BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
NGUYỄN ANH TÙNG
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA ARIXTỐT
TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN”
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đà Nẵng – Năm 2015
Công trình được hoàn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG
Phản biện 1: TS. Phạm Huy Thành
Phản biện 2: PGS.TS. Hồ Tấn Sáng
Luận văn đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn họp tại Đại học Đà
Nẵng vào ngày 31 tháng 01 năm 2015.
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm thông tin học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học kinh tế, Đại học Đà Nẵng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Triết học Hy Lạp là một di sản quý giá không chỉ của dân tộc
Hy Lạp, mà còn của cả nhân loại. Với nền văn minh rực rỡ của mình,
Hy Lạp luôn thu hút sự quan tâm tìm hiểu của không ít người nghiên
cứu và cho đến nay, những thành tựu của nền văn minh ấy vẫn luôn
khiến người ta phải ngưỡng mộ, khâm phục.
Arixtôt là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo
nên ảnh hưởng hết sức lớn lao trong nền văn minh phương Tây. Cùng
với Platon, Arixtôt được coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp
quan trọng nhất.
Là một nhà bác học, Arixtôt đã để lại cho hậu thế một kho tàng tư
tưởng đồ sộ về nhiều phương diện như triết học, khoa học, toán học,
thiên văn học và chính trị học. Chính trị luận là một trong những tác
phẩm kinh điển của Arixtôt về triết lý và lý thuyết chính trị của Phương
Tây và trên nền tảng những lý thuyết chính trị khác như của Cicero, St.
Augustine, Aquinas (cổ, trung đại), Hobbes, Locke, Rousseau (thời Cận
đại và Khai sáng) – đã được xây dựng và phát triển.
Trong tác phẩm Chính trị luận, Arixtôt khái quát các hình thức
thể chế chính trị đã tồn tại ở Hy Lạp, phê phán các lý thuyết về nhà
nước, nhất là mô hình nhà nước lý tưởng của Platon – người thầy của
ông, đồng thời đưa ra nhiều tư tưởng có giá trị về mô hình thể chế
chính trị được ông cho là tốt nhất. Nhiều tư tưởng chính trị của Arixtôt
vẫn còn nguyên giá trị và có thể được vận dụng một cách sáng tạo
trong thời đại ngày nay.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “Tư tưởng chính trị của Arixtôt
trong tác phẩm Chính trị luận” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ
của mình.
2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích phân tích những nội dung cơ bản về tư
tưởng chính trị trong tác phẩm Chính trị luận của Arixtôt, chỉ ra được
những đóng góp cũng như những hạn chế của chúng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đã đề ra, đề tài phải thực hiện những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu những điều kiện kinh tế - xã hội và tiền đề tư
tưởng cho sự ra đời tư tưởng chính trị của Arixtôt.
- Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị trong
tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtôt.
- Chỉ ra được những đóng góp cũng như những hạn chế của
những nội dung đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những tư tưởng chính
trị trong tác phẩm “Chính trị luận” của Arixtôt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng triết học của Arixtôt bao
quát nhiều lĩnh vực rộng lớn: siêu hình học, vật lý học, lôgic học,
chính trị học, đạo đức học… trong nhiều tác phẩm. Luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu những tư tưởng chính trị của ông trong tác phẩm
“Chính trị luận”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng kết hợp các
phương pháp: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, trừu tượng
và cụ thể, lịch sử và lôgíc, đối chiếu, so sánh, v.v..
3
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1. Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm “chính trị
luận” của Arixtôt
Chương 2. Một số nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị
Arixtôt trong tác phẩm “Chính trị luận”
Chương 3. Những giá trị và hạn chế của tư tưởng chính trị
Arixtôt trong tác phẩm “Chính trị luận”
6. Tổng quan tình hình nghiên cứu
CHƯƠNG 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ KẾT CẤU CỦA TÁC PHẨM
“CHÍNH TRỊ LUẬN” CỦA ARIXTÔT
1.1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CƠ SỞ LÝ
LUẬN CHO SỰ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA
ARIXTÔT
1.1.1. Những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
Quá trình tan rã của chế độ bộ lạc nguyên thủy và hình thành xã
hội có giai cấp và nhà nước ở Hy Lạp cổ đại kéo dài vài thế kỷ
(khoảng các thế kỷ XI - VIII Tr.CN). Hậu quả là sở hữu tư nhân tăng
lên rõ rệt dẫn tới sự tan rã của công xã nông thôn. Gắn với quá trình
tan rã của lối sinh hoạt công xã là quá trình hình thành vô số nhà nước
thành thị ở Hy Lạp cổ đại. Các thành phố Hy Lạp cổ đại đã đi đến chỗ
đối lập với nông thôn một cách gay gắt hơn nhiều so với các thành
phố phương Đông cổ đại. Nhiều thành phố ở Hy Lạp cổ đại trở thành
các trung tâm buôn bán lớn.
Mức độ buôn bán và sản xuất hàng hóa sôi động là một bằng
4
chứng có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội,
đối với sự xuất hiện của đồng tiền vào thế kỷ VII TrCN. Đây là một
bước tiến bộ lớn trong quá trình phát triển của xã hội Hy Lạp cổ đại.
Lịch sử tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại gắn bó hữu cơ với quá
trình tiến hóa xã hội và nhà nước Hy Lạp chiếm hữu nô lệ.
Lãnh thổ của Hy Lạp được mở rộng thuận lợi cho việc giao lưu
kinh tế văn hóa với các dân tộc khác. Sự phát triển của sản xuất đã dẫn
đến việc các quan hệ và tổ chức xã hội bị đảo lộn. Phân công lao động
phát triển, xã hội xuất hiện tầng lớp chuyên sống bằng trí óc tạo điều
kiện nảy sinh những tư tưởng chính trị. Chế độ sở hữu cá nhân được
thừa nhận và không thay đổi, chế độ nô lệ được coi là tự nhiên phải có.
Với những đặc trưng kinh tế, chính trị, xã hội như vậy, triết học
Hy Lạp cổ đại đã ra đời và phát triển với một thành tựu rực rỡ. Trên
nền tảng chung đó, triết học Arixtôt đã ra đời.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng chính trị của
Arixtôt
Trước nhất, bàn về thủ lĩnh chính trị, đã có rất nhiều quan
điểm, ý kiến của các học giả về vấn đề này:
- Xôcrat cho rằng: thủ lĩnh chính trị phải là người có đạo đức.
Nhưng đạo đức phụ thuộc vào trí tuệ. Do xuất thân từ tầng lớp chủ nô
quý tộc nên ông cho rằng chỉ có thiểu số tầng lớp quý tộc mới là người
có trí tuệ, là những người sáng tạo đúng đắn.
- Đêmôcrít thì yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải là người có tài
năng, đạo đức và do thuộc trường phái duy vật chủ nô dân chủ nên
cho rằng tầng lớp bình dân cũng có tài năng, có thể làm được chính trị.
- Xênôphôn lại yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải có kỹ thuật giỏi,
phải có sức thuyết phục cao, người thủ lĩnh phải biết vì lợi ích chung.
- Platon thì yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải thực sự có khoa học
5
chính trị, có tính khí phù hợp với nhiệm vụ đảm đương. Ông xem tiêu
chuẩn chính trị là tiêu chuẩn của mọi tiêu chuẩn.
Thứ hai, bàn về nguồn gốc của quyền lực nhà nước, một số quan
điểm nổi bật của các học giả như sau:
- Hêraclít: là người thuộc tầng lớp chủ nô quý tộc. Ông cho rằng
quyền lực là quy luật vĩnh viễn. Theo ông bất bình đẳng là tự nhiên,
một quý tộc phải được trị giá bằng một nghìn dân thường.
- Platon: xem quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là quyền
lực thống trị của kẻ trí đối với người ngu. Chỉ có người có trí tuệ mới
có quyền lực. Trí tuệ chỉ có ở tầng lớp quý tộc (những người ưu tú
nhất của xã hội).
Thứ ba, bàn về thể chế nhà nước, các quan điểm lớn bao gồm:
- Herôdốt: là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã phân biệt
và so sánh các thể chế của nhà nước khác nhau.
- Đêmôcrít: ông ủng hộ chế độ dân chủ cộng hoà chủ nô.
- Xôcrat, Platon là những người ủng hộ chế độ chuyên chế quý
tộc, cho rằng dân chủ là sai lầm.
Arixtôt đã tham khảo tất cả các lý luận về thể chế chính trị, cùng
với việc khảo sát những hình thức, mô hình nhà nước đã tồn tại trên
thực tế, từ đó đưa ra quan điểm riêng của mình.
1.2. TIỂU SỬ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC CỦA ARIXTÔT
1.2.1. Cuộc đời Arixtôt
Arixtôt chào đời tại Stagira thuộc miền Thrace năm 384 trước
Tây Lịch. Cha Arixtôt, ông Nichomachus, là một thầy thuốc danh
tiếng tại triều đình Vua Amyntas II, cha của Vua Philip của
Macedonia. Mẹ của Arixtôt vốn người miền Chalcis. Trong 17 năm
đầu, Arixtôt đã sống với cha mẹ và được cha dạy cho về Y khoa. Năm
17 tuổi, Arixtôt tới thành Athens và theo học nghề thầy thuốc.
6
Năm 367 trước CN, Arixtôt vào học ở Hàn lâm viện) của
Platon. Arixtôt được coi là một trong số học viên chăm chỉ nhất và
xuất sắc hơn các bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành.
Vào năm 347 khi Platon qua đời, Speusippus trở thành người
đứng đầu Hàn lâm viện (Academos). Arixtôt đã cùng với Xenocrates
và một vài môn đệ của Platon, rời thành Athens tới Assos, sống với
Hermias là một học trò cũ của Platon và cũng là bạo chúa của hai tỉnh
Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á.
Năm 342, Arixtôt được mời tới Macedonia để dạy dỗ Thái tử
Alexander khi đó mới 13 tuổi. Arixtôt đã ở lại Macedonia trong 7 năm.
Năm 340 khi vua Philip đi chinh chiến nơi xa, Thái tử
Alexander nắm giữ quyền hành. Vào thời gian này, Arixtôt lập ra một
ngôi trường và ông cũng giành thời giờ cho riêng mình để học hỏi
thêm.
Vào năm 335 TrCN, khi Đại đế Alexander đi chinh phục châu Á
thì Arixtôt tự thấy rằng nhiệm vụ của mình đã chấm dứt. Ông đề nghị
để người cháu tên là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Đại đế.
Sau khi từ biệt Alexander, Arixtôt trở lại thành Athens. Tại nơi
này, Arixtôt lập ra trường Lyceum (Học viện), gần đền Apollon
Lycien. Trong 12 năm liền, Arixtôt vừa thuyết giảng, vừa viết sách và
phổ biến nhiều tác phẩm đề cập tới hầu hết kiến thức của thời đại.
Năm 323 khi Đại Đế Alexander qua đời, cuộc sống của Arixtôt
cũng bị ảnh hưởng. Đảng Quốc gia thành Athens do Demosthenes
lãnh đạo đã nổi dậy chống lại phe Macedonia sau khi Đại Đế
Alexander không còn nữa. Arixtôt rời bỏ thành Athens, trở về quê mẹ
là miền Chalcis. Sống tại Chalcis được vài tháng, Arixtôt qua đời vào
năm 322 TrCN. Hài cốt của Arixtôt được chôn cất tại Stagira cùng với
hài cốt của Pithias, vợ ông.
7
1.2.2. Sự nghiệp của Arixtôt
Chúng ta có thể phân chia sự phát triển tư tưởng triết học của
Arixtôt thành ba giai đoạn như sau:
a. Giai đoạn ở Hàn lâm viện của Platon
Trong thời gian này, lối suy tư của Arixtôt còn chịu ảnh hưởng
rất rõ tư tưởng của Platon. Nó được trình bày trong các tác phẩm như:
“Chính nghĩa”, “Chính trị”, “Các nhà ngụy biện”, “Yến tiệc”, “Bàn
về cái thiện”, “Bàn về các ý niệm”, “Bàn về sự cầu nguyện”.
b. Giai đoạn giao thời
Giai đoạn này gồm các tác phẩm được Arixtôt viết ở Assos,
Lesbos và trong triều đình Maxêđoan. Trong số đó phải kể đến hội
thoại “Bàn về triết học”. Ở giai đoạn này đã manh nha những ấn
phẩm giáo khoa của Arixtôt, mà theo đánh giá của W.Jeager, được coi
là siêu hình học đầu tiên, đạo đức học đầu tiên, chính trị học và vật lý
học đầu tiên.
c. Giai đoạn Arixtôt sống ở Học viện Lyceum
Đây là giai đoạn Arixtôt sáng tác rất nhiều tác phẩm trên nhiều
lĩnh vực. Qua đó, Arixtôt đã trình bày những quan điểm chín muồi của
mình. Những ấn phẩm thời kì này còn lưu truyền tương đối nguyên
vẹn tới ngày nay. Các tác phẩm của Arixtôt được xuất bản theo những
chuyên đề như sau:
- Những chuyên luận về lôgic học được gọi là Organon (tiếng
Hy Lạp: όργανον - công cụ) được biên soạn và xuất bản thành 6 tập
(quyển).
- Những công trình về khoa học tự nhiên được gọi là Vật lý học
(Phusika), gồm những công trình của Arixtôt về cơ học, vật lý học,
thiên văn học, khí tượng học, thảo mộc và động vật học và được xuất
bản thành 8 tập.
- Những công trình về “triết học thứ nhất” được gọi là Siêu hình
học (tiếng Hy Lạp: Metaphusika) được xuất bản thành 14 tập.
8
Tác phẩm Chính trị học hay Chính trị luận được xuất bản thành
8 tập.
- Tác phẩm viết về đạo đức học có tiêu đề Đạo đức học
Nicomachus (Ethika Nikomacheia), gồm 10 tập.
Ngoài ra còn có những công trình về Thuật hùng biện, Thi học
(không còn đầy đủ).
1.2.3. Về kết cấu của tác phẩm “Chính trị luận”
Chính Trị Luận có 8 quyển. Quyển I mang tựa đề “Lý thuyết về
Gia đình” gồm 13 chương. Trong Quyển I, Arixtôt dùng phương pháp
phân tích và truy nguyên các hình thức quần tụ của con người từ đơn
vị nhỏ nhất là gia đình, đến làng mạc, rồi đến quốc gia.
Quyển II gồm 12 chương. Từ chương 1 đến 8, Arixtôt bàn về
các nhà nước lý tưởng trên lý thuyết.
Quyển III gồm 18 chương và chủ đề của Quyển III là khảo sát
về bản chất công dân và các mô hình hiến pháp. Quyển III cũng là
trọng tâm của Chính Trị Luận.
Quyển IV gồm 16 chương. Trong Quyển IV, Arixtôt luận về
các mô hình hiến pháp (chế độ) và các dạng khác nhau của từng mô
hình trong thực tế.
Quyển V gồm 12 chương, mang tựa đề “Nguyên nhân của cách
mạng và sự thay đổi chế độ”.
Quyển VI gồm 8 chương, bàn về các phương thức thiết lập chế
độ Dân chủ và Quả đầu, liên quan đến ba ngành của chính quyền:
hành pháp, tư pháp và lập pháp.
Arixtôt bàn về các lý tưởng chính trị và các nguyên tác giáo dục
trong Quyển VII.
Arixtôt dành ra Quyển VIII để bàn về giáo dục. Giáo dục là
nhiệm vụ của quốc gia và nhà nước phải xây dựng một hệ thống giáo
dục đồng nhất cho mọi công dân.
9
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA ARIXTÔT TRONG TÁC PHẨM “CHÍNH TRỊ LUẬN”
2.1. QUAN NIỆM CỦA ARIXTÔT VỀ NGUỒN GỐC, MỤC
ĐÍCH, HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC
2.1.1. Quan điểm Arixtôt về nguồn gốc, mục đích của nhà nước
Theo Arixtôt, nhà nước ra đời trên cơ sở sự liên kết tự nhiên và
tự nguyện giữa mọi người vì lợi ích của mỗi người và vì lợi ích chung.
Sở dĩ con người có thể liên kết với nhau thành các cộng đồng, các xã
hội như gia đình, làng xóm và thành bang là vì họ có khả năng giao
tiếp cao hơn các động vật khác và vì họ là động vật có tính xã hội.
Arixtôt luận giải rằng con người sẽ không thể tồn tại được nếu
không kết hợp lại với nhau giống như sự kết hợp giữa giống đực và
giống cái để duy trì nòi giống trong các sinh vật khác, điều đó không
thông qua một sự lựa chọn mà chỉ do sự thôi thúc có tính chất bản
năng. Vì lý do đó, mỗi thành bang về nguồn gốc phải là sản phẩm của
tự nhiên.
Arixtôt còn luận giải thêm rằng do sự thúc đẩy tự nhiên mà con
người liên kết với nhau một cách tự nguyện trong các thành bang, vì
theo cách đó mỗi người có thể tìm thấy những lợi ích lớn nhất. Mỗi
thành bang là một xã hội và mỗi xã hội đều được tạo thành bởi một số
lợi ích nhất định. Nhờ có khả năng nói mà con người là động vật có
tính xã hội, có khả năng giao tiếp cao hơn các động vật khác. Quan
điểm này của Aristote về sau được kế thừa bởi nhiều học giả như
Ciceron, Jean Bodin…
Về bản chất của nhà nước, theo Arixtôt là một cộng đồng chính
trị mà ở trong đó con người sinh sống với nhau để nhằm đến một mục
đích tốt đẹp là thỏa mãn mọi nhu cầu như: sinh lý, giao tiếp, trí tuệ,
10
văn hóa v.v., con người phải sống cuộc đời của mình bên trong khuôn
khổ xã hội. Mục tiêu cơ bản của nhà nước là tạo điều kiện cho mỗi
công dân được hưởng một cuộc sống thư nhàn, có cơ hội nhận thức
được giá trị tối thượng của con người. Đó là cuộc sống hướng đến các
giá trị văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, chính trị, khoa học và trên tất cả,
triết học.
2.1.2. Quan điểm Arixtôt về các hình thức nhà nước trong
lịch sử
Trong Chính trị luận, Arixtôt tiến hành phân loại các hình thức
cai trị. Theo ông, nhà lập pháp và nhà lãnh đạo chân chính cần chú ý tới
bốn yêu cầu khi đánh giá về các mô hình nhà nước đã được tạo dựng
trên thực tế lịch sử. Ông cho rằng, cần phải xem xét, không phải chỉ cơ
cấu chính trị nào là tốt nhất, mà còn xem loại nào là loại có thể thực
hiện được và nước nào cũng xây dựng được một cách dễ dàng.
Theo Arixtôt thì quyền uy tối thượng trong một nước có thể
nằm trong tay của một người, hay của một số người, hay thuộc về
nhiều người. Ông đã chia chúng thành ba hình thức đúng đắn đó là
những hình thức phục vụ cho lợi ích chung, bao gồm quân chủ, quý
tộc và cộng hòa. Còn những chính quyền được thiết lập nhằm phục vụ
quyền lợi riêng tư của một người, một nhóm người, hay của cả nhiều
người đều là hình thức hủ bại, gồm có bạo chúa, quả đầu và dân chủ.
Arixtôt đưa ra lập luận để giải thích lý do tại sao có nhiều hình
thức cai trị là vì trong mỗi nước có nhiều phần tử khác nhau. Tất cả
mọi nước đều bắt nguồn từ nhiều gia đình, và trong số đông đảo công
dân lại có kẻ giàu người nghèo, có kẻ trung lưu.Vì thế, mỗi tầng lớp
công dân trong xã hội lại tự lựa chọn đi theo những chế độ khác nhau.
Điểm giống nhau giữa Platon và Arixtôt là ở chỗ hai ông phân
loại hình thức nhà nước ra hai nhóm: tích cực và tiêu cực, để từ đó lựa
chọn cái phù hợp nhất. Arixtôt lựa chọn cái phù hợp dựa trên các
11
thông số hiện thực, còn Platon thì hướng đến cái lý tưởng. Cả hai ông
đều nhận ra những mặt trái của thể chế chính trị đang tồn tại, và từ đó
đưa ra mô hình tốt đẹp hơn, hay phù hợp hơn.
Về phương pháp để hình thành nên thể chế này, Arixtôt chủ
trương vừa tuyển cử vừa bốc thăm. Nhà nước cộng hòa của Arixtôt là
chính phủ của một đội ngũ những người ưu tú uyên bác và mở rộng
tới các công dân sung túc về cả của cải, vật chất và tinh thần. Người ta
coi nó là chế độ trung bình trị.
2.1.3. Quan điểm của Arixtôt về con người và các quan hệ
chính trị của con người
a. Quan điểm của Arixtôt về con người
Có thể nói, Arixtốt là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên
sớm nhận ra tính xã hội của hoạt động con người. Với câu nói: “con
người là một động vật chính trị” Arixtôt đã làm nổi bật lên quan điểm
này của mình về con người. Đây là tư tưởng có ý nghĩa quan trọng
trong việc nhận thức vấn đề con người cho đến tận sau này.
Theo Arixtôt con người do bản tính tự nhiên phải sống trong
cộng đồng chính trị nên con người phải là một sinh vật chính trị và vì
là một sinh vật chính trị được ban cho tiếng nói nên con người phải
có ý thức hơn các loại động vật khác.
Với việc được ban cho tiếng nói con người có thể giao tiếp với
nhau và thực hiện những điều mà những động vật khác không thể làm
được. Chính nhờ có tiếng nói và giao tiếp với nhau cũng như được
sống trong cộng đồng con người đã sáng tạo ra nhiều lại công cụ để hỗ
trợ việc sản xuất cũng như việc giải trí. Chính nhờ thông qua những
việc như vậy con người đã xây dựng cho mình một nền văn minh.
Nhờ được ban cho tiếng nói mà con người có thể diễn tả được cảm xúc
của mình như đau đớn hay sảng khoái và có thể chỉ ra những điều tốt, xấu.
12
Và nhờ có tiếng nói con người có thể truyền đạt được những điều này
đến những người xung quanh.
b. Quan điểm của Arixtôt về các quan hệ xã hội của con
người trong nhà nước
Trong Chính trị luận, Arixtôt chỉ ra ba loại quan hệ cơ bản của
con người đó là quan hệ giữa chủ nhân và nô lệ, quan hệ vợ chồng và
quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Đầu tiên chúng ta đi tìm hiểu về quan niệm giữa chủ nhân và nô
lệ. Arixtôt coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là một tài sản
sống của người chủ nhân. Ông coi nô lệ là một công cụ sống dùng để
sử dụng các công cụ lao động vô tri khác. Qua phân tích sản xuất và
hoạt động ông kết luận, sản xuất sử dụng những công cụ chết và hoạt
động được tạo nên bởi công cụ sống đó chính là người nô lệ.
Theo ông, trong sự phân loại của thiên nhiên đã hình thành nên
sự khác biệt giữa người tự do và người nô lệ, đó là sự phù hợp của thể
chất mỗi loại người với công việc được lựa chọn trong xã hội. Qua đó,
Arixtôt đi đến kết luận, đó là nếu có người do bẩm sinh là người tự do,
thì cũng có người do bẩm sinh là nô lệ; và đối với những kẻ này thì
việc trở thành nô lệ vừa tốt vừa có lợi hơn cho chính họ.
Trong quan hệ gia đình, Arixtôt cho rằng người chồng, người
cha có một vai trò to lớn trên cả vợ con. Đây là quan điểm giống với
quan điểm của phương Đông khi xem trọng quyền lực của người đàn
ông, người đàn ông được xem như trụ cột của gia đình. Như vậy, nếu
xét về nguồn gốc nhà nước theo quan điểm của Arixtôt thì gia đình
giống như một nhà nước thu nhỏ và người đàn ông trong gia đình
giống như một vị vua không ngai.
Arixtôt luận giải vấn đề này để chứng minh cho quan điểm của
mình về người lãnh đạo. Qua các phân tích trên thì người lãnh đạo
phải là người đàn ông vì người đàn ông là người nắm quyền lực trong
13
gia đình, nô lệ và người phụ nữ chỉ là những công cụ giúp đỡ người
đàn ông mà thôi.
2.1.4. Quan điểm Arixtôt về xung đột chính trị trong các nhà nước
Trong quyển V, Arixtôt bàn về cách mạng và chỉ ra nguyên
nhân của sự thay đổi chế độ. Nguyên nhân tạo ra cách mạng, theo
Arixtôt, là do quan niệm khác nhau của các thành phần dân chúng
khác nhau về công lý và bình đẳng.
Nguyên nhân dẫn đến xung đột cách mạng theo Arixtôt gồm ba
yếu tố: động cơ tâm lý, mục tiêu của tranh chấp, và các điều kiện dẫn
đến tranh chấp.
Động cơ tâm lý chính là những cảm xúc và nhiệt tình đối với sự
bình đẳng. Những kẻ thua thiệt đấu tranh để được bình đẳng với
những người khác; những người thuộc thành phần khá giả đấu tranh
để bảo vệ địa vị xã hội của mình. Mục tiêu tranh chấp của cả hai phe
không gì khác hơn là “danh” và “lợi”. Danh và lợi cũng động cơ và
điều kiện đưa đến tranh chấp. Những nguyên nhân khác còn kể đến là
sự ngạo mạn, sợ hãi, bị đè nén quá đáng, bị khinh rẻ... Ngoài ra, những
sự thay đổi cách mạng còn có thể xảy ra bằng hai cách, bằng bạo lực
hay âm mưu.
Arixtốt tiếp tục phân tích chỉ ra các nguyên nhân đặc thù tạo ra
cách mạng và thay đổi chế độ chính trị, cùng những phương cách bảo
vệ chế độ.
Sau khi phân tích xong những nguyên nhân tạo ra thay đổi cách
mạng, ông còn chỉ ra phương thức để bảo vệ hiến pháp.
Để bảo vệ một chế độ, Arixtốt đề nghị phải giáo dục quần
chúng sao cho người dân sống và hành động theo đúng tinh thần của
hiến pháp tạo dựng ra chế độ. Việc giáo dục công dân không chỉ nhằm
14
giáo dục họ để thi hành những cái hay, cái đẹp của chế độ, mà còn là
giáo dục để họ biết và tránh làm những điều khiến chế độ suy vong.
2.2. QUAN NIỆM CỦA ARIXTÔT VỀ NHÀ NƯỚC TỐT NHẤT
2.2.1. Quan điểm Arixtôt về hạnh phúc với tính cách là mục
đích cao nhất của một nhà nước tốt nhất
Theo Arixtốt, hạnh phúc là mục đích cuối cùng của hành vi con
người. Hạnh phúc cũng là tiêu chuẩn của một chính quyền nhà nước
tốt nhất. Trong Quyển VII của tác phẩm Chính trị luận, Arixtốt đưa ra
quan niệm về hạnh phúc và con đường mưu cầu hạnh phúc trong nhà
nước tốt nhất. Theo Arixtốt, một đời sống tốt đẹp cần có ba yếu tố, đó
là ba cái tốt về vật chất, thể chất và tinh thần.
Arixtôt chỉ ra rằng, một người càng có nhiều hạnh phúc khi đức
hạnh và sự khôn ngoan của anh ta được thể hiện qua hành động càng
nhiều. Qua đó, có thể phân biệt được đâu là vận may, đâu là hạnh
phúc. Tiếp đến, Arixtốt chỉ ra điểm giống nhau trong quan niệm về
hạnh phúc của cá nhân và của quốc gia.
Arixtôt cho rằng có hai loại: đời sống thiên về thực tiễn và đời
sống thiên về tư tưởng. Tuy nhiên, theo ông, khó có thể nói đời sống
nào là tốt hơn.
Cũng theo Arixtôt, hạnh phúc của những nhà chính trị chắc
chắn không phải là chiến tranh và chinh phục. Nhà lập pháp giỏi nên
suy xét xem làm thế nào để cho các nước, các giống dân khác nhau và
những cộng đồng có thể sống một đời sống tốt đẹp, trong đó, hạnh
phúc là điều họ có thể đạt được.
Tóm lại, hạnh phúc theo Arixtốt được xem như là một hoạt
động đức hạnh và một đời sống hoạt động là đời sống tốt nhất cho cả
quốc gia nói chung và cá nhân nói riêng.
2.2.2. Quan điểm Arixtôt mô hình nhà nước tốt nhất
Trong số các mô hình chính quyền được đề cập đến, Arixtôt đặc
biệt chú trọng đến hai chế độ dân chủ và quả đầu. Arixtôt đã đưa ra
15
những lập luận khá sắc bén để giúp chúng ta hiểu lý do tại sao hầu hết
các chính quyền đều hoặc là dân chủ hoặc là quả đầu.
Theo ông, dân chủ là hình thức cai trị mà trong đó những người
tự do cũng là những người nghèo, chiếm số đông là nhà cai trị. Chế độ
quả đầu là hình thức cai trị mà trong đó những người giàu có và cao
quý cai trị nhưng chỉ chiếm một số ít trong đa số; trong đó, các công
việc được giao cho dựa vào thân thế, địa vị.
Arixtôt đã chỉ ra rằng chế độ quý tộc (quả đầu) có ưu điểm khi
tầng lớp cai trị là những người ưu tú, nhưng họ chỉ là một thiểu số.
Còn chế độ dân chủ thì có ưu điểm là sự cai trị của số đông. Tuy
nhiên, số đông cũng có nhược điểm của nó khi họ là những đám người
mà chỉ có sức mạnh thể chất chứ thiếu khôn ngoan nên dễ gây ra điều
nguy hiểm cho đất nước khi cho toàn thể mọi công dân tham gia vào
chính sự.
Từ đó, Arixtôt đưa ra nhận định rằng chẳng khi nào con người
có thể đạt được một nhà nước lý tưởng (như Platon chủ trương),
nhưng con người có thể xây dựng được cho mình một chế độ tốt nhất
có thể được. Đó là một chế độ trung dung, giữa quý tộc (quả đầu) và
dân chủ. Đồng thời, để loại bỏ nguy hiểm khi không cho số đông
người nghèo tham gia chính trị, Arixtôt chủ trương giao cho họ một ít
quyền lập pháp và tư pháp, nhưng không giao cho họ bất cứ chức vụ
nào trong chính quyền.
2.2.3. Quan điểm Arixtôt về vai trò và mối quan hệ giữa
Hiến pháp và Pháp luật trong một nhà nước tốt nhất
Arixtôt là một trong những người đầu tiên chính thức phân biệt
giữa luật thông thường và (luật) hiến pháp được ghi lại trong lịch sử.
Theo ông, hiến pháp quy định cơ cấu tổ chức, sự phân chia
quyền lực của một nhà nước. Ông chỉ ra vai trò to lớn của hiếp pháp,
16
pháp luật trong đời sống chính trị của nhà nước và mối quan hệ giữa
hiến pháp với pháp luật, luật pháp phải phụ thuộc vào hiến pháp chứ
không phải ngược lại.
Arixtôt đi vào liệt kê các mô hình chính quyền khác nhau và
phân tích một cách tỉ mỉ những ưu điểm cũng như nhược điểm của các
chế độ này, nhất là các biến thể của nó như quả đầu, bạo chúa, và dân
chủ. Lý do có nhiều loại chính quyền khác nhau được ông giải thích là
bởi vì trong mỗi nước có nhiều phần tử khác nhau.
Sau khi phân loại những hiến pháp được là tốt và xấu, ông kết
luận rằng, hiến pháp tốt nhất là một hình thức pha trộn giữa những yếu
tố quý tộc và dân chủ.
Hiến pháp được xem là bộ luật căn bản quy định sự phân quyền
và tưởng thưởng trong một quốc gia. Sự thành công của một quốc gia
lệ thuộc vào khả năng phân chia quyền lợi đồng đều trong xã hội.
Quốc gia sẽ đạt được công lý nếu sự tưởng thưởng được chia sẻ và
quyền lực chính trị được sử dụng trên căn bản đóng góp cho sự ích lợi
của xã hội.
Luật pháp của quốc gia phải được đặt căn bản trên các điều lệ
của hiến pháp; các sắc luật vi hiến trở thành vô hiệu lực. Hiến pháp
không chỉ phân định quyền lực chính trị và đưa ra mô hình chính phủ
mà còn phải phản ảnh lối sống của nhân dân. Arixtôt quan niệm rằng
việc thay đổi hiến pháp hiện hành hay bắt buộc công dân chấp nhận
một hiến pháp mới rất khó khăn. Vì thế cho nên các nhà tham chánh
phải cẩn thận và kiên nhẫn vô cùng khi muốn thuyết phục công dân
chấp nhận các ý kiến cải cách hiến pháp.
17
2.2.4. Quan điểm Arixtôt về tầng lớp cai trị và sự phân chia
quyền lực chính trị trong một nhà nước tốt nhất
Theo Arixtôt, một cộng đồng chính trị tốt nhất được tạo nên bởi
những công dân thuộc giai cấp trung lưu, và những quốc gia có nhiều
khả năng được quản trị tốt đẹp là những nước có thành phần trung lưu
đông đảo. Khi giai cấp trung lưu lớn mạnh khó lòng xảy ra bè phái và
chia rẽ.
Ông chỉ ra những tiêu chuẩn mà người nắm chức vụ cao nhất
cần có, đó là: trung thành với cơ cấu chính trị đã được thiết lập với
hiến pháp, có khả năng cao để điều hành chính quyền, có đạo đức cá
nhân và tôn trọng công lý tương hợp với từng loại chính quyền. Tầng
lớp trung lưu được lựa chọn là phù hợp nhất giữa hai chế độ dân chủ
và quả đầu trong quá trình cai trị đất nước.
Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước được thể hiện trong sự
phân tách quyền lực nhà nước thành các loại lập pháp, hành pháp, tư
pháp và được trao cho các cơ quan nhà nước khác nhau thực hiện. Ba
bộ phận này tạo nên cơ sở của mọi nhà nước và sự khác biệt của thể
chế nhà nước quyết định phương thức tổ chức của mỗi bộ phận đó.
Các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp không chỉ độc lập
với nhau khi thực hiện chức năng thẩm quyền mà còn có thể kiềm chế,
ngăn cản hoặc đối trọng với nhau trong hoạt động, không có cơ quan
nào nằm ngoài sự giám sát kiểm tra của cơ quan khác. Ba quyền này
được ông làm rõ trong quá trình bàn về các phương thức thiết lập chế
độ dân chủ và quả đầu.
18
2.2.5. Quan điểm của Arixtôt về giáo dục và dân số trong
nhà nước tốt nhất
a. Về giáo dục
Trong Chính trị luận, Arixtôt dành nguyên chương VIII để bàn
về giáo dục. Đó là một trong những biện pháp của việc tổ chức cộng
đồng với mong muốn xây dựng một nhà nước lý tưởng.
Trong chương trình giáo dục phải bao hàm giáo dục thể chất và
giáo dục lý trí. Bên cạnh đó, ông còn lựa chọn đưa âm nhạc, hội họa
vào chương trình giáo dục trẻ em để tạo nên sựu hoàn thiện cả về thể
chất lẫn tinh thần.
Trong triết lý giáo dục Arixtôt, giáo dục hướng đến sự thư nhàn
chiếm vị trí trung tâm và đó là khâu chủ yếu của việc giáo dục nghệ
thuật làm người bởi theo ông, con người chỉ có được hạnh phúc thực
sự khi có được sự thư nhàn. Do đó, những môn học giúp đạt đến sự
thư nhàn thì có giá trị hơn là những môn học nghề nghiệp.
Về hệ thống giáo dục, Arixtôt hướng tới một nền giáo dục thường
trực, thường xuyên và liên tục, bao trùm và kéo dài suốt đời người.
Trong giáo dục đạo đức, Arixtôt nhấn mạnh vai trò của thực
hành. Bằng tập quán và sự giáo dục tích cực đó, các năng khiếu tự
nhiên của con người sẽ không ngừng được phát triển.
Lý thuyết giáo dục của Arixtôt không mất đi tính thời sự của
nó. Điều mà ông nói về vai trò của giáo dục trong xã hội, về một hệ
thống giáo dục thường xuyên và một nền giáo dục cho hoà bình, về sư
phạm học đã khiến cho những người có trách nhiệm đối với nền giáo
dục hiện thời phải suy ngẫm. Đặc biệt, điều đó rất có ý nghĩa đối với
việc xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục
đang thiếu sự định hướng của tư duy triết học.
- Xem thêm -