Vào đầu thế kỷ XX, người đã có những đóng góp đáng ghi nhận cho nền văn hóa Việt Nam đó là Nguyễn Văn Vĩnh. Ông với vị trí là một dịch giả, một nhà báo và nhà văn hóa đã có công trong việc mở mang văn hóa phương Tây vốn còn lạ lẫm với nước ta thời bấy giờ. Ông đã có những đóng góp cho nền văn hóa Việt Nam thông qua các tác phẩm, công trình giá trị. Những thành tựu của Nguyễn Văn Vĩnh trong việc truyền bá kiến thức, văn hoá phương Tây và việc khuyên dùng chữ quốc ngữ, tiếng Việt để viết văn. Ông viết nhiều thể loại khác nhau như tin tức, xã luận, làm thơ, dịch tiểu thuyết và phóng sự. Ở bất cứ lĩnh vực nào, ông cũng đều chứng tỏ được trình độ, hiểu biết sâu rộng của mình.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------
ĐÀO NGỌC THÀNH
TƢ TƢỞNG CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH
VỀ CANH TÂN VĂN HÓA
Khóa luận tốt nghiệp đại học hệ chính quy
Ngành: Triết học
Chương trình đào tạo chuẩn
Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS TRẦN THỊ HẠNH
Hà Nội, 6/2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu thực sự của
riêng cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS
Trần Thị Hạnh.
Kết quả nghiên cứu trong Khóa luận chưa từng được công bố trong bất cứ
công trình nghiên cứu của tác giả khác. Những điều trích dẫn trong Khóa
luận là trung thực.
Tác giả khóa luận
Đào Ngọc Thành
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tâm của PGS.TS Trần
Thị Hạnh. Vì thế, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới Cô.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô khoa Triết học
trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội đã tạo điều kiện để tôi có thể
hoàn thành tốt khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè cùng gia đình đã luôn đồng hành cùng tôi
trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn!
Đào Ngọc Thành
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ
TƢỞNG CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH VỀ CANH TÂN VĂN HÓA ............... 7
1.1. Bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ................. 7
1.2. Tiền đề tư tưởng ............................................................................................ 13
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp ................................................................................... 16
CHƢƠNG 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG
CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH.............................................................................. 22
2.1. Phê phán những thói hư tật xấu làm phương hại xã hội ............................... 22
2.2. Về việc học hỏi văn minh Phương Tây ......................................................... 30
2.3. Về việc gìn giữ nét đẹp phong tục truyền thống ...................................................... 33
2.4. Về việc đề cao nữ quyền ............................................................................... 40
2.5. Về việc cổ vũ và truyền bá chữ Quốc ngữ .................................................... 45
3. Đánh giá tư tưởng Nguyễn Văn Vĩnh .............................................................. 51
3.1. Ưu điểm ......................................................................................................... 51
3.2. Hạn chế.......................................................................................................... 53
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 58
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa tới nay, Người Việt Nam đã giao lưu và chịu nhiều ảnh hưởng với
văn hóa Trung Quốc. Trong suốt nhiều thế kỷ, những tư tưởng Đạo Nho,
Đạo Phật từ Trung Quốc đã có những tác động đến tư tưởng của những
người nghiên cứu văn hóa. Các bài thơ, bài văn cùng những bộ tiểu thuyết
đồ sộ đã đi vào ký ức của mỗi người dân đất Việt. Trong thời kỳ phong
kiến người Việt ta đã dùng chữ Hán là chữ viết nhằm truyền tải những tư
tưởng và tình cảm của mình. Trong khi đó nền văn hóa phương Tây mới
chỉ du nhập từ khi Pháp xâm lược nước ta. Tầng lớp trí thức đầu thế kỷ XX
là những người có công bắc chiếc cầu nối để chúng ta thêm hiểu biết nền
văn hóa phương Tây.
Vào đầu thế kỷ XX, người đã có những đóng góp đáng ghi nhận cho nền
văn hóa Việt Nam đó là Nguyễn Văn Vĩnh. Ông với vị trí là một dịch giả,
một nhà báo và nhà văn hóa đã có công trong việc mở mang văn hóa
phương Tây vốn còn lạ lẫm với nước ta thời bấy giờ. Ông đã có những
đóng góp cho nền văn hóa Việt Nam thông qua các tác phẩm, công trình
giá trị. Những thành tựu của Nguyễn Văn Vĩnh trong việc truyền bá kiến
thức, văn hoá phương Tây và việc khuyên dùng chữ quốc ngữ, tiếng Việt
để viết văn. Ông viết nhiều thể loại khác nhau như tin tức, xã luận, làm thơ,
dịch tiểu thuyết và phóng sự. Ở bất cứ lĩnh vực nào, ông cũng đều chứng tỏ
được trình độ, hiểu biết sâu rộng của mình.
Trong suốt sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Vĩnh gây ấn
tượng nhất với những bài nghị luận xã hội, phản ánh được những vấn đề
bức xúc, nổi cộm đang diễn ra ngay tại xã hội lúc bấy giờ. Nguyễn Văn
Vĩnh đã thể hiện bằng ngôn ngữ khéo léo, linh hoạt, loạt bài phê phán thói
hư tật xấu của người Việt là một mảng rất điển hình cho phong cách và tư
tưởng đổi mới của ông.
1
Bên cạnh đó, Nguyễn Văn Vĩnh sinh ra và lớn lên trong thời kỳ người
Pháp đã đặt được ách cai trị trên toàn lãnh thổ nước ta. Không chỉ có vậy
thực dân Pháp còn tiến hành việc truyền bá, áp đặt văn hóa phương Tây
vào xã hội Việt Nam. Đây là thời kì có sự giao thoa văn hóa Đông – Tây,
mâu thuẫn giữa những giá trị văn hóa truyền thống có từ lâu đời và những
giá trị hiện đại, mới mẻ. Ở giữa một xã hội như vậy để tồn tại, Nguyễn Văn
Vĩnh không còn cách nào khác phải phụ thuộc vào chính quyền cai trị,
đồng thời cố gắng không đánh mất mình. Tuy nhiên, chính cái vị thế ấy của
Nguyễn Văn Vĩnh đã dẫn tới một số đánh giá có phần nghiệt ngã, chưa
chính xác, khách quan về con người ông, chủ yếu dựa trên quan điểm chính
trị, từ đó có cái nhìn chủ quan về cuộc đời, sự nghiệp cũng như những đóng
góp của Nguyễn Văn Vĩnh đối với văn hoá Việt Nam.
Chúng ta có thể thấy rằng, nghiên cứu về một người như Nguyễn Văn
Vĩnh là một việc không đơn giản và gặp rất nhiều những khó khăn. Những
nghiên cứu về ông chủ yếu là những bài viết, bài báo và tập trung chủ yếu
vào những đóng góp của ông đối với văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế
kỷ XX.
Chưa kể ngày nay vẫn còn nhiều ý kiến, đánh giá chưa khách quan về
Nguyễn Văn Vĩnh, không thể hiện hết những đóng góp cho xã hội Việt
Nam thời kỳ này. Vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Tư tưởng của
Nguyễn Văn Vĩnh về canh tân văn hóa” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, đã có những công trình nghiên cứu về học giả Nguyễn Văn
Vĩnh đã xuất hiện nhưng chủ yếu đại đa số vẫn xem xét ông dưới góc độ là
một nhà báo, rất ít công trình xem xét ông dưới góc độ là một nhà tư tưởng,
nhà triết học. Cho nên, trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài tôi đã
gặp không ít những khó khăn. Do trước đây những người như Nguyễn Văn
2
Vĩnh, Phạm Quỳnh bị nhiều ý kiến cho rằng hai ông là những hợp tác với
Pháp và gần như loại bỏ hoàn toàn những công trình, thành tựu trên nhiều
lĩnh vực của các ông. Phải cho tới hiện nay, các công trình nghiên cứu mới
xem xét Nguyễn Văn Vĩnh và những người cùng chung cảnh ngộ với ông
một cách công bằng, chính xác hơn.
Thời kì trước năm 1975, ở Hồ Chí Minh đã có một số công trình có nhắc
đến Nguyễn Văn Vĩnh. Chiếm đại đa số là những công trình đ ược sử dụng
trong các ngôi trường như GS. Kiêm Đạt bài luận đề Phạm Quỳnh và
Nguyễn Văn Vĩnh được xuất bản vào năm 1958, GS. Nguyễn Duy bài diễn
luận đề về Đông Dương tạp chí được xuất bản năm 1961.
Tác giả Huỳnh Văn Tòng, trong cuốn sách Lịch sử báo chí Việt Nam đã
đề cập đến những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh. Trong cuốn sách này,
tác giả Vũ Ngọc Phan đã dành một phần nhỏ nói về Nguyễn Văn Vĩnh.
Ông được coi là một trong những người viết về Nguyễn Văn Vĩnh sớm
nhất.
Sau đó, nhà văn Vũ Bằng đã có những ký ức về Nguyễn Văn Vĩnh trong
một khoảng thời gian cùng cộng tác với ông. Những tác phẩm tiêu biểu có
thể kể đến là bốn mươi năm nói láo, mười bốn gương mặt nhà văn đồng
nghiệp. Thông qua các tác phẩm này cung cấp khá nhiều tư liệu về cuộc
đời Nguyễn Văn Vĩnh những tư liệu có giá trị về cuộc đời của ông.
Tiếp theo, tác giả Hoàng Tiến trong đề tài nghiên cứu khoa học của mình,
sau khi được in thành sách có tên là Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ
viết đầu thế kỷ XX, do Nhà xuất bản Lao Động xuất bản năm 1994. Cuốn
sách này đã đề cập đến những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh đối với việc
cổ vũ và truyền bá chữ quốc ngữ ở Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung đăng tải
về Nguyễn Văn Vĩnh chỉ chiếm phần nhỏ trong đề tài nghiên cứu về chữ
quốc ngữ của tác giả.
3
Trong những bài luận văn nghiên cứu về những đóng góp của Nguyễn
Văn Vĩnh đối với báo chí, tác giả Yên Ba đã bắt đầu được nghiên cứu và
xây dựng với tư cách là một nhà báo. Tuy nhiên, tác giả Yên Ba vẫn chưa
nghiên cứu một cách chi tiết vào đề tài những đóng góp của Nguyễn Văn
Vĩnh. Ngoài ra, chúng ta có thể đề cập đến một số tác giả khác cũng đã có
các bài viết hoặc đánh giá nhắc đến Nguyễn Văn Vĩnh như Dương Quảng
Hàm, Hoàng Đạo Thúy ở trong các tác phẩm của chính các ông. Ông
Nguyễn Văn Ba được coi là một trong những người đầu tiên có công trình
nghiên cứu mang tính rõ ràng, tầm cỡ về Nguyễn Văn Vĩnh.
Sau này, đã có một người xuất bản và cho in ba cuốn sách về Nguyễn
Văn Vĩnh đó là ông Nguyễn Lân Bình. Cuốn đầu tiên có tiêu đề là Nguyễn
Văn Vĩnh là ai, cuốn sách này giúp cho người đọc biết rõ hơn về cuộc đời
và sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh. Cuốn sách này đã giúp chúng ta có cái
nhìn khách quan hơn về Nguyễn Văn Vĩnh. Tác phẩm được xuất bản từ rất
nhiều bài viết được viết bằng cả hai ngôn ngữ tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, đề
cập đến những điều mắt thấy tai nghe với khả năng quan sát, cùng sự tri ân
của những người cùng thời nhìn nhận về con người và sự nghiệp văn hóa
của Nguyễn Văn Vĩnh.
Cuốn tiếp theo có tên là lời người man di hiện đại, do ông Nguyễn Lân
Bình và Nguyễn Lân Thắng cùng làm chủ biên. Cuốn sách hàm chứa hơn
ba mươi bài viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Văn Vĩnh đề cập đến các tập
quán, lối sống sinh hoạt cùng với các kiểu phong cách truyền thống trong
hệ thống quyền lực có liên quan đến việc phân bố trong các làng quê ở
đồng bằng Bắc bộ nước ta vào giai đoạn mà ông sống.
Cuốn cuối cùng là cuốn được viết và xuất bản từ nguyên bản tiếng Pháp.
Đây là tập đầu tiên trong bộ sách lời người man di hiện đại. Tất cả nội dung
đến các phần trình bày, trang trí giống hệt như cuốn sách in bằng tiếng
Việt. Các bài viết được sao chép và in lại bằng nguyên văn nội dung đã
4
được đăng trên các tạp chí của tờ báo Nước Nam mới (tiếng Pháp
L’Annam Nuoveau) do Nguyễn Văn Vĩnh là chủ bút. Trong thời gian qua,
đã có những đề tài khóa luận, luận văn nghiên cứu sâu hơn về cuộc đời và
sự nghiệp của học giả Nguyễn Văn Vĩnh.
Tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng từ trước tới nay các công trình nghiên
cứu mới xem xét chủ yếu Nguyễn Văn Vĩnh dưới góc độ là một nhà báo,
nhà văn hóa vẫn chưa có nhiều đề tài xem xét ông dưới góc độ là nhà tư
tưởng. Đề tài này là một trong những công trình đặt vấn đề nghiên cứu
chuyên sâu về những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nguyễn Văn
Vĩnh về văn hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là phân tích và làm rõ nội dung
những tư tưởng cơ bản của Nguyễn Văn Vĩnh về canh tân văn hóa. Từ đó,
chỉ ra một số giá trị và hạn chế trong tư tưởng về văn hóa của ông.
Nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luận là nhằm chỉ ra những điều kiện, tiền
đề cho sự hình thành tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh về canh tân văn hóa.
Phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nguyễn Văn
Vĩnh về canh tân văn hóa.
Đánh giá những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh
về văn hóa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là một số những nội dung giá trị tư tưởng cơ bản
của Nguyễn Văn Vĩnh về văn hóa.
Phạm vi nghiên cứu thông qua một số tác phẩm, bài viết, bài đăng báo
hoặc các tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng. Các
công trình nghiên cứu về Nguyễn Văn Vĩnh đã được công bố trước đây.
5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở của khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở những nguyên lý,
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Quan điểm của Đảng và nhà nước ta
trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng.
Phương pháp luận của khóa luận dựa trên phương pháp của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Khóa luận đã sử dụng các
phương pháp: logic – lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa.
6. Ý nghĩa thực tiễn và lý luận của khóa luận
Về mặt lý luận, khóa luận góp phần chỉ ra và làm rõ những nội dung cơ
bản trong tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh về canh tân văn hóa. Từ việc làm
rõ những tư tưởng cơ bản đó, đánh giá những ưu điểm hạn chế trong tư
tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh về văn hóa.
Về mặt thực tiễn, kết quả của khóa luận có thể là những tài liệu nghiên
cứu, tham khảo trong các trường Cao đẳng, Đại học khi giảng dạy và
nghiên cứu những công trình nghiên cứu về ông sau này.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của tiểu luận gồm 2 chương, 10 tiết
6
CHƢƠNG 1: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH TƢ
TƢỞNG CỦA NGUYỄN VĂN VĨNH VỀ CANH TÂN VĂN HÓA
1.1. Bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
1.1.1. Về chính trị
Sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam vào năm 1858. Ngay
sau đó, chúng đã xây dựng một hệ thống bộ máy thống trị thống nhất từ
trung ương đến địa phương. Chính quyền thực dân đó song song tồn tại với
chính quyền chế độ phong kiến Việt Nam. Chính sách mà thực dân Pháp
thực hiện là chia để trị, chia cắt toàn bộ đất nước ta thành ba khu vực: Bắc
kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ với những chế độ chính trị khác nhau. Người Pháp
đã dùng chính sách dùng người Việt để trị người Việt.
Bên cạnh chính quyền mà, thực dân Pháp xây dựng vẫn duy trì chế độ
chính quyền bù nhìn phong kiến tay sai để che mắt nhân dân ta. Thông qua
chính quyền phong kiến chúng đã tác động đến sự phục tùng của tầng lớp
quan lại, nho sĩ, biến họ thành phương tiện để bóc lột, áp bức, điều khiển.
Thực dân Pháp đã dùng mọi biện pháp, cách thức để nhằm hạn chế quyền
lực của triều đình Huế đối với đất nước, dân tộc. Nhà vua vốn trước đây
được mệnh danh là thiên tử nhưng hiện nay không còn sở hữu những quyền
lực tối cao như trước đây. Tất cả các đạo luật được ban bố hay bất kì chủ
trương, chính sách muốn ban hành thì nhà vua phải có sự chấp thuận, đồng
ý của toàn quyền Đông Dương do chính người Pháp đứng đầu, nếu đạo luật
không được toàn quyền chấp thuận thì không được ban hành.
Chính thể chế chính trị, bộ máy cai trị của thực dân đó là nguồn gốc,
nguyên nhân tạo nên những bất công, mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam.
Người dân phải chịu cảnh mất nước, triều đình thì bạc nhược chỉ còn biết
thỏa hiệp với những điều luật do thực dân Pháp đề ra. Trước tình cảnh đó,
người dân bị áp bức bóc lột chỉ còn cách thực hiện những cuộc phản kháng
7
nổi dậy, để chống lại ách thống trị của thực dân Pháp, phong trào đã lan
rộng ra ở nhiều nơi.
1.1.2. Về kinh tế
Trên phương diện lĩnh vực kinh tế, các nhà tư bản người Pháp đã bỏ
phần lớn vốn vào thành lập nông nghiệp lập các đồn điền cao su, cà phê,
chè và ngành khai mỏ chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng với mục đích nhằm
để thu lợi nhuận một cách nhanh chóng. Các nhà tư bản này đã xây dựng hệ
thống giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển các cơ sở công
nghiệp chế biến. Ngân hàng Đông Dương thì đã được thực dân Pháp nắm
độc quyền về mặt tài chính, bày ra hàng trăm thứ thuế, dã man nhất là thuế
thân và được ban hành rộng rãi trong nhân dân.
Bên ngoài, thực dân Pháp duy trì một lớp kinh tế thuộc địa, tuy nhiên
bên trong chúng lại kết hợp cùng với việc duy trì nền kinh tế phong kiến
với hệ thống tầng lớp địa chủ tại nông thôn, cùng với các tay sai cường hào
làng xã để bóc lột nhân dân. Người Pháp cũng đã biết cách biến Việt Nam
thành một thị trường độc quyền cung cấp các sản phẩm cho các nước đế
quốc.
Bằng biện pháp khai thác nguồn nguyên liệu, tài nguyên phong phú, bóc
lột nhân công một cách rẻ mạt, thực dân Pháp đã sử dụng chính sách mô
hình kinh tế dựa vào các ngành như luyện kim, khai mỏ. Nhưng thực tế đó
chỉ là một phương thức rất nhỏ của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các
nước thuộc địa, phụ thuộc vào các nước chính quốc, sống nhờ bóc lột thời
gian, sức lao động, giá nhân công rẻ mạt. Những điều này không hề phục
vụ cho những lợi ích của phần lớn người Việt mà chúng chỉ tìm cách biến
Việt Nam trở thành nơi tiêu thụ hàng hoá giá rẻ của Pháp.
Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận rằng chính sự hình thành của nền
kinh tế mới cũng đã có những tác động không nhỏ đến cơ cấu kinh tế cũ,
nền sản xuất nông nghiệp không còn chiếm độc tôn. Nhiều nhà máy, công
8
trường, hầm mỏ, hải cảng mới mọc lên. Đây là nguyên nhân xuất hiện
nhiều mâu thuẫn chủ yếu như: mâu thuẫn giữa cơ cấu đồn điền và ruộng
đất, mâu thuẫn giữa nền sản xuất tự cung tự cấp và sản xuất hàng hoá, mâu
thuẫn giữa các giai cấp với nhau. Đây cũng chính là điều kiện thuận lợi để
những tư tưởng mới vào thâm nhập ở nước ta. Kinh tế cơ bản của Việt
Nam thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, về căn bản là nền kinh tế tự
cấp, tự túc. Trên thực tế, các phương thức sản xuất cũ vẫn giữ một vai trò
nhất định. Lúc này trong xã hội Việt Nam đang diễn ra một cuộc xung đột
giữa cái cũ và cái mới. Kết cục, nhiều khi lại là sự chiến thắng của cái cũ.
Điều này khiến nhân dân vô cùng bí bách, tìm đường giải phóng, khỏi
những áp bức, bất công.
1.1.3. Sự biến đổi giai tầng xã hội ở Việt Nam
Những chính sách cai trị hoàn toàn mới của thực dân Pháp là nguyên
nhân làm biến đổi cơ cấu xã hội, các giai cấp ở Việt Nam, ngoài những giai
cấp cũ là tầng lớp địa chủ và nông dân còn xuất hiện thêm nhiều giai tầng
mới.Tính chất trong xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam từ xã hội
phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Trong xã hội Việt
Nam lúc này tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp như địa chủ phong kiến, nông
dân, công nhân, tư sản, tiểu tư sản.
Đầu tiên là giai cấp địa chủ phong kiến đây là những người nắm phần
lớn ruộng đất, có của cái trong tay, nên đa số là muốn bảo vệ lợi ích của
mình nên đã thoả hiệp và trở thành tay sai, công cụ đắc lực cho thực dân
Pháp bóc lột giai cấp nông dân, tầng lớp yếu thế trong xã hội. Đây là tầng
giúp cho ách thống trị của thực dân Pháp dễ dàng được thực hiện trong
quần chúng nhân dân
Chính sự liên kết chặt chẽ giữa hai thế lực thực dân Pháp và phong kiến
đã tạo một lực cản hết sức lớn đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam
thời bấy giờ, điều này đã kìm hãm sự phát triển của các yếu tố mới. Không
9
ít người trong số đó vẫn tư tưởng trung quân ái quốc với triều đình phong
kiến nhà Nguyễn. Chính vì vậy, họ đã bác bỏ mọi sự cải cách, thay đổi
trong xã hội. Trong đó, một bộ phận quan lại, địa chủ khác thì có tinh thần
yêu nước và căm thù thực dân Pháp nhưng lại bất mãn với nền quân chủ
chuyên chế nên đã từ quan, giữ cuộc sống thanh nhàn, vui thú điền viên.
Bên cạnh đó, cũng có một số trí thức Nho học do được tiếp thu tinh thần
văn minh phương Tây nên đã đấu tranh chống chế độ thực dân phong kiến
để xây dựng nền xã hội mới. Tuy nhiên, do rất nhiều lý do khác nhau tư
tưởng canh tân của họ đã không thực hiện được.
Vào đầu thế kỷ XX, các nhà Nho nhưng lại theo tư tưởng duy tân mới là
những người đã hướng đến các tư tưởng dân chủ tư sản của phương Tây.
Một số ít những sĩ phu khác lại tìm đến con đường đấu tranh bằng bạo lực
để tìm cách giải phóng đất nước. Những người này đóng vai trò là lãnh đạo
cách mạng trong giai đoạn phong trào Cần Vương thất bại cho đến khi xuất
hiện phong trào cách mạng do chính giai cấp vô sản lãnh đạo. Chính các sĩ
phu yêu nước này đã góp phần tích cực vào việc khơi dậy tinh thần yêu
nước của dân tộc. Nhưng kết quả cuối cùng các cuộc khởi nghĩa, đấu tranh
cũng bị đàn áp trong biển máu.
Thứ hai là giai cấp nông dân được coi là thành phần chiếm đa số trong
xã hội. Đây là tầng lớp từ trước đã luôn phải chịu nhiều thiệt thòi. Theo
thời gian họ bị phân hoá thành ba tầng lớp: trung nông, bần nông và cố
nông. Ngoài ra, họ còn bị chia ra thành hai loại là nông dân đồn điền và
nông dân làng xã. Thực dân Pháp còn tiếp tục duy trì những kiểu bóc lột
phong kiến bằng tô tức, áp dụng sưu cao thuế nặng. Ruộng đất phần lớn bị
rơi vào tay các địa chủ và chủ đồn điền của Pháp. Người nông dân phải
chịu cảnh một cổ hai tròng là thực dân Pháp và triều đình phong kiến.
Chính chịu sự áp bức này nên người nông dân đã có tinh thần cách mạng
rất lớn. Họ là những người luôn phải chịu áp bức, bóc lột cho nên sau này
10
khi thực hiện cách mạng, người nông dân là những người hào hứng, nhiệt
tình là lực lượng hàng đầu trong phong trào cách mạng.
Những người nông dân không có của cải ruộng đất đa số phải làm thuê
mướn cho những ruộng đất của địa chủ. Bởi vậy, người nông dân không
phải là những đại diện cho các phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại nên
họ không có khả năng lãnh đạo cách mạng, nhưng họ là lực lượng cách
mạng chính do số lượng vô cùng đông đảo. Trình độ nhận thức còn hạn chế
nên họ cũng ảnh hưởng rất lớn đối với sự lựa chọn con đường cách mạng
của các nhà cách mạng của nước ta sau này.
Thứ ba là giai cấp công nhân được sinh ra trong hoàn cảnh do chính sách
khai thác thuộc địa và những đầu tư kinh tế quan trọng của Pháp. Những
người công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp
tiến hành xây dựng các cơ sở công nghiệp phục vụ cho mục đích xâm lược
và cai trị ở nước ta.Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc
Pháp, giai cấp công nhân đã bắt đầu được hình thành. Cho đến khi cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp công nhân đã phát triển nhanh
chóng về số lượng, từ 100.000 công nhân năm 1914, tăng lên hơn 220.000
công nhân năm 1929, trong đó có hơn 53.000 công nhân mỏ có 60 phần
trăm là công nhân mỏ than và 81.200 công nhân đồn điền. Giai cấp công
nhân Việt Nam tuy mới hình thành, số lượng chỉ chiếm phần nhỏ với số
dân, trình độ học vấn, kỹ thuật còn khá nhiều hạn chế, nhưng lại tập trung
vào các thành phố, các trung tâm công nghiệp và các đồn điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm giống với giai cấp
công nhân quốc tế, đồng thời còn có những điểm của riêng nước ta là phải
chịu ba tầng lớp áp bức bóc lột đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ, phần
lớn vừa mới từ nông dân bị ép buộc mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi
nhiều mặt với nông dân. Giai cấp công nhân dù sinh sau đẻ muộn nhưng
11
cũng chịu những áp bức bóc lột không kém gì giai cấp nông dân nên sau
này khi cách mạng nổ ra họ cũng là một tầng lớp hướng ứng nhiệt tình.
Bên cạnh đó giai cấp tư sản và tiểu tư sản là tầng lớp được nảy sinh trong
công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Giai cấp tư sản là tầng
lớp mới được hình thành nhưng đã có sự phát triển nhanh chóng. Trước khi
chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng
lớp thiểu số trong xã hội. Sau này, tư sản Việt Nam mới phát triển lên
thành giai cấp rõ nét. Sinh ra trong điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh
tranh rất khốc liệt chính vì vậy số lượng tư sản Việt Nam không nhiều, quy
mô kinh tế nhỏ, ảnh hưởng trong lĩnh vực chính trị còn ít.
Trong quá trình hình thành và phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam chia
thành hai bộ phận tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Tư sản mại bản được
coi là một bộ phận tư sản lớn, có ảnh hưởng và mối quan hệ trực tiếp với
các nước đế quốc, chủ những công trình xây dựng ở nước ta. Đại bộ phận
các tư sản mại bản có nhiều đồn điền lớn và có nhiều ruộng đất cho phát
canh, thu tô. Chính vì có nhiều lợi ích kinh tế và chính trị liên quan đến đế
quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp có phần đối lập lại với lợi ích
của dân tộc.
Tư sản dân tộc là chiếm đa số trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư
sản vừa và nhỏ, phần lớn hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công
nghiệp và thủ công nghiệp. Những người này muốn phát triển theo xu
hướng chủ nghĩa tư bản của riêng dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, do chính
sách đè nén của tư bản Pháp nên không thể thay đổi được. Xét về mối quan
hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu cảnh số phận mất nước, mâu
thuẫn về lợi ích với chính đế quốc thực dân và phong kiến, nên họ có ý chí
chống lại đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là một lực lượng
cách mạng quan trọng trong phong trào giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, họ
12
cũng không tuyệt đối hoàn toàn chống lại thực dân Pháp bởi vì họ vẫn phải
dựa vào những lợi ích mà Thực dân Pháp mang lại.
Cuối cùng là tầng lớp tiểu tư sản hình thành song song với quá trình đầu
tư cho kinh tế và giáo dục ở Việt Nam của thực dân Pháp thông qua hai
cuộc khai thác thuộc địa. Bao gồm thị dân, thợ thủ công và giới học sinh
sinh viên, trí thức ở các thành thị. Số lượng những người ở tầng lớp tiểu tư
sản ở Việt Nam khá nhiều và cũng có những sự phát triển một cách nhanh
chóng. Đến sau những năm 20 của thế kỷ XX họ đã vươn lên và đã có chỗ
đứng riêng của mình.
Trong khi đó, tầng lớp trí thức và học sinh, sinh viên là nhóm người có
tinh thần học hỏi, tìm tòi và tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ, nhất là tư
tưởng dân chủ giúp phát triển trong xã hội.
1.2. Tiền đề tƣ tƣởng
Có thể nói, cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX có rất nhiều các tư tưởng có
ảnh hưởng to lớn đến Nguyễn Văn Vĩnh. Những tiền đề này dù trực tiếp
hay gián tiếp thì cũng có vai trò nhất định trong việc hình thành tư tưởng
của ông.
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ra ở một đất nước chịu ảnh hưởng rất nhiều của
nền Nho giáo Trung Quốc thì chắc chắn điều đó cũng có tác động đến ông.
Sau này, ông còn dịch những tác phẩm kinh điển của nền Nho giáo Trung
Hoa ra chữ quốc ngữ. Chính vì vậy, những tư tưởng là cốt lõi của Nho giáo
đã được ông thấm nhuần. Nho giáo đưa ra một số nội dung Tam Cương,
Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức để làm chuẩn mực cho mỗi người. Tam
Cương và Ngũ Thường là mối quan hệ, chuẩn mực đạo đức mà người đàn
ông phải tuân thủ. Tam Tòng và Tứ Đức là những chuẩn mực mà người
phụ nữ phải theo. Tam Cương đề cập đến ba mối quan hệ Quân Thần (vua
tôi), Phụ Tử (cha con), Phu Phụ (chồng vợ). Ngũ Thường là năm điều
người đàn ông phải có khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Nhân là
13
lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật. Lễ là sự tôn trọng, hòa nhã
trong khi cư xử với mọi người. Nghĩa là cư xử với mọi người công bình
theo lẽ phải. Trí là sự thông biết lý lẽ, phân biệt rõ thiện ác, đúng sai. Tín là
giữ đúng lời hứa, đáng tin cậy.
Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải theo, đó là tại gia tòng phụ, xuất
giá tòng phu, phu tử tòng tử. Ý nghĩa câu trên tức là người phụ nữ khi còn
ở nhà thì phải theo cha, lúc lấy chồng phải theo chồng, nếu chồng qua đời
thì phải theo con . Còn Tứ Đức là bốn tính nết tốt của người phụ nữ phải có
là: Công - Dung - Ngôn - Hạnh. Công là khéo léo trong công việc, dung là
hòa nhã trong sắc diện, ngôn là mềm mại trong lời nói, hạnh là nhu mì
trong tính nết. Người quân tử thì phải theo con đường “tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ". Tức là đầu tiên là phải tu dưỡng bản thân, sau đó là
giải quyết những việc trong gia đình, từ việc nhỏ mới dẫn đến việc lớn là trị
quốc và cuối cùng là Bình thiên hạ thống nhất thiên hạ.
Bên cạnh đó, Nho giáo Trung Quốc còn đề cập đến học thuyết Chính
Danh. Chính danh được hiểu là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó,
mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh bất chính tất ngôn
bất thuận, ngôn bất thuận tất sự bất thành". Những vấn đề trên đã được
Khổng Tử đề cập chi tiết trong sách Luận ngữ, những tư tưởng của Nho
giáo không chỉ thấm nhuần đến những người như Nguyễn Văn Vĩnh mà đã
gắn liền với lịch sử trong suốt triều đại phong kiến nước ta.
Nguyễn Văn Vĩnh cũng là người được tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa
Phương Tây, cho nên những tư tưởng phương Tây như chủ nghĩa nhân
sinh, chủ nghĩa cá nhân cũng được ông học hỏi và tiếp thu. Đầu thế kỷ XX,
thực dân Pháp xây dựng nền giáo dục với mục đích đào tạo ra các thông
dịch viên cho bộ máy thống trị của Pháp, truyền bá chữ Pháp, chữ quốc
ngữ, xóa bỏ chữ Hán. Nguyễn Văn Vĩnh là người được học ở những trường
giáo dục theo kiểu phương Tây nên ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến ông.
14
Tư tưởng Dân chủ tư sản phương Tây có tư tưởng có rất nhiều ảnh hưởng
đến Nguyễn Văn Vĩnh. Đây là chế độ, hình thức quản lý nhà nước của giai
cấp tư sản do chính giai cấp tư sản lãnh đạo, được thiết lập sau sự sụp đổ
của chế độ phong kiến và được thực hiện bằng một số các biện pháp như:
ban hành hiến pháp, thực hiện nguyên tắc phổ thông đầu phiếu để thành lập
nghị viện và các cơ quan đại diện khác, thực hiện nguyên tắc tam quyền
phân lập, tuyên bố nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật,
quyền tư hữu tài sản là bất khả xâm phạm.
Dân chủ tư sản theo đánh giá là bước phát triển của lịch sử nhân loại so
với chế độ phong kiến. Nhưng bản chất dân chủ tư sản vẫn là chế độ dân
chủ được sinh ra phục vụ cho giai cấp tư sản là giai cấp nắm quyền thống
trị về kinh tế và chính trị xã hội. Trong khi đó, đa phần nhân dân lao động
nghèo khổ thì bị nhiều hạn chế trong thực thi các quyền dân chủ đã được
tuyên bố trong hiến pháp. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng nền dân chủ tư sản
được coi là nền dân chủ hình thức. Sau này, đến giai đoạn đế quốc, nhiều
quy định dân chủ của nền dân chủ tư sản bị thay đổi, xóa bỏ và chế độ phát
xít, chuyên chế phát triển lên nhằm mục đích phục vụ cho đường lối chính
trị dưới hình thức gây chiến tranh cướp bóc tài nguyên, nô dịch các nước
thuộc địa và đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng giai cấp của giai cấp
công nhân trên toàn thế giới.
Tiếp theo, tư tưởng canh tân của các sĩ phu Việt Nam cuối thế kỷ XIX,
tiêu biểu là Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ gây ảnh
hưởng rất sâu sắc không chỉ đến Nguyễn Văn Vĩnh mà còn nhiều sĩ phu
yêu nước khác đầu thế kỷ XX. Bên cạnh đó còn có những tư tưởng trong
sách tân văn, tân thư tràn vào nước ta đầu thế kỉ XX. Đây là các sách báo
hàm chứa nhiều nội dung phong phú, mới mẻ. Những kiến thức mới khác
xa với nền Nho học, đề cập đến nhiều vấn đề nổi bật như cải cách chính trị,
tổ chức lại nền kinh tế và giáo dục theo kiểu phương Tây. Những tân văn
15
chúng ta có thể nói đến như Pháp Phổ chiến kỷ của Lương Khải Siêu, Dinh
hoàn chí lược của Từ Kế Dự, Dân ước luận của Rousseau, Vạn lý tinh pháp
của Mạnh Montesquieu; Trung Đông chiến kỷ.
Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã nói đến sự động viên, khuyến khích của Phan
Châu Trinh đối với ông là hãy toàn tâm toàn lực vào việc tạo dựng nền văn
hóa Việt Nam, coi điều đó là nền tảng cơ bản cho việc thực hiện lý tưởng
cách mạng và tôn chỉ hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục đó là khai dân
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Không chỉ Phan Châu Trinh mà nhiều sĩ
phu khác cũng có những ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Văn Vĩnh trong
việc canh tân đất nước.
Bên cạnh đó, việc truyền bá và phổ biến chữ quốc ngữ có ảnh hưởng to
lớn đến xã hội Việt Nam và chính bản thân Nguyễn Văn Vĩnh. Trong hệ
thống các trường Pháp - Việt, nổi bật là hệ thống trường tân học Việt Nam,
việc dạy học quốc ngữ được chú ý đến. Sự xuất hiện của văn học và báo chí
quốc ngữ đã tác động không nhỏ đến xã hội và là một trong những điều
kiện góp phần hình thành lớp trí thức Tây học như ông.
1.2. Cuộc đời và sự nghiệp
1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15/6/1882 tại thôn Phượng Vũ, xã Phượng
Dực, phủ Thường Tín (nay là huyện Phú Xuyên, Hà Nội). Cha của ông là
Nguyễn Văn Trực, cũng là người thôn Phượng Vũ, còn mẹ của ông thì
không rõ tên tuổi. Khi ông còn nhỏ, Nguyễn Văn Trực đã đưa cả gia đình
lên Hà Nội và kiếm kế sinh nhai tại nhà một người họ hàng. Nguyễn Văn
Vĩnh được cho đi chăn bò thuê ngoài bãi sông Hồng để bớt gánh nặng cho
gia đình về mặt kinh tế.
Năm 1890, ông đã bỏ việc chăn bò thuê và xin được một chân kéo quạt
mát cho lớp học người Pháp, dạy các học viên đã đỗ cử nhân, học lên để
16
- Xem thêm -