d?ng, từ
Trung ương đến cơ sở, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức,
nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị... là điều kiện tiên quyết
trong việc kế thừa và phát huy truyền thống này một cách có hiệu quả vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, vào nhiệm vụ xây dựng, củng
cố nền quốc phòng toàn dân nói riêng.
Để hiểu được những tâm tư, nguyện vọng của người dân,ở các cấp xã
đã thành lập Ban Dân vận với thành viên là những đảng viên ưu tú. Định kỳ,
Ban Dân vận có những buổi tham gia sinh hoạt trực tiếp với dân, để vừa phổ
biến nội dung những chủ trương, chính sách của Đảng đến bà con, vừa lắng
nghe sự phản ánh từ phía nhân dân, kịp thời sửa đổi những bất cập trong chỉ
đạo, chấn chỉnh tư cách những đảng viên chưa gương mẫu.... Thực hiện đúng
nội dung Quy chế dân chủ tại cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất
20