ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-***--
ĐINH VĂN CHIẾN
TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA LÊ THÁNH TÔNG
VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--
***--
ĐINH VĂN CHIẾN
TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA LÊ THÁNH TÔNG
VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 62.22.03.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRỊNH DOÃN CHÍNH
Cán bộ phản biện độc lập:
1. PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT
2. PGS.TS. NGUYỄN THANH
Cán bộ phản biện:
1. PGS.TS. ĐINH NGỌC THẠCH
2. PGS.TS. VŨ ĐỨC KHIỂN
3. PGS.TS. LƢƠNG MINH CỪ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ hết sức quý báu
của các tập thể và cá nhân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trịnh Doãn Chính đã
tận tâm hướng dẫn khoa học trong quá trình học tập, nghiên cứu và triển khai luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể quý thầy cô Khoa Triết học, Phòng Sau
Đại học thuộc trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.
Xin được biết ơn gia đình, những người thân, bạn bè đồng nghiệp đã luôn là
điểm tựa vững chắc để tôi hoàn thành công trình này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 09 năm 2019
Tác giả luận án
ĐINH VĂN CHIẾN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu và thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS. TS. Trịnh Doãn Chính. Kết quả nghiên cứu trong luận án là
trung thực và chưa được ai công bố. Các tài liệu sử dụng trong luận án có nguồn gốc,
xuất xứ rõ ràng.
Ngƣời cam đoan
ĐINH VĂN CHIẾN
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ THÁNH TÔNG ......................... 21
1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XIV - XV VỚI VIỆC
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ THÁNH TÔNG .... 21
1.1.1. Yêu cầu xây dựng nền chính trị - xã hội Đại Việt thống nhất, độc lập, tự chủ
thế kỷ XIV - XV với việc hình thành tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông ........... 22
1.1.2. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế của triều đại Lê sơ với việc
hình thành tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông .............................................. 37
1.1.3. Nhiệm vụ xây dựng một nền văn hóa dân tộc, độc lập, tự chủ của quốc gia Đại
Việt thế kỷ XIV - XV với việc hình thành tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông ....... 45
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA LÊ THÁNH TÔNG .............................................................................................. 50
1.2.1. Quan điểm chính trị - xã hội trong truyền thống của dân tộc Việt Nam với việc
hình thành tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông ...................................................... 51
1.2.2. Tư tưởng chính trị - xã hội của “Tam giáo” và tư tưởng của Pháp gia với
việc hình thành và phát triển tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông.................... 57
Kết luận chƣơng 1 ............................................................................................. 66
Chƣơng 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA
LÊ THÁNH TÔNG ........................................................................................................ 68
2.1. QUAN ĐIỂM VỀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VÀ NGUYÊN TẮC TRỊ NƢỚC
TRONG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ THÁNH TÔNG ................................ 68
2.1.1. Quan điểm về thể chế chính trị trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông .. 68
2.1.2. Nguyên tắc trị nước kết hợp giữa đức trị và pháp trị trong tư tưởng chính trị
của Lê Thánh Tông ..........................................................................................................77
2.2. QUAN ĐIỂM VỀ ĐƢỜNG LỐI CHÍNH TRỊ CỦA LÊ THÁNH TÔNG ............ 87
2.2.1. Quan điểm tổ chức, xây dựng bộ máy nhà nước và quản lý xã hội bằng
pháp luật trong đường lối chính trị của Lê Thánh Tông ....................................... 88
2.2.2. Quan điểm về cách thức tổ chức, quản lý kinh tế trong đường lối chính trị
của Lê Thánh Tông ........................................................................................... 100
2.2.3. Quan điểm về cách thức tổ chức, quản lý phát triển giáo dục trong đường
lối chính trị của Lê Thánh Tông ........................................................................ 105
2.2.4. Quan điểm về quân sự và ngoại giao trong đường lối chính trị của Lê
Thánh Tông ...................................................................................................... 115
2.3. QUAN ĐIỂM VỀ DÂN VÀ VỀ ĐÀO TẠO, SỬ DỤNG HIỀN TÀI TRONG TƢ
TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ THÁNH TÔNG ................................................. 126
2.3.1. Quan điểm về dân trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông .............. 126
2.3.2. Quan điểm về đào tạo và sử dụng hiền tài trong tư tưởng chính trị của Lê
Thánh Tông ...................................................................................................... 136
Kết luận chƣơng 2 .......................................................................................... 142
Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ TRONG TƢ
TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ THÁNH TÔNG ........................................... 144
3.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU TRONG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ
THÁNH TÔNG .................................................................................................. 144
3.1.1. Tính kế thừa và phát triển trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông ...........144
3.1.2. Tính thực tiễn sinh động trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông..............153
3.1.3. Tính dân tộc trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông ...................... 157
3.1.4. Tính nhân văn sâu sắc trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông......... 162
3.2. Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ TRONG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA LÊ
THÁNH TÔNG .............................................................................................. 167
3.2.1. Ý nghĩa lịch sử trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông ................... 167
3.2.2. Bài học lịch sử trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông đối với công
cuộc đổi mới đất nước và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. ......... 183
Kết luận chƣơng 3 ........................................................................................... 200
KẾT LUẬN CHUNG ..................................................................................... 202
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 206
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ....................................................................................................... 213
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội trong bất cứ giai đoạn lịch sử nào cũng là một hệ thống có kết cấu ch t
ch giữa các yếu tố, các lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng Một xã
hội phát triển bền vững là xã hội có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố đó, trong đó
chính trị giữ một vai trò hết sức quan trọng. ởi là một trong những yếu tố quan
trọng của hình thái ý thức xã hội, sự ổn định và tiến bộ của chính trị, như thể chế
chính trị, hệ thống chính trị, đường lối chính trị
luôn là nhân tố quyết định trực
tiếp đến các yếu tố khác của xã hội, và do đó tác động đến sự phát triển bền vững và
sự tiến bộ của xã hội. Vì thế, trong bài “Vấn đề vai trò của nhà nước”, VI.Lê-nin đã
chỉ r : “Chính trị là sự tham gia vào công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi
cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà
nước” (VI.Lê-nin, Toàn tập, tập 33, 1980, tr. 404). Trong đó, tư tưởng chính trị với
tư cách là hệ thống quan điểm của các giai cấp, các nhóm xã hội về thực tiễn chính
trị, xoay quanh trục cơ bản nhất là vấn đề quyền lực chính trị, bao gồm cả việc
giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực của nhà nước, là cơ sở hình thành các thiết
chế, tổ chức chính trị và là sự phản ánh, nhu cầu, lợi ích của lực lượng xã hội trong
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Trong xã hội có giai cấp, sự hưng thịnh hay suy
vong của một chế độ xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử phụ thuộc vào quan điểm,
lập trường chính trị và tổ chức hệ thống chính trị.
Quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam, với những đ c điểm nổi bật, đó là
một đất nước hình thành quốc gia, dân tộc rất sớm (nhà nước Văn Lang thời Hùng
Vương, Âu Lạc giai đoạn An Dương Vương), m c dù là nhà nước phôi thai, lại luôn
phải đối đầu với thiên tai, đồng thời phải liên tiếp đấu tranh chống gi c ngoại xâm,
thậm chí phải đương đầu với các thế lực h ng mạnh nhất của các thời đại khác nhau
như Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đến thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
thì vấn đề yêu nước, ý chí độc lập dân tộc, tinh thần đoàn kết toàn dân để bảo vệ chủ
quyền đất nước, khẳng định nền độc lập, tự chủ quốc gia đã luôn được dân tộc ta
phát huy cao độ. Chính trong điều kiện và tiến trình lịch sử đó đã nảy sinh ra một tư
duy chính trị đ c biệt làm nền tảng tinh thần, định hướng nhận thức và hành động
của người Việt với các nhà chính trị kiệt xuất và đã viết nên những trang sử hào
hùng của dân tộc, hun đúc nên một nền văn hóa rực rỡ, một lối tư duy chính trị sắc
b n mang đậm bản sắc dân tộc, mà sợi chỉ đỏ xuyên suốt đó là ý chí độc lập dân tộc,
tinh thần thống nhất toàn v n chủ quyền quốc gia, chủ nghĩa yêu nước, truyền thống
2
cố kết cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa và là tinh thần “thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” (Hồ
Chí Minh, 2011, tập 1, tr.534).
Kế thừa tinh thần trên, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước
ta luôn khẳng định vai trò và vị trí chính trị, đ c biệt là thể chế chính trị và hệ thống
chính trị. Điều đó đã được Đảng ta xác định rõ trong các nghị quyết của Đảng: “Nhà
nước ta là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền lực của nhân
dân” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, tr.44). Trong hệ thống đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam là hạt nhân và giữ vai trò lãnh đạo.
Trong sự nghiệp đổi mới cũng như trong quá trình hội nhập quốc tế do Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta khởi xướng, lãnh đạo và tiến hành c ng với nhiệm vụ phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013, tr.735), Đảng ta luôn quan tâm hàng
đầu đến nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, trong đó có nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Trong nhận thức, Đảng ta đã
kiên định mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính nhất nguyên chính
trị và chỉ do một Đảng Cộng sản lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên chính trị,
gây rối loạn xã hội. Tính nhất nguyên của hệ thống chính trị thể hiện ở chỗ, chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng chung của đường
lối và hệ thống chính trị của nước ta; và Đảng Cộng sản Việt Nam là đại diện cho lợi
ích chân chính của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Về quyền lực chính trị và cơ cấu
tổ chức trong hệ thống chính trị, Đảng ta đã khẳng định: “Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp nông dân và đội ngũ tri
thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013, tr.744). Chính vì thế, trong quá trình xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực.
Điều đó, không chỉ biểu hiện chúng ta đã “phát huy tính tốt hơn tính chủ động, sáng
tạo của các tổ chức trong hệ thống chính trị” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013,
tr.788), mà còn củng cố hệ thống chính trị: “hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố, tăng cường” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr.20).
Đ c biệt, vấn đề phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục
được đổi mới, trong văn kiện Đại hội XII của Đảng viết: “Đã ban hành nhiều quy
chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các
tổ chức trong hệ thống chính trị” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr.191).
3
Chính vì thế tình hình chính trị - xã hội nước ta ổn định; quốc phòng và an
ninh được giữ vững. Vấn đề dân sinh không ngừng phát triển và nhân dân ngày càng
nâng cao vai trò làm chủ của mình, “đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2013, tr.747).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được, đ c biệt là xây dựng hoàn
thiện và phát huy vai trò của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý Nhà nước, chúng ta
vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định cả về lý luận cũng như thực tiễn cần phải
tập trung giải quyết.
Trong lĩnh vực chính trị cũng như việc xây dựng hoàn thiện thể chế chính trị
và hệ thống chính trị nước ta còn những hạn chế, như: “Tổ chức của một số cơ quan
Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả” (Đảng
Cộng sản Việt Nam, 2011, tr.173). Đ c biệt, việc xác định cơ chế giữa đảng lãnh
đạo, nhà nước quản lý và các tổ chức phối hợp, giám sát chưa thật sự rõ ràng và hiệu
quả: “Phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát
triển của đất nước” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013, tr.748). Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, công tác quản lý đảng viên chưa
ch t ch , sinh hoạt đảng chưa nề nếp, nội dung sinh hoạt chưa phong phú, phê bình
và tự phê bình còn yếu. Đáng chú ý nhất là sự biểu hiện tình trạng một bộ phận
không nhỏ cán bộ đảng viên phai nhạt về lý tưởng cá nhân chủ nghĩa quan liêu, tham
ô, lãng phí làm tổn hại đến mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm
xói mòn lòng tin của nhân dân, làm ảnh hưởng đến nền dân chủ nhân dân. Trong đó,
đáng lo ngại là:
“Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn ch n, đẩy lùi mà còn
tiếp tục diễn biến phức tạp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, tr.173). “Tổ
chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả.
Chưa khắc phục được sự chồng ch o, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ
giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và
hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều
nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng
4
chéo; tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định còn hạn chế” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2016, tr.173).
Đ c biệt, trong thời đại ngày nay, tình hình thế giới và khu vực đang thay đổi
rất nhanh, phức tạp khó lường. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền biển,
đảo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, nạn khủng bố và cạnh tranh quyết liệt về lợi
ích kinh tế vẫn diễn ra gay gắt, “khu vực Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng
động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định” (Đảng Cộng sản Việt Nam,
2011, tr.28-29). Các yếu tố đe dọa an ninh, phi truyền thống tiếp tục gia tăng, vấn đề
tăng cường ổn định chính trị, giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia để phát triển kinh
tế, văn hóa là những nhiệm vụ quan trọng và then chốt của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Do đó, để thực hiện được nhiệm vụ trên, một m t chúng ta phải biết kế thừa
những giá trị từ các tư tưởng chính trị nhân loại cũng như thực tiễn chính trị của nhân
loại từ trước đến nay; m t khác, chúng ta phải biết tiếp thu và chắt lọc những giá trị
trong tư tưởng chính trị của dân tộc Việt Nam, như là nguồn lực nội sinh “hun đúc nên
tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2003, tr.54). Đó
là điều có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn thiết thực, cấp bách.
Trong dòng chảy của lịch sử Việt Nam, giai đoạn thế kỷ XIV - XV là một
trong những giai đoạn đ c biệt; đó là sự chuyển biến từ nhà Trần sang nhà Hồ; đó là
sự xâm lược của gi c Minh và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gian khổ “nếm mật nằm
gai”, giành thắng lợi oanh liệt; đó còn là việc thành lập triều đại Lê sơ với nhiệm vụ
và yêu cầu củng cố, xây dựng và phát triển nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền thống nhất, vững mạnh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc nhằm chống lại âm mưu xâm lược của
kẻ thù, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Chính trong điều kiện lịch sử đó đã xuất hiện
nhiều nhà tư tưởng lớn và nổi bật đó là Lê Thánh Tông. Lê Thánh Tông là một thiên
tài trên nhiều lĩnh vực, ông không chỉ là một vị Hoàng đế, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà
thơ lớn mà còn là nhà chính trị kiệt xuất. Với tư tưởng chính trị sắc bén của mình,
ông đã giải đáp được nhiệm vụ lịch sử xã hội Đại Việt đ t ra ở thế kỷ XIV - XV.
Ông xác định được nhiệm vụ cốt lõi của chính trị - “nhiệm vụ chính trị là ở chỗ an
dân nghĩa lý ấy thật là sâu sắc” (Tiết làm tôi - Thần tiết). Với tài năng và đức độ của
mình, ông đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ca ngợi: “Vua hiền có Lê Thánh Tông;
Mở mang bờ c i đã khôn lại lành” (Hồ Chí Minh, 2000, tập 3, tr.225).
Tuy nhiên, do sự chế định của điều kiện lịch sử tư tưởng của ông vẫn còn tồn
tại những hạn chế nhất định, nếu bỏ qua những hạn chế lịch sử ấy thì giá trị trong tư
5
tưởng chính trị của Lê Thánh Tông vẫn có ý nghĩa lịch sử nhất định trong sự nghiệp
xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Từ
những ý nghĩa lý luận và thực tiễn trên, tác giả đã chọn vấn đề “Tư tưởng chính trị
của Lê Thánh Tông và ý nghĩa lịch sử của nó” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Với nội dung phong phú, đ c điểm và giá trị đ c sắc, tư tưởng chính trị của
Lê Thánh Tông đã và đang thu hút sự quan tâm đông đảo của các nhà khoa học
nghiên cứu ở nhiều m t, qua các chủ đề phong phú và sâu sắc khác nhau. Có thể
khái quát, các công trình nghiên cứu, đánh giá về giá trị tư tưởng chính trị của ông
được tập trung theo các hướng chính sau:
Hướng thứ nhất, đó là những công trình nghiên cứu về điều kiện lịch sử,
xã hội Đại Việt thế kỷ XIV - XV và cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của Lê Thánh
Tông ảnh hưởng đến quá trình hình thành tưởng chính trị của ông.
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng của Lê Thánh Tông nói chung và tư tưởng
chính trị của ông nói riêng, chính là sự bắt nguồn và phản ánh khá chân thực điều
kiện lịch sử - xã hội Đại Việt thế kỷ XIV - XV cũng như cuộc đời và sự nghiệp của
Lê Thánh Tông. Vì thế, đã có nhiều công trình, tác phẩm quan tâm nghiên cứu về
thời đại, cuộc đời, sự nghiệp của ông. Trước hết, tiêu biểu cho hướng nghiên cứu
này, đó là công trình Đại Việt sử ký toàn thư, (4 tập), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1998, là một bộ sử có giá trị về nhiều m t, đ c biệt là giá trị về lịch sử và lịch sử tư
tưởng chính trị Việt Nam; một di sản quý báu của nền văn hoá dân tộc Đại Việt. Đây
là một công trình đồ sộ được biên soạn bởi nhiều nhà sử học từ Lê Văn Hưu đời
Trần (thế kỷ XIII), qua Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh đời Lê Sơ (thế kỷ
XV), và Phạm Công Trứ, Lê Hy đời Lê Trung Hưng, c ng những người cộng sự với
họ (thế kỷ XVII). Theo bản in từ ván khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697) mang danh
hiệu bản in Nội các quan bản, bộ sử này gồm quyển thủ và 24 quyển biên chép một
cách hệ thống, chi tiết, tỉ mỉ các sự kiện, nhân vật lịch sử dân tộc từ họ Hồng Bàng
đến năm 1675. D với tư cách là sử ký nhưng trong đó chúng ta cũng thấy rất rõ
những vấn đề về tư tưởng, triết học, chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học, quân
sự được đề cập đến trong tác phẩm lớn này. Liên quan trực tiếp đến chủ đề này có
tập II, trong đó có quyển X thời kỳ Thái Tổ Cao Hoàng đế; quyển XI thời Thái Tông
Văn Hoàng đế - Nhân Tông Tuyên Hoàng Đế; quyển XII thời Thánh Tông Thuần
Hoàng đế (thượng). Nội dung 3 quyển này được ghi chép công phu về những diễn
biến trên các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội thời trị vì của các Hoàng
đế giai đoạn thế kỷ XIV - XV. Đ c biệt nổi trội trong tập II này là quyển XIII giai
6
đoạn Thánh Tông Thuần Hoàng đế (hạ), đây là tài liệu vô c ng quý báu để cho tác
giả tra cứu, nghiên cứu để làm r cơ sở xã hội, cuộc đời, thân thế, sự nghiệp và đ c
biệt là tư tưởng chính trị của ông được thể hiện qua quan điểm cơ bản như: thể chế
chính trị; đường lối chính trị; quan điểm thân dân, đào tạo, tuyển chọn hiền tài và tổ
chức quân sự, ngoại giao.
Tiếp đến là công trình Đại cương lịch sử Việt Nam, do Trương Hữu Quýnh Đinh Xuân Lâm - Lê Mậu Hãn (chủ biên), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006. Trong
phần bốn chương IX và chương X của công trình này, các tác giả đã trình bày một
cách hệ thống điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa quốc gia Đại
Việt thế kỷ XIV - XV, từ đó có cái nhìn bao quát bối cảnh lịch sử cho sự hình
thành và phát triển tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông. Trong đó, ở chương X,
phần I các tác giả đã chỉ ra tình hình chính trị giai đoạn Đại Việt thế kỷ XIV - XV,
đó là xây dựng và củng cố chính quyền; xây dựng nền quốc phòng; lập pháp; hoạt
động đối nội và đối ngoại. Trong đó, nổi bật là Lê Thánh Tông đã kế thừa, sửa đổi
và bổ sung những điều khoản mới, góp phần to lớn trong việc san định lại xây
dựng bộ pháp điển hoàn chỉnh đó là Bộ luật Hồng Đức để quản lý xã hội bằng
pháp luật. Khi nói về những giá trị của bộ luật này, các tác giả nhận xét khá sâu sắc
và toàn diện: “Bộ luật Hồng Đức đánh dấu một trình độ phát triển cao của tư tưởng
pháp lý của dân tộc Đại Việt, khá hoàn chỉnh, do đó được sử dụng suốt trong 4 thế
kỷ thời Lê” (Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm và Lê Mậu Hãn, 2005, tr.320).
Phần II của công trình, các tác giả tập trung vào làm rõ phục hồi và phát triển kinh
tế. Qua đó, các tác giả cũng nhận xét:
“Kinh tế công thương nghiệp nước ta thời Lê sơ phát triển thêm một bước đáng
kể so với trước. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ cũng như đồng tiền đã tác động vào
xã hội, vào hệ thống quan lại, từng bước gây nên sự thay đổi trong chế độ
chính trị và ổn định của đất nước” (Trương Hữu Quýnh, 2005, tr.327).
Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp và ảnh hưởng của Lê Thánh Tông còn có
Lê Thánh Tông vị vua anh minh nhà canh tân xuất sắc, do Lê Đức Tiết, Nxb. Quân
đội Nhân dân, Hà Nội, 1997. Tác giả đã giới thiệu về thân thế, sự nghiệp của Lê
Thánh Tông và có những đánh giá sâu sắc về ông với những đóng góp to lớn trong
lịch sử dân tộc. Trên cơ sở đó, đã thúc đẩy phát triển xã hội, đem lại cuộc sống ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân. Cũng trong chủ đề này về Lê Thánh Tông, còn có tác
phẩm Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê Thánh Tông đến Minh
Mệnh, do Nguyễn Hoài Văn (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác
giả đã đi sâu phân tích những đóng góp của ông trong việc vận dụng, phát triển Nho
7
giáo thành hệ tư tưởng chính trị chính thống, sử dụng nó trong việc cai trị đất nước,
đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước cuối thế kỷ XV.
Liên quan đến chủ đề này còn nhiều công trình nghiên cứu có giá trị khác
như: Lịch sử Việt Nam, do Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam biên soạn, tập 1,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976; Lịch sử triết học phương Đông, do Doãn
Chính (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012; Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 2, do Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nxb. Giáo dục;
Các công trình
nghiên cứu trên đã trình bày, phân tích khái quát và sâu sắc điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội Đại Việt thế kỷ XIV - XV gắn liền với những yếu tố tích
cực và hạn chế đan xen đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời và phát triển tư tưởng
chính trị của Lê Thánh Tông.
Ngoài ra, nghiên cứu về chủ đề này còn có các bài viết Kinh nghiệm sử dụng
người tài, xây dựng đội ngũ quan lại thời Lê Thánh Tông, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 5/2013, tr.42 - 48; Cải cách hành chính ở cấp xã dưới thời vua Lê Thánh Tông,
Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 10/2013, tr.43 - 46. Tác giả đã đánh giá những cải
cách hành chính của Lê Thánh Tông có vai trò quan trọng trong việc đem lại sự ổn
định trật tự cho bộ máy chính quyền địa phương. Việc thực hiện cải cách của ông,
một m t đã tăng cường sự chi phối của chính quyền trung ương, m t khác đã hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã; hay bài viết Từ ngự
sử đài dưới triều vua Lê Thánh Tông - Suy nghĩ về mô hình tổ chức cơ quan thanh
tra hiện nay, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 3/2013, tr.16 - 19 của Bùi Huy Khiêm,
tác giả đã trình bày, phân tích và đánh giá cơ chế thanh tra, kiểm tra dưới triều vua
Lê Thánh Tông. Trong đó, tác giả đ c biệt quan tâm đến xây dựng bộ máy thanh tra,
kiểm tra các cơ quan nhà nước và đội ngũ quan lại trong cải cách bộ máy hành chính
nhà nước Đại Việt thế kỷ XIV - XV; và trong Kỷ yếu hội thảo khoa học về hoàng đế
Lê Thánh Tông (1442 - 1497): chào mừng 5 năm thành lập Đại học Hồng Đức
(1997 - 2002), năm 2002. Nxb. Thanh Hóa. Các tác giả cũng đã trình bày về cuộc
đời, sự nghiệp và những đóng góp của ông trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đ c biệt,
nghiên cứu về điều kiện lịch sử, xã hội Đại Việt thế kỷ XIV - XV và cuộc đời, thân
thế, sự nghiệp của Lê Thánh Tông cũng được nhiều nhà khoa học nước ngoài quan
tâm nghiên cứu, qua các sách chuyên khảo và các bài báo khoa học. Ở Pháp năm
1982 của thế kỷ trước đã có công trình Histoire du Viet Nam, des origines à 1858,
Nxb. Sud est asie, Paris, 1982 được xuất bản. Đến 2014 công trình này đã được Lê
Thành Khôi (dịch) Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, Nxb. Thế
giới, 2014. Trong chương V với tiêu đề Nền quân chủ quan liêu, tư tưởng của Lê
8
Thánh Tông được tác giả trình bày trong phần III, với các mục như: sự tập quyền,
nền hành chính quan liêu, phát triển nông nghiệp và mở rộng lãnh thổ Đại Việt. Qua
đó, tác giả đã đưa ra cái nhìn khái quát nhất về bức tranh kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội Việt Nam thế kỷ XIV - XV, đây là cơ sở tư tưởng của Lê Thánh Tông nói
chung và tư tưởng chính trị của ông nói riêng định hình, ra đời và phát triển. Tác giả
cuốn sách này đã nhận xét một cách tổng thể về nền quân chủ thời Lê Thánh Tông:
“Với Lê Thánh Tông, nền quân chủ Việt Nam đạt tới đỉnh điểm. a mươi bảy
năm trị vì, một triều đại dài một cách khác thường, đã giúp Lê Thánh Tông có
thể thực hiện một công trình khổng lồ trong mọi lĩnh vực hành chính, kinh tế
và xã hội. Hoàn tất việc tập trung chính trị, thống nhất các thể chế” (Lê
Thành Khôi, 2014, tr.262).
Như vậy, những công trình nghiên cứu về chủ đề thứ nhất đã trình bày, phân
tích tương đối toàn diện và khái quát về bối cảnh lịch sử - xã hội cũng như cuộc đời,
sự nghiệp của Lê Thánh Tông, giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn cơ sở xã hội và
tiền đề hiện thực, khách quan hình thành nên những giá trị trong tư tưởng chính trị
của ông.
Hướng nghiên cứu thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu nội dung tư
tưởng của Lê Thánh Tông qua quá trình hình thành, nội dung và đặc điểm chủ
yếu trong tư tưởng của Lê Thánh Tông nói chung và tư tưởng chính trị của ông
nói riêng.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này, trước hết đó là Công trình Lịch sử tư
tưởng Việt Nam (7 tập), do Nguyễn Đăng Thục (chủ biên), Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, 1991. Trong đó, tập I với tiêu đề Tư tưởng bình dân Việt Nam được kết cấu
thành ba nội dung chính: một là, ý thức thần thoại và triết học; hai là, hai nguồn gốc
tư tưởng Việt Nam, qua nguồn gốc văn minh Đông Sơn với trống đồng và nguồn
gốc văn minh Lạch Trường với nhà mồ Thiên Động. Từ sự phân tích hai nguồn gốc
đó công trình đã nêu bật hai “khuynh hướng tư tưởng chính yếu của dân tộc, khuynh
hướng hiện thực và khuynh hướng siêu nhiên” (Nguyễn Đăng Thục, 1991, tr.108); và
ba là, nội dung tư tưởng bình dân qua những m t cơ bản như: trạng thái sống tình
cảm nông dân, quan niệm vai trò lãnh đạo ở xã hội nông nghiệp xưa, Phật giáo bình
dân Việt Nam. Tập II với nhan đề Thời Bắc thuộc và thời Đinh, Lê (từ thế kỷ thứ II
trước công nguyên đến thế kỷ X), ngoài lời giới thiệu, nội dung của tập này được kết
cấu thành 9 mục với 419 trang, tác giả đã đi sâu phân tích về những nội dung như:
một là, về bối cảnh văn hóa Việt Nam trước thời Tần Hán; hai là, học thuật tư tưởng
Việt Nam thời Tần Hán; ba là, Sĩ Nhiếp “Nam giao học tổ”; bốn là, ảnh hưởng Ấn
9
Độ với Phật học Giao Chỉ; năm là, học thuật và tư tưởng Việt Nam thời Đường; sáu
là, thiền học Việt Nam thời T y Đường; bảy là, thiền học Việt Nam sản phẩm văn
hóa giao lưu; tám là, tình thế Giao Châu cuối cuối Đường đầu Tống với cuộc tranh
thủ độc lập chính trị Việt Nam; chín là, tư tưởng Việt Nam thời Đinh Lê (968 1010) từ Đinh ộ Lĩnh đến Lê Hoàng. Với 9 nội dung trên, công trình đã hệ thống,
phân tích hai dòng tư tưởng lớn của Việt Nam ở giai đoạn này là tư tưởng bình dân,
và tư tưởng bác học. Tập III với tiêu đề Thời Lý, công trình được triển khai trong 9
vấn đề với tổng số 348 trang, trong đó tác giả đã làm nổi bật những vấn đề về tinh
thần yêu nước, ý chí độc lập dân tộc và tinh thần đoàn kết của nhân dân Đại Việt
giai đoạn này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đánh giá chung về tư tưởng chính trị thời
Lý. Tập IV với tiêu đề Tư tưởng Việt Nam thời Trần 1225 - 1400, công trình được
kết cấu thành 7 vấn đề: một là, bối cảnh xã hội chính trị Lý - Mạt - Trần - Lê sơ; hai
là, Trần Thái Tông với Quốc học; ba là, Trúc Lâm bí quyết hay thiền học thời Trần;
bốn là, triết học Trúc Lâm Yên Tử - Tam tổ; năm là, quốc học thời Trần; sáu là, đạo
làm tướng với Binh pháp thời Trần; bảy là, tư tưởng chính trị thời Trần. Tập V với
tiêu đề Tư tưởng Việt Nam thời Hồ (1380 - 1407) với 248 trang, đã trình bày, phân
tích khái quát những nội dung lớn: một là, hoàn cảnh xã hội chính trị cuối thời Trần;
hai là, tư tưởng Nho gia, Phật giáo xung đột; ba là, tư tưởng pháp trị Hồ Quý Ly.
Qua đó, công trình đã chỉ ra sự bất lực và suy thoái của nhà Trần và vai trò của Hồ
Quý Ly trước tình hình khủng hoảng của lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy giờ; bốn
là, lai lịch họ Hồ; năm là, d p đối phương, củng cố thế lực; sáu là, công cuộc cải
cách; bảy là, nghĩa sĩ với ý thức dân tộc. Tập VI với tiêu đề Nguyễn Trãi với khủng
hoảng ý thức hệ Lê - Nguyễn (1380 - 1442), với tổng số 302 trang. Nội dung tập VI
có hai mục lên quan đến đề tài: một là, tư tưởng của Nguyễn Trãi; hai là, sự khủng
hoảng ý thức hệ phong kiến xã hội.
Có thể nói, đây là công trình nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam nói
chung và tư tưởng chính trị nói riêng khá phong phú. Công trình này đã làm r các
mốc lớn có tính chất quyết định, mang ý nghĩa bước ngo c đến sự hình thành và phát
triển tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông, sản phẩm truyền thống của chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam. M t khác, công trình còn phân tích khái quát và sâu sắc điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội đến sự hình thành và phát triển tư tưởng chính trị của Lê
Thánh Tông như: hình thái kinh tế thời Bắc thuộc, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ với các nội
dung khá sâu sắc như: xây dựng quốc gia độc lập, thống nhất; tư tưởng thân dân “lấy
dân làm gốc của đất nước”; giải quyết các mối quan hệ đẳng cấp xã hội. Đ c biệt
trong Tập VI công trình đã trình bày khái quát tư tưởng chính trị “nhân nghĩa” của
10
Nguyễn Trãi. “Nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi không chỉ là nguồn gốc sức mạnh của
chính nghĩa mà còn trở thành đường lối chính trị cứu nước cứu dân. Nguyễn Trãi gắn
“nhân nghĩa” với “an dân”, “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”. Nhân nghĩa là chăm lo
cho dân, đòi hỏi người làm quan ăn lộc vua phải có trách nhiệm với dân, phải gắn bó
làm một với dân, thương yêu dân, biết “lo trước vui sau”. Qua đó, cho chúng ta thấy
trong tư tưởng cũng như hoạt động chính trị thực tiễn của Nguyễn Trãi đã góp phần
không nhỏ đến tư tưởng chăm dân trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông. Tuy
nhiên, nhược điểm của công trình này là các trích dẫn mà tác giả sử dụng trong đó
không ghi xuất xứ, nguồn gốc, nên không thể hiện tính khoa học, xác thực.
Tiếp đến, đó là cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam do Nguyễn Tài Thư (chủ
biên), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993. Công trình này đã được tập thể tác giả
kết cấu thành 7 phần, 23 chương. Trong đó, phần thứ ba với tiêu đề Tư tưởng thời kỳ
phục hồi và xây dựng quốc gia độc lập (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV), các tác giả đã đi
vào trình bày, phân tích những bước phát triển mới trên các m t như tư tưởng chính
trị - xã hội (trong Chương VIII, Sự phát triển của tư tưởng chính trị - xã hội), hay tư
tưởng Nho gia, và sự phê phán Phật giáo ở cuối thế kỷ XIV (trong chương XI). Từ
sự phân tích khá sâu sắc về lịch sử tư tưởng từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIV, nhóm
tác giả đi đến nhận định:
“Thực sự là một thời kỳ mà các khuynh hướng tư tưởng ở Việt Nam phát
triển một cách sôi nổi đầy sinh và hào khí của một dân tộc đã giành được độc
lập tự chủ. Những thành tựu về m t nhận thức tư tưởng của dân tộc ta lúc này
gắn liền với những thắng lợi huy hoàng của công cuộc dựng nước, giữ nước
và thực hiện thống nhất nước nhà. Chính những nhu cầu của công cuộc dựng
nước và giữ nước đó đã quy định nội dung và xu thế phát triển lịch sử tư
tưởng Việt Nam đương thời. Những bước phát triển về kinh tế, chính trị, văn
hóa của nước Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV đ c biệt trong thời Lý Trần là cơ sở và điều kiện cho vườn hoa tư tưởng của dân tộc tươi tốt và có
nhiều hương sắc” (Nguyễn Tài Thư, 1993, tr.150).
Phần thứ tư với tiêu đề Tư tưởng thời kỳ ổn định và thịnh vượng của chế độ
phong kiến (thế kỷ XV) được trình bày qua 4 chương, từ trang 233 đến trang 332.
Phần này tác giả đã tập trung luận giải tình hình chính trị - xã hội, văn hóa tư tưởng
cũng như những ảnh hưởng của nó đối với việc hình thành tư tưởng chính trị của Lê
Thánh Tông.
Nghiên cứu về nội dung tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông còn có tác giả
Nguyễn Hùng Hậu chủ biên công trình: Đại cương Lịch sử tư tưởng triết học Việt
11
Nam, tập 1, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2002. Trong cuốn sách này ngoài lời
nhà xuất bản, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung được kết cấu thành 6
chương. Trong đó, liên quan trực tiếp đến chủ đề này có Chương 2, với tiêu đề Cơ
sở hình thành và đặc điểm của triết học Việt Nam, tác giả đã khái quát cơ sở xã hội
đối với việc hình thành tư tưởng triết học Việt Nam. Đ c biệt xuất phát từ việc phân
tích ảnh hưởng của phương thức sản xuất châu Á đến việc hình thành tư tưởng triết
học của Việt Nam, từ đó tác giả đã chỉ ra sáu đ c điểm của lịch sử tư tưởng triết học
Việt Nam đó là: tư tưởng Việt Nam “gắn với chủ nghĩa yêu nước, với công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước”; tư tưởng Việt Nam có hướng trội là “đi từ nhân sinh quan
đến thế giới quan”, trong đó “vấn đề trung tâm hàng đầu là vấn đề con người, đạo
làm người”; tư tưởng triết học Việt Nam là “sự thể hiện, phản ánh nhân sinh quan,
thế giới quan của cộng đồng dân tộc”; tư tưởng triết học Việt Nam xét trên bình diện
vấn đề cơ bản của triết học thì “khuynh hương duy tâm tôn giáo trội hơn khuynh
hương duy vật vô thần”; tư tưởng triết học Việt Nam hướng nội “lấy trong giải thích
ngoài”, và tính biện chứng trong tư tưởng triết học Việt Nam “nghiêng về thống
nhất”, “đi theo vòng tròn tuần hoàn”. Chương 5, với tiêu đề Tư tưởng triết học Việt
Nam từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIV (chủ yếu thời Lý - Trần), nhóm tác giả đã trình
bày những tư tưởng triết học Nho gia Việt Nam từ thế kỷ X đến XIV, Chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam từ thế kỷ X đến XIV. Đ c biệt, chương 6 với tiêu đề Tư tưởng triết
học Việt Nam từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ 1858. Trong đó, có phần thứ nhất, “Thế
giới quan”; phần thứ hai, “Chính trị quan”; phần thứ ba, “Hạn chế về nhận thức”.
Tác giả trình bày, phân tích khá toàn diện và sâu sắc về những vấn đề triết học chính
trị trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông trong dòng chảy lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Trong nội dung phong phú đó, tác giả chỉ ra dưới ánh sáng tư tưởng triết học
chính trị của ông cha gắn với hoạt động thực tiễn, tư tưởng chính trị của Lê Thánh
Tông được định hình và phát triển.
Trong công trình này tác giả còn nhận xét, đánh giá một cách khách quan
những giá trị và hạn chế trong tư tưởng của Lê Thánh Tông nói chung và tư tưởng
chính trị của ông nói riêng. Về giá trị: “đường lối này đã đáp ứng được yêu cầu của xã
hội lúc bấy giờ, chính vì vậy nó đã làm cho đất nước phát triển khá rực rỡ” (Nguyễn
Hùng Hậu, Doãn Chính và Vũ Văn Gầu, 2002, tr.184), “mô hình mà ông xây dựng là
đất nước hòa bình, dân ấm no, lễ giáo phát triển, quyền thống trị vững chắc thuộc nhà
Lê, và thực tế ông đã làm được” (Nguyễn Hùng Hậu, 2002, tr.183); Bên cạnh đó, tư
tưởng chính trị của Lê Thánh Tông vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định đó là: “Từ
chủ nghĩa chủ quan dẫn đến tự kiêu, tự phụ, tự mãn xem cái bản ngã của mình quá
12
lớn, đâu đâu cũng thấy mình là trung tâm, công lao thuộc về mình mà không thấy ra
vai trò của quần chúng nhân dân” (Nguyễn Hùng Hậu, 2002, tr.184).
Cùng với hướng nghiên cứu này còn có công trình Lịch sử tư tưởng Việt Nam
cổ trung đại do Huỳnh Công Bá (chủ biên), Nxb.Thuận Hóa, Huế, 2011, tác phẩm
ngoài lời nói đầu, dẫn luận, kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, mục lục, nội dung
tác phẩm được phân thành XIII chương. Trong đó, liên quan trực tiếp chủ đề này có
Chương VI với tiêu đề Nước Đại Việt cường thịnh dưới thời Lê sơ, ở mục II, tác giả
đã khái quát những nội dung cơ bản về hoạt động của bộ máy chính trị giai đoạn
này như: triều Lê thành lập và định đô ở Đông Kinh; tổ chức bộ máy nhà nước
trung ương; tổ chức hành chính địa phương; tổ chức quốc phòng và quân đội; củng
cố quốc gia thống nhất; đẩy mạnh hoạt động lập pháp. Trên cơ sở đó, tác giả đã
đánh giá, giá trị và ý nghĩa di sản tư tưởng của Lê Thánh Tông. Khi nhận định, đánh
giá về tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông, tác giả đã khẳng định sâu sắc:
“Tổ chức chính quyền dưới triều Lê là một nhà nước quân chủ trung ương tập
quyền lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có tính quy mô và ch t ch : chế độ
quân chủ phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế quan liêu. Bộ máy quan
lại ở thời Lê đã được tăng cường về m t số lượng và chất lượng” (Huỳnh Công
Bá, 2011, tr.616).
Tuy nhiên, do phương pháp tiếp cận của tác giả chủ yếu là phương pháp lịch
sử, cho nên m c d đã có tính hệ thống, nhưng nội dung tư tưởng chính trị của Lê
Thánh Tông chưa được tác phẩm phân tích một cách toàn diện và sâu sắc trong lịch
sử tư tưởng Việt Nam. Khi bàn về chủ đề này còn có tác phẩm tiêu biểu: Mười cuộc
cải cách đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam, do Văn Tạo (chủ biên), Nxb. Đại học
sư phạm, 2012. Tác giả đã trình bày và phân tích khá sâu sắc tư tưởng cũng như vị
trí, vai trò của Lê Thánh Tông trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trong đó, tác giả đã
ca ngợi Lê Thánh Tông rằng: “Tư duy chỉ đạo tuy không được Lê Thánh Tông đề
xuất thành văn, nhưng đã biểu hiện r trong hành động là “pháp trị đi đôi với nhân
trị”. Nền tảng của nó là tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc, tư tưởng yêu nước - bảo tồn
từng tấc đất của ông cha, là: “Tư tưởng an dân, lo cho dân an cư lạc nghiệp” (Văn
Tạo, 2012, tr.116).
Đ c biệt trong thời gian gần đây có công trình Lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam từ thời kỳ dựng nước đến đầu thế kỷ XX, do Doãn Chính (chủ biên), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2013. Trong cuốn sách này ngoài lời nhà xuất bản, danh mục tài
liệu tham khảo thì nội dung được kết cấu thành 5 chương với tổng số 1051 trang. Liên
quan đến đ c điểm, giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử trong tư tưởng chính trị của Lê
13
Thánh Tông có Chương 4, với tiêu đề Tư tưởng triết học Việt Nam từ thế kỷ XV đến
thế kỷ XIX. Trong đó có phần I: Tư tưởng triết học thời kỳ Lê sơ từ trang 463 đến
trang 518, tác giả đã khái quát nội dung tư tưởng triết học thời kỳ Lê sơ nói chung và
đ c biệt tư tưởng “thân dân, lấy dân làm gốc”, “trọng dân” trong tư tưởng chính trị
của Lê Thánh Tông nói riêng. Trên cơ sở đó giúp cho tác giả luận án rút ra được
những giá trị, hạn chế trong tư tưởng chính trị của ông. Qua toàn bộ nội dung công
trình cho chúng ta thấy tác giả đã thể hiện sự nghiêm túc, công phu trong nghiên cứu.
Cùng với hướng nghiên cứu trên, phải kể đến Thơ văn Lê Thánh Tông, do
Mai Xuân Hải (chủ biên), Nxb. Văn học, 1986; Lê Thánh Tông, do Nguyễn Tà Nhi
(chủ biên), Nxb. Văn hoá dân tộc, 1998; Chân dung văn hoá Việt Nam, tập 2, do Tạ
Ngọc Liễn (chủ biên), Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội, 1999; Văn học Việt Nam thế kỷ
X đến nửa đầu thế kỷ XVIII, do Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương
(chủ biên), Nxb. Giáo dục, 2000; Sự nghiệp Lê Thánh Tông và Lê tộc ở Quảng Nam
- Đà Nẵng, do Phạm Ngô Minh - Lê Duy Anh (chủ biên), Nxb. Đà Nẵng, 1999;
Mười vị hoàng đế Việt Nam tiêu biểu, do Đ ng Việt Thủy (chủ biên), Nxb. Quân đội
nhân dân, 2011;... Trong các công trình trên phải kể đến các tác phẩm lớn như Mai
Xuân Hải: Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông (tổng tập), Nxb. Văn học, Hà Nội, 2003.
Đây là những công trình khoa học công phu, đồ sộ, cung cấp cho người đọc một
cách khá đầy đủ và đáng tin cậy nhất về nhiều góc độ khác nhau trong tư tưởng Lê
Thánh Tông. Đ c biệt là các văn bản gốc về thơ, văn của ông và tư tưởng chính trị
của ông được cụ thể hóa trong các bài thơ này. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại ở
góc độ phiên âm, dịch nghĩa các bài thơ nguyên bản của Lê Thánh Tông, còn phân
tích nội dung tư tưởng nói chung và tư tưởng chính trị của ông nói riêng trong các
bài thơ đó dường như chưa được đề cập đến ho c nếu có cũng chỉ mang tính khái
quát. Công trình này bao gồm 7 nội dung với tổng cộng 895 trang, tác giả đã tổng
hợp được nhiều lời bình luận, nhận xét sâu sắc của các nhà sử học uy tín về Lê
Thánh Tông - Ngô Sĩ Liêm nhận x t: “nhà vua thực là bậc h ng tài đại lược, d Vũ
Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không hơn được” - Nhà bác học Phan Huy
Chú đánh giá: “về trị nước thì vua tôn trọng Nho thuật, cất nhắc anh tài, sáng lập chế
độ, mở mang bờ c i, văn v tài lược hơn cả các đời”. Ông đích thực là vị “An Nam
chân chúa” như sách Lê kỷ tục biên ca ngợi.
Như vậy, các công trình tiêu biểu trên, các tác giả phân tích khá kỹ các
phương diện khác nhau liên quan trực tiếp, cũng như gián tiếp đến tư tưởng chính
trị của Lê Thánh Tông. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu sâu và có hệ
thống về thể chế chính trị và nguyên tắc chính trị; quan điểm về tổ chức và quản lý
14
xã hội bằng pháp luật; quan điểm tổ chức, quản lý kinh tế; quan điểm tổ chức,
quản lý giáo dục; quan điểm về quân sự và ngoại giao; và quan điểm về dân và
đào tạo, trọng dụng hiền tài trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông.
Hướng thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá về tư
tưởng của Lê Thánh Tông, đặc biệt là những công trình đánh giá về ý nghĩa và
bài học lịch sử trong tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông.
Trước hết, phải kể đến công trình Đại cương lịch sử tư tưởng Triết học Việt
Nam, do Nguyễn Hùng Hậu (chủ biên), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2010. Công
trình này đã nhận xét sâu sắc về điều kiện lịch sử xã hội Đại Việt - “Thời Lê sơ
nhất là nửa đầu thế kỷ XV, đã xuất hiện mâu thuẫn giữa tầng lớp v tướng (khai
quốc công thần) với hàng ngũ quan văn xuất thân từ Nho học, giữ hai đường lối tổ
chức xã hội, hai đường hướng văn hóa phản ánh bước chuyển từ dựng nước, từ đó
dẫn đến cái chết thê thảm của các đại thần bên văn (Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn
Xảo, Nguyễn Xí, Nguyễn Chích, Nguyễn Trãi...) cũng như bên v (Lê Sát, Lê
Ngân, Lê Thụ...)” (Mai Xuân Hải, 1998, tr.296). Nội dung cuốn sách này bao gồm
7 chương với tổng cộng 473 trang cũng bàn đến điều kiện lịch sử, xã hội cũng như
yêu cầu thực tiễn của xã hội đ t ra trong những năm đầu nhà Lê sơ. Trong đó có tư
tưởng chính trị của Lê Thánh Tông. Tuy nhiên nội dung công trình này cũng mới
chỉ dừng lại mức độ khái quát.
Tiếp tục chủ đề nghiên cứu này còn có công trình: Lịch sử Quân sự Việt Nam,
tập 2, của tác giả Nguyễn Huy Thục, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014. Tác
phẩm này bao gồm 5 tập trong đó tiêu biểu trong hướng nghiên cứu này có tập II
giai đoạn Từ 1428 đến năm 1858 về nội dung, công trình được kết cấu 4 chương với
501 trang. Trong đó, liên quan trực tiếp có chương I từ trang 11 đến trang 131 tác
giả đã bàn về thể chế chính trị và tổ chức quân sự bảo vệ tổ quốc thời Lê sơ nói
chung và nội dung tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông nói riêng. Trên cơ sở đó,
giúp cho tác giả luận án nắm được một số nội dung cơ bản như: Tư tưởng xây dựng
với bảo vệ tổ quốc; Tư tưởng xây dựng quân đội tập trung thống nhất, vững mạnh
để giữ nước; Tư tưởng đối ngoại khôn khéo để giữ vững độc lập dân tộc và chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đây thực sự là những nhân tố rất quan trọng giúp
tác giả luận án lý giải được phần nào về sự vững mạnh giai đoạn trị vì của Lê Thánh
Tông. Qua đó, làm cơ sở để tác giả luận án đánh giá một cách khách quan trong tư
tưởng chính trị của ông. Tuy nhiên, với khuôn khổ của một chương, tác giả chưa có
điều kiện phân tích sâu về tư tưởng chính trị của ông.
- Xem thêm -