Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh

.DOCX
12
622
85

Mô tả:

ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
LỜI NÓI ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật nhất, có giá trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta và toàn nhân loại. Do đó việc tìm hiểu rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này hết sức cần thiết để mỗi chúng ta hiểu rõ hơn vai trò và trách nhiệm của mình trong cuộc sống, đối với mọi người, đối với đất nước. Từ đó, giúp chúng ta có một cái nhìn đúng đắn về lòng đoàn kết, nhân nghĩa trong mỗi con người để tự hoàn thiện mình, để sống tốt hơn, có ý nghĩa hơn. Đấy cũng là lí do thúc đẩy em được chọn đề tài: “Phân tích những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và tư tưởng đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân của Người”. Bài làm của em còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đánh giá nhận xét từ các thầy cô giáo để bài làm của em được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC 1. Những giá trị truyền thống dân tộc: Đại đoàn kết dân tộc đã hình thành và củng cố trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, tạo thành truyền thống bền vững thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Những giá trị truyền thống dân tộc bao gồm chủ nghĩa yêu nước, tinh thần nhân nghĩa và tinh thần đoàn kết; ý chí đấu tranh anh dũng bất khuất vì độc lập tự do, ý thức tự lực tự cường; tinh thần tương thân, tương ái, vị tha, lạc quan, yêu đời của con người và dân tộc được hình thành, củng cố trong những điều kiện chính trị, môi trường tự nhiên, nền kinh tế, cấu trúc xã hội ba tầng gia đình - làng xã - quốc gia rất đặc trưng của Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử tạo nên sức mạnh to lớn để dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai, địch họa. Như vậy, những giá trị truyền thống dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đối với mỗi người Việt Nam, những giá trị truyền thống dân tộc được vun đắp suốt chiều dài lịch sử như yêu nước, nhân nghĩa và đoàn kết trở thành một tình cảm tự nhiên, một triết lý sống, thành phép tư duy lý luận và tư duy chính trị. Những giá trị đó tồn tại và bất diệt cho đến ngày nay: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”; Tình làng nghĩa nước; Nước mất thì nhà tan; Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Những giá trị đó đồng thời chi phối đạo làm người của người Việt Nam theo suốt chiều dài lịch sử. Triết lý nhân sinh trong đạo làm người của con người Việt Nam luôn lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy khoan dung, hòa mục để ứng xử trong quan hệ với bè bạn, kể cả kẻ thù khi đã thua trận và luôn trọng trí thức, dùng hiền tài trong lao động sản xuất, trong chiến đấu và trong xây dựng xã hội mới. Đây cũng chính là sợi dây liên kết các giai tầng, các dân tộc trong xã hội Việt Nam. Những giá trị truyền thống dân tộc còn được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, và đã được các anh hùng trong lịch sử nâng lên thành phép đánh giặc, trị nước, như: phương pháp thống nhất lợi ích, tư tưởng; phương pháp nuôi dưỡng sức dân và sử dụng sức quân của Trần Hưng Đạo: “Trên dưới đồng long, cả nước chung sức”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc giữ nước”; phương pháp thần tốc táo bạo của Quang Trung; phương pháp tập hợp lực lượng và sức mạnh nhân dân của Nguyễn Trãi, cụ Phan Bội Châu, Cụ Phan Châu Trinh: “Dựng gậy làm cờ, tập hợp bốn phương manh lệ”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”… Đó là tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong lịch sử. Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu được những giá trị truyền thống của dân tộc, cũng có nghĩa, Người đã sớm nhận thức được sức mạnh dân tộc, những quan điểm nhân sinh và phương pháp đánh giặc của ông cha ta kết hợp với những giá trị thời đại để chuyển thành hệ thống quan điểm cách mạng của mình. Người khẳng định "từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước...". Hồ chí Minh còn nhấn mạnh phải phát huy truyền thống ấy trong giai đoạn cách mạng mới "phải giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến". Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 2. Quá trình tổng kết thực tiễn các phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới Từ việc tổng kết các phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Vận mệnh của đất nước đòi hỏi phải có một hệ tư tưởng mới hay một lực lượng lãnh đạo mới; lực lượng đó có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và những yêu cầu của thời đại; có đủ khả năng quy tụ, tập hợp lực lượng của cả dân tộc vào cuộc đấu tranh chống thực dân đế quốc, phong kiến và xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững; phải đoàn kết với cách mạng các nước khác. Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh muốn đi tìm cái mà đất nước đang cần. Hồ Chí Minh tổng kết, đánh giá các di sản truyền thống về tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa, từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm để hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng về đại đoàn kết của mình. Các phong trào cách mạng Việt Nam thực tế vừa hào hùng, vừa bi tráng từ các phong trào Cần Vương, Văn Thân, Yên Thế cuối thế kỷ XIX, đến các phong trào Đông Du, Duy Tân, chống thuế đầu thế kỷ XX, là các thế hệ người Việt Nam đã liên tiếp đoàn kết cùng nhau đứng dậy chống ngoại xâm, mặc dù thất bại song đều nói lên truyền thống yêu nước quật cường của dân tộc. Yêu cầu của thời đại mới là phải có lực lượng lãnh đạo đủ sức quy tụ cả dân tộc vào đấu tranh cách mạng, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì mới giành thắng lợi. Hồ Chí Minh đã thấy hạn chế trong phương pháp tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối. Người nhận rõ nếu chỉ có yêu nước thôi thì không đủ để đánh thắng giặc. "Sử ta đã dạy cho ta rằng, khi nào dân ta biết đoàn kết thì khi đó dân ta giành thắng lợi." Người đã tìm cách sang Pháp để tìm hiểu và trở về giúp đồng bào mình. Khi ở nước ngoài, Hồ Chí Minh khảo sát tình hình các nước tư bản chủ nghĩa và các nước thuộc địa, Người nhìn thấy tiềm ẩn to lớn của họ và cũng thấy hạn chế là các dân tộc thuộc địa chưa có tổ chức, chưa biết đoàn kết, chưa có sự lãnh đạo đúng đắn. Hồ Chí Minh rút ra kết luận “Cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp là những cuộc cách mạng chưa đến nơi”, vì sau khi cách mạng thành công, nhân dân vẫn bị áp bức bọc lột và nghèo nàn; cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa đang tiềm ẩn một sức mạnh to lớn nhưng chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết và chưa có tổ chức. Trong các phong trào cách mạng thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến cách mạng của Trung quốc và Ấn độ, với tư tưởng là đoàn kết các giai tầng, các đảng phái, các tôn giáo... nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn cách mạng như chủ trương "hợp tác Quốc - Cộng" của Tôn Trung Sơn.... Sau thắng lợi của Cách mạng tháng mười Nga, Người đánh giá đây là cuộc cách mạng đến nơi, đến chốn vì “cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Hồ Chí Minh đã tìm hiểu thấu đáo con đường Cách mạng tháng Mười, bài học kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là bài học huy động lực lượng quần chúng công - nông giành và giữ chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Nhờ có sự trải nghiệm và đánh giá tổng kết các phong trào cách mạng của dân tộc và sự bôn ba khắp năm châu, bốn biển, tắm mình trong phong trào đấu tranh cách mạng của các dân tộc, các nước tư bản, người rút ra những bài học kinh nghiệm đấu tranh không thể không có sự đoàn kết chặt chẽ của những người cùng khổ thành khối vững chắc từ đó chuẩn bị những nhân tố cần thiết cho việc lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng. Đó là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. 3. Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dân tộc. Liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách mạng. Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Mác nêu khẩu hiệu "Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại". Lênin làm cách mạng vô sản thành công ở nước Nga, lực lượng công - nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết quốc tế. Khẩu hiệu của Mác được mở rộng "Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Hồ Chí Minh tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào Việt Nam. Người thực hiện xây dựng khối Liên minh giai cấp ; thành lập Mặt trận ; đoàn kết quốc tế, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người thực hiện tài tình cuộc chiến tranh nhân dân đánh thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người kêu gọi toàn dân kháng chiến, toàn quốc kháng chiến, toàn dân kiến quốc. Người chủ trương không phân biệt già, trẻ, gái, trai, hễ là người Việt Nam đều đứng lên chống thực dân giành quyền độc lập. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin vì Người đã tìm thấy con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách nô lệ, tìm thấy sự cần thiết và con đường tập hợp lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên phạm vi toàn thế giới. Nhờ những quan điểm trên mà Hồ Chí Minh đã có cơ sở khoa học để thu hái những hiểu biết của các tư tưởng đi trước để lại và chuyển hóa chúng thành hệ thống tư tưởng của mình về đại đoàn kết dân tộc. II. TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN CỦA HỒ CHÍ MINH Toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không được như vậy thì quần chúng nhân dân dù có đông đến đến hàng triệu hàng trăm triệu con người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh. Thất bại của các phong trào đấu tranh yêu nước và giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước khi Đảng ta ra đời đã chứng minh rất rõ điều này. Về một phương diện nào đó, có thể khẳng định rằng, quá trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh cũng là quá trình tìm kiếm mô hình và cách thức tổ chức quần chúng nhân dân, nhằm tạo sức mạnh cho quần chúng trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. 1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân Đứng trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ rang, toàn diện, có sức thuyết phục, thu phục lòng người. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm “Dân” là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc. Theo người, các khái niệm đồng nghĩa thường được dùng là dân, nhân dân, đồng bào, quần chúng nhân dân, quốc dân,… ở đây khái niệm “Dân được dùng với tư cách là khái niệm chung cho tất cả. Khái niệm “Dân” vừa được hiểu là tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con dân nước Việt, con Rồng cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, tín ngưỡng… Như vậy, “Dân” và “Nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân. Nói đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, nó bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới… Hồ CHí Minh đã nhiều lần nói: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài… ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Từ “Ta” ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung. Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đững vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp – dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi như vậy, Hồ CHí Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiền trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tới cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. 2. Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện khối đoàn kết toàn dân, với ý nghĩa là thực hiện đoàn kết tất cả những người Việt Nam đang sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài và cho dù định cư ở nước nào thì người Việt cũng không bỏ được cái gốc dân tộc. Cần phải huy động và tập hợp được mọi người dân Việt Nam vào khối đại đoàn kết nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc. Muốn làm được điều đó thì phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung độ lượng với con người và xóa bỏ mọi định kiến, cách biệt. “Bất kì ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta vẫn thật thà đoàn kết với họ”. Đại đoàn kết dân tộc mở rộng cửa để đón tiếp những người lầm đường, lạc lối mà biết cách ăn năn hối cải. Mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc là nền độc lập, thống nhất của tổ quốc, là cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, cũng đồng thời là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân là liên minh công, nông và lao động trí óc. Người đã tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đứng về phe nào; chúng ta hãy thật thà công tác vì dân vì nước. Người còn căn dặn: “Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân. Sở dĩ Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm đại đoàn kết dân tộc một cách rộng rãi như thế là vì Người có lòng tin ở nhân dân, tin rằng trong mỗi người, “ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước” tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước ấy có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước ấy lại bộc lộ. Vì vậy mẫu số chung để quy tụ mọi người vào khối đại đoàn kết dân tộc chính là nền độc lập và thống nhất của tổ quốc, là cuộc sống tự do và hạnh phúc của nhân dân cần phải xây dựng từ hôm nay cho đến mãi mãi về sau. Dân tộc, toàn dân là khối rất đông bao gồm hàng chục triệu con người. Muốn xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó. Người đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết trước hết là phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta nòng cốt là khối liên minh công – nông – tri thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. “Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Như vậy, muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Về sau, Người có nêu thêm: liên minh công nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. KẾT LUẬN Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán của cách mạng vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên 70 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến nó thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử cách mạng Việt Nam hon nửa thế kỷ qua cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thăng lợi, nơi nào, lúc nào rời xa tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất. Thực tiễn đất nước đòi hỏi chúng ta phải quán triệt những quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển những quan điểm ấy, phù hợp với những biến đổi của tình hình mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sẽ ngày càng phát triển, hoàn thiện cùng với thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đi tới thắng lợi hoàn toàn và triệt để của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2014. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhận thức và vận dụng, PGS.TS Nguyễn Mạnh Tường, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2013. 3. https://www.academia.edu/11957139/Ph%C3%A2n_t%C3%ADch_quan_ %C4%91i%E1%BB%83m_%C4%90%E1%BA%A1i_%C4%91o %C3%A0n_k%E1%BA%BFt_d%C3%A2n_t%E1%BB%99c_c%E1%BB %A7a_HCM 4. https://www.wattpad.com/807708-10-ph%C3%A2n-t%C3%ADch-nh %E1%BB%AFng-quan-%C4%91i%E1%BB%83m-c%E1%BB%A7a-hcm-v %E1%BB%81-%C4%91%E1%BA%A1i-%C4%91o%C3%A0n 5. http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-dai-doanket-dan-toc-35093/
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng