VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Bùi Kim Chuyên
Bùi Kim Chuyên
TƯ TƯỞNG BÁC ÁI CỦA CÔNG GIÁO
TRONG TÂN ƯỚC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI – năm 2017
Công trình được hoàn thành tại Học viện Khoa học Xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Đỗ Minh HợpPGS.TS
Đỗ Mi Hợp
Phản biện 1: GS.TS. Đỗ Quang Hưng
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Hùng Hậu
Phản biện 3: PGS.TS. Chu Văn Tuấn
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học
viện họp tại Học viện Khoa học Xã hội vào
hồi……giờ……phút, ngày…..tháng……năm 2017
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
1. Thư viện Học viện Khoa học Xã hội
2. Thư viện Quốc gia
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. Bùi Kim Chuyên (2015), “Tư tưởng bác ái của Công giáo”, Tạp
chí Triết học, số 1(284), 2015, tr.76-83.
2. Bùi Kim Chuyên (2015), “Bái Hỏa giáo và dấu vết trong Kitô giáo
qua sách Tân ước”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11(149), 2015,
tr.77-90.
3. Bùi Kim Chuyên (2016), “Ảnh hưởng của triết học Hy Lạp cổ đại
đến tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước kinh”, Tạp chí
Triết học, số 2(297), 2016, tr.70-77.
4. Bùi Kim Chuyên (2016), “Bác ái của Công giáo trong sách Tân
ước và ý nghĩa thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3(153),
2016, tr.45-64.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài: Thứ nhất, nghiên cứu tư tưởng bác ái
của Công giáo trong Tân ước sẽ cung cấp cái nhìn sâu sắc về quan
niệm sống của người phương Tây để tìm ra những điểm đồng, tạo
điều kiện cho hội nhập văn hóa quốc tế. Thứ hai, tư tưởng bác ái của
Công giáo đang làm nên tinh thần nhân văn ở các nước phát triển
phương Tây cần được nghiên cứu để có thể đưa vào Việt Nam một
cách có chọn lọc, loại bỏ những yếu tố không phù hợp. Thứ ba,
nghiên cứu tư tưởng bác ái sẽ góp phần tìm hiểu đời sống tinh thần
của đồng bào Công giáo, góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
và giúp xử lý tốt hơn các vấn đề nảy sinh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án: Mục đích:
(1) Phân tích các nội dung cơ bản, tìm ra khái niệm tư tưởng Bác ái
trong Tân ước, chỉ ra một số đặc điểm của khái niệm; (2) Làm rõ
những giá trị, hạn chế của tư tưởng này; trình bày việc thực thi tư
tưởng bác ái của tín đồ Công giáo Việt Nam. Nhiệm vụ: (1) Phân tích
các điều kiện và tiền đề ra đời; (2) Phân tích các nội dung cơ bản của
tư tưởng bác ái trong Tân ước; (3) Phân tích những giá trị, hạn chế và
việc thực hiện tư tưởng bác ái của tín đồ Công giáo Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án. Đối tượng: (1)
Nghiên cứu các chủ đề trong tài liệu lịch sử Do Thái, triết học Hy
Lạp – La Mã cổ đại và Bái Hỏa giáo Ba Tư liên quan đến tư tưởng
bác ái trong Tân ước; (2) Nghiên cứu Kinh thánh, đặc biệt là Kinh
thánh Tân ước, các văn bản của Giáo hội Công giáo Rô-ma, Giáo hội
Công giáo Việt Nam từ góc độ bác ái; (3) Nghiên cứu những giá trị
và hạn chế của tư tưởng bác ái. Cùng với đó là sự soi chiếu vào thực
tiễn tín đồ Công giáo Việt Nam thực thi tinh thần bác ái.
2
Phạm vi nghiên cứu: Các sách kinh của Công giáo, các tài liệu, văn
bản chính thức của Giáo hội và các số liệu chính thức của các cơ
quan nhà nước quản lý tôn giáo.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Cơ sở lý
luận của Chủ nghĩa Mác Lê-nin – Tư tưởng Hồ Chí Minh, phương
pháp luận Mác-xít; phép biện chứng duy vật; phân tích và tổng hợp,
quy nạp và diễn dịch, khái quát hóa và văn bản học.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án. Chuẩn xác hóa, sắp
xếp thành hệ thống các nội dung cơ bản và xây dựng khái niệm tư
tưởng bác ái trong Tân ước; nêu bật giá trị và hạn chế của tư tưởng
bái ái trong Tân ước cùng việc hiện thực hóa tư tưởng bác ái của tín
đồ Công giáo Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án. Lý luận: Luận án sẽ
làm rõ về mặt triết học hạt nhân cơ bản của Công giáo, đồng thời chỉ
ra cả giá trị và hạn chế của hạt nhân này. Kết quả nghiên cứu có thể
sử dụng làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu sâu hơn về Công giáo
và đời sống tinh thần của người Công giáo nói chung và đồng bào
Công giáo Việt Nam nói riêng. Thực tiễn: Luận án có thể được dùng
làm tài liệu cho việc giảng dạy, và nghiên cứu Công giáo, đặc biệt
cho những người làm công tác và quản lý tôn giáo.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
TƯ TƯỞNG BÁC ÁI CỦA CÔNG GIÁO TRONG TÂN ƯỚC
1.1. Nhóm tài liệu về điều kiện và tiền đề ra đời tư tưởng bác ái
của Công giáo trong Tân ước
1.1.1. Tài liệu về lịch sử người Do Thái và Do Thái giáo liên
quan đến điều kiện ra đời tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân
ước. Gồm các tài liệu: Đặng Hoàng Sa và nhóm nghiên cứu Do Thái
(2015), Câu chuyện Do Thái, Nhà xuất bản Hồng Đức; Phan Tấn
3
Thành (2013), Về nguồn, nguồn gốc Kitô giáo thời các Tông đồ, Học
viện Đa Minh, T.p Hồ Chí Minh; Hội đồng Giám mục Việt Nam
(2011), Phần dẫn vào Tân ước của Kinh thánh ấn bản 2011 (nhóm
phiên dịch các giờ kinh phụng vụ dịch), Nhà xuất bản Tôn giáo;
Maristella Bottincini và Zvi Eckstein(2011), Số ít được lựa chọn
(Đặng Việt Vinh dịch), Nhà xuất bản Lao động; Long Đan và Đỗ
Văn Bình (2010), Do Thái trí tuệ toàn thư, Nhà xuất bản Thời đại.
1.1.2. Tài liệu về tiền đề ra đời tư tưởng bác ái của Công giáo
trong Tân ước
1.1.2.1. Tiền đề từ Kinh thánh Cựu ước. Sự phát triển, hoàn thiện
của các quan điểm trong Tân ước từ các quan điểm cơ sở trong Cựu
ước là hết sức rõ ràng, lấy tư tưởng bác ái làm cầu nối, nghiên cứu sẽ
chỉ ra sự phát triển này.
1.1.2.2. Tài liệu về tiền đề từ triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại.
Gồm các tài liệu: Phan Văn Tình (2010), Triết học thượng cổ Tây
Phương ảnh hưởng trên Kitô giáo, Nhà xuất bản Phương Đông;
Glenne Perry (2009), Lịch sử Trung Đông (Nguyễn Kim Dân dịch),
Nhà xuất bản Tôn giáo; William F.Lawhead (2010), Hành trình
khám phá thế giới Triết học phương Tây (Phạm Phi Hoành dịch),
Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa; Plato (2008), Plato chuyên khảo
(Lưu Văn Hy, Trí Tri dịch), Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin; Plato
(2014), Đối thoại Socratic 1 (Nguyễn Văn Khoa dịch, chú giải và dẫn
nhập), Nhà xuất bản Tri thức; Forrest E.Brard (2006), Tuyển tập
danh tác triết học (Đỗ Văn Thuấn, Lưu Văn Hy dịch), Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin; Trác Tân Bình (2007), Lý giải tôn giáo (Trần
Nghĩa Phương dịch), Nhà xuất bản Hà Nội; Lý Minh Tuấn (2003),
Kinh thánh Công giáo và Đức Kitô cái nhìn từ phương Đông, Nhà
xuất bản Tôn giáo.
4
1.1.2.3. Tài liệu về tiền đề từ Bái Hỏa giáo Ba Tư. Gồm các tài
liệu: Lewis M.Hopfe và Mark R.Woodward (2011), Các tôn giáo
trên thế giới (Phạm Văn Liễn dịch), Nhà xuất bản Thời đại; Mary
Boyce (1979), Zoroastrians: Their Religious Beliefs and Practices,
Routledge and Kegan Paul Ltd, Britain; Geoffrey Wigoder (2013),
Từ điển Kinh thánh Anh – Việt (Lưu Văn Hy, Đỗ Đức Minh,
Nguyễn Thanh Sơn dịch), Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.
1.2. Nhóm tài liệu về nội dung tư tưởng bác ái của Công giáo
trong Tân ước
1.2.1. Tài liệu về khái niệm bác ái và các quan điểm cơ bản của
Công giáo liên quan trực tiếp đến tư tưởng bác ái trong Tân ước.
Gồm các tài liệu: Học viện Đa minh (2014), Từ điển Thuật ngữ Thần
học Anh – Việt, Nhà xuất bản Tôn giáo; Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam và Encyclopaedia Britainnica (2014), Từ điển Bách khoa
Britainnica, tập 2; Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam; Encyclopaedia
Britainnica (1972), Vol 1, William Benton Publisher, Chicago, USA;
Hội đồng Giám mục Việt Nam (2011), Kinh thánh ấn bản 2011
(nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ dịch, Nhà xuất bản Tôn
giáo; Hebraic Roots Bible with Study notes, 3rd Edition, (2015),
Word of Truth Publications, Jerusalem, Israel; Hội đồng Giám mục
Việt Nam (2012), Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo, Nhà xuất
bản Tôn giáo.
1.2.2. Tài liệu về nội dung và đặc điểm rút ra từ tư tưởng bác ái
của Công giáo trong Tân ước. Gồm các tài liệu: William Barclay
(2008), Thư gửi các ông Timôthê, Titô, Philêmon (Nhóm phiên dịch
các giờ kinh phụng vụ dịch), Nhà xuất bản Tôn giáo; William
Barclay (2008), Tin Mừng theo Thánh Máccô (Nhóm phiên dịch các
giờ kinh phụng vụ dịch), Nhà xuất bản Tôn giáo; William Barclay
(2008), Tin Mừng theo Thánh Mácthêu I (Nhóm phiên dịch các giờ
5
kinh phụng vụ dịch), Nhà xuất bản Tôn giáo; William Barclay
(2008), Tin Mừng theo Thánh Mácthêu II (Nhóm phiên dịch các giờ
kinh phụng vụ dịch), Nhà xuất bản Tôn giáo; William Mac Donald
(2012), Chú giải Kinh thánh Tân ước, Nhà xuất bản HarperCollins
Christian Publishing Nashville, Tennessee, Mỹ; Hugues Cousin
(1993), Tin Mừng Thánh Luca, chú giải mục vụ (bản dịch tay của
GHCG Việt Nam); Jacques Hervieus (1991), Tin Mừng Thánh
Marco, chú giải mục vụ (bản dịch tay của GHCG Việt Nam); Claude
Tassim (1991), Tin Mừng Thánh Mathêu, chú giải mục vụ (bản dịch
tay của GHCG Việt Nam); Alain Marchadour (1992), Tin Mừng
Thánh Gioan, chú giải mục vụ (bản dịch tay của GHCG Việt Nam).
1.3. Nhóm tài liệu về giá trị và hạn chế, sự tương đồng giữa tư
tưởng bác ái trong Tân ước với văn hóa truyền thống và thực
hiện tư tưởng bác ái của tín đồng Công giáo Việt Nam hiện nay
1.3.1. Tài liệu về giá trị, hạn chế của tư tưởng bác ái của Công
giáo trong Tân ước. Gồm các tài liệu: George Wilhelm Friedrich
Hegel (2012), Hiện tượng học tinh thần, tập 1 và 2 (Bùi Văn Nam
Sơn dịch), Nhà xuất bản Trẻ; Nikolai Alexandrovich Berdyaev
(2016), Triết học của tự do (Đỗ Minh Hợp dịch), Nhà xuất bản Tri
thức; Nikolai Alexandrovich Berdyaev (2015), Con người trong thế
giới tinh thần, trải nghiệm triết học cá biệt luận (Nguyễn Văn Trọng
dịch), Nhà xuất bản Tri thức; Lev Tolstoi (2012), Đường sống, văn
thư nghị luận chọn lọc (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nhà xuất bản Tri thức;
Mortimer Chamber và các cộng sự (2004), Lịch sử văn minh Phương
Tây (Lưu Văn Hy và nhóm Trí Tri dịch), Nhà xuất bản Văn hóa
Thông tin; Mark Kishlansky, Partrick Geavy, Patricia O’Brien
(2004), Nền tảng văn minh Phương Tây (Lê Thành dịch), Nhà xuất
bản Văn hóa Thông tin; Albert Einsten (2015), Thế giới như tôi thấy
(Đinh Bá Anh, Nguyễn Vũ Hảo và nhóm dịch thuật), Nhà xuất bản
6
Tri thức; Sigmumd Freud (2016), Cái Tôi và cái Nó (Thân Thị Mận
dịch), Nhà xuất bản tri thức.
1.3.2. Tài liệu về sự tương đồng giữa tư tưởng bác ái của Công
giáo trong Tân ước với văn hóa Việt Nam truyền thống và việc
thực hiện tư tưởng bác ái của tín đồng Công giáo Việt Nam hiện
nay. Gồm các tài liệu: Leopold Cadiere (2015), Văn hóa, tín ngưỡng
và thực hành tôn giáo người Việt – Toàn tập (Đỗ Trinh Huệ dịch),
Nhà xuất bản Thuận hóa; Bùi Đức Sinh (1999), Lịch sử Giáo hội
Công giáo, quyển 1 và 2, Nhà Xuất bản Chân lý Calgary, Ca-na-đa;
Trương Bá Cần (2008), Lịch sử Phát triển Công giáo ở Việt Nam, tập
1 và 2, Nhà Xuất bản Tôn giáo. Quan điểm và tình cảm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh dành cho tư tưởng bác ái được chép lại chính xác trong
Hồ Chí Minh toàn tập. Nghiên cứu sẽ tìm và tham khảo quan điểm
nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các tập 4, 5, 6, 7, 8, 10
trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật (2011). Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng sẽ sử dụng số liệu tổng
kết về công tác tôn giáo của cơ quan chức năng năm 2015 làm luận
cứ cho các luận điểm về việc tín đồ Công giáo Việt Nam thực hiện tư
tưởng bác ái.
Tiểu kết: (1) Quan điểm của các nhà khoa học, các nhà tư tưởng
lớn viết ra trên đây không nhằm nghiên cứu về điều kiện, tiền đề ra
đời và nội dung của tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước.
Tuy nhiên, các quan điểm này sẽ được sử dụng làm cơ sở cho việc
nghiên cứu về điều kiện, tiền đề ra đời và nội dung của tư tưởng bác
ái của Công giáo trong Tân ước, trên cơ sở tự nghiên cứu tìm tòi, bổ
sung để chứng minh cho các luận điểm đã có ở một góc mới hơn so
với xuất phát nguyên bản. (2) Luận điểm về giá trị và hạn chế của tư
tưởng bác ái được lựa chọn và kế thừa, phát triển từ quan điểm của
các nhà khoa học, nhà tư tưởng như Hegel, Lev Tolstoy, Berdyaev,
7
Albert Einstein, K. Marx; luận cứ được lấy từ các ghi chép trong lịch
sử Giáo hội. (3) Các nghiên cứu về lịch sử Công giáo và tôn giáo, tín
ngưỡng Việt Nam đã cung cấp cứ liệu để tìm ra sự tương đồng của tư
tưởng bác ái với văn hóa Việt Nam. Dữ liệu về Công giáo Việt Nam
thực hiện tư tưởng bác ái được lấy từ số liệu của cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo.
Chương 2
ĐIỀU KIỆN VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG BÁC ÁI
CỦA CÔNG GIÁO TRONG TÂN ƯỚC
2.1. Điều kiện chính trị, xã hội và tôn giáo cho sự ra đời tư
tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước
2.1.1. Chính trị xáo trộn, ba lần mất nước của người Do Thái.
Lần thứ nhất, mất tổ quốc. Năm 721 TCN, Đế quốc Assyria tiêu diệt
Vương quốc Israel. Lần thứ hai, bị xâm lăng về văn hóa, diễn ra khi
đế quốc Hy Lạp xâm chiếm toàn bộ khu vực Trung Đông. Lần thứ
ba, nỗ lực phục quốc thất bại, bắt đầu sống trong khổ nạn. Dưới sự
lãnh đạo của gia tộc Maccabi, người Do Thái đã khởi nghĩa và khôi
phục độc lập, tuy nhiên sau đó lại bị Đế quốc La Mã dập tắt, người
Do Thái bắt đầu thời kỳ dài mất tổ quốc, ly tán, sống trong khổ nạn.
2.1.2. Xã hội Do Thái bị phân chia ra nhiều giai tầng khác nhau.
Giới tư tế, đứng đầu là thượng tế, cũng là thủ lĩnh của người Do
Thái. Giới kinh sư, là những chuyên gia thông thạo chuyên môn về
Kinh thánh. Giới kỳ mục, gồm các bậc trưởng lão, các phú ông, các
chủ đất, có ghế trong Thượng Hội đồng Do Thái, nhưng ảnh hưởng
không lớn. Dân chúng, là thành phần đông đảo nhất, nghèo khó
chiếm đa số.
2.1.3. Tôn giáo bị chia rẽ thành nhiều nhóm khác nhau. Nhóm
Saduce, gồm các giáo sỹ cấp cao, phần lớn là các tư tế tại Jerusalem
và nhiều kỳ mục. Nhóm Pharisee, đa số là dân thường. Nhóm
8
Essenes, là nhóm được tổ chức rất chặt chẽ và có trật tự thứ bậc,
sống trong sạch, chuyên tâm học tập Kinh thánh và cầu nguyện.
Nhóm Samari, là nhóm người gốc Do Thái, nhưng sau cuộc lưu đày,
nhóm này bị pha trộn nhiều yếu tố dân ngoại. Tóm lại: (1) Sự suy
thoái và sụp đổ của Vương quốc Do Thái cổ đại, đền thờ bị tàn phá,
giới tư tế mất vai trò đã mở đường cho các nhà hiền triết, học giả tôn
giáo lớn mạnh trong vai trò là chỗ dựa tinh thần cho cộng đồng Do
Thái. (2) Trong khổ nạn đã hình thành quan điểm dung hợp, bác ái –
yêu thương con người trong lòng người Do Thái. (3) Sự đô hộ và áp
đặt văn hóa của người Hy Lạp và người Ba Tư lên người Do Thái đã
tạo điều kiện cho người Do Thái tiếp thu có chọn lọc và phát triển
tinh hoa triết học Hy Lạp, tôn giáo Ba Tư để củng cố, bảo vệ tôn giáo
của dân tộc mình và hình thành tôn giáo thế giới.
2.2. Các tiền đề tư tưởng cho sự ra đời tư tưởng bác ái của
Công giáo trong Tân ước
2.2.1. Tiền đề từ Kinh thánh Cựu ước
2.2.1.1 Quan điểm về Thiên Chúa trong Cựu ước và sự kế thừa
phát triển lên cao hơn trong Tân ước. (i) Quan điểm về Thiên Chúa
của Cựu ước đã được kế thừa để trở thành Chúa Cha và là Đấng gửi
Thần khí (tức là Chúa Thánh thần) xuống cho Chúa Jesus và Hội
thánh. (ii) Quan điểm Thiên Chúa là cội nguồn bác ái được kế thừa
và phát triển cao hơn thành bản tính yêu thương của Chúa Jesus.
2.2.1.2. Quan điểm về con người trong Cựu ước và sự kế thừa phát
triển trong Tân ước. Phát triển quan điểm về con người trong Cựu
ước, con người trong Tân ước gồm có phần linh hồn thiêng liêng,
phần tâm hồn cảm xúc và phần xác thịt bụi đất.
2.2.1.3. Luật Mười điều răn và sự phát triển thành “kính Chúa, yêu
người” là hạt nhân của tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân
ước. Luật Mười điều răn trong Cựu ước được Chúa Jesus kiện toàn
9
và nâng cao lên thành kính Chúa, yêu người. Bác ái trong Tân ước đã
loại bỏ một số yếu tố của Cựu ước: (i) Bỏ tính thế tục, đề cao tính
thánh thiện. (ii) Phá bỏ phạm vi áp dụng hẹp trong cộng đồng Do
Thái, mở ra mọi dân tộc. (iii) Giới hạn được đào sâu, bác ái trong
Cựu ước là cấm cản, đáp trả kẻ ác, còn bác ái trong Tân ước là yêu
thương kẻ thù.
2.2.2. Tiền đề từ triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại
Thứ nhất, các quan điểm của triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại đã
được kế thừa có lựa chọn để góp phần tạo nên quan điểm về Thiên
Chúa Ba ngôi. Tuy nhiên, để xây dựng quan điểm về Thiên Chúa Ba
ngôi, các nhà tư tưởng Công giáo đã lồng vào đó quan điểm về một
Thiên Chúa siêu vượt, có nhân cách và yêu thương con người vô tư,
vô bờ bến, Thiên Chúa là cội nguồn bác ái.
Thứ hai, các quan điểm của triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại là tiền
đề góp phần cho sự hình thành quan điểm về con người, chủ thể của
bác ái trong Tân ước. Kế thừa quan điểm của các triết gia Hy Lạp –
La Mã cổ đại, quan điểm về con người trong Tân ước có đầy đủ phần
hữu hình và siêu hình, trong đó phần siêu hình có tính thiêng liêng và
bất tử so với phần xác, sẽ được về bên Thiên Chúa sau cái chết thể lý
nếu sống bác ái, yêu thương tha nhân.
2.2.3. Tiền đề từ Bái Hỏa giáo Ba Tư
2.2.1.1 Các quan điểm cơ bản của Bái Hỏa giáo. (i) quan điểm về
Thượng Đế; (ii) quan điểm về cái Ác; (iii) quan điểm về con người;
(iv) quan điểm về sự Phán xét, Thiên đàng và Địa ngục; (v) quan
điểm về ngày Tận thế và Trời mới Đất mới; (vi) quan điểm về đạo
đức trong sạch toàn diện.
2.2.1.2 Tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước kế thừa một
số quan điểm của Bái Hỏa giáo. (i) Kế thừa quan niệm có ngày tận
thế, sự phán xét và cuộc sống đời sau, nhưng lấy bác ái làm hạt nhân.
10
(i) Kế thừa quan điểm về cái ác, nhưng là sự tương phản của bác ái.
(iii) Kế thừa và phát triển quan điểm đạo đức trong sạch toàn diện
thành mối quan hệ bác ái máu thịt, anh em trong Chúa.
Tiểu kết chương 2: (1) Tư tưởng bác ái trong Tân ước ra đời trong
điều kiện Vương quốc Do Thái cổ đại bị xóa sổ. (2) Tư tưởng bác ái
trong Tân ước kế thừa và phát triển tưởng bác ái trong Cựu ước,
nhưng loại bỏ những yếu tố không hợp lý. (3) Tinh hoa triết học Hy
Lạp – La Mã cổ đại được kế thừa góp phần hình thành nên cội nguồn
và chủ thể bác ái. (4) Người Do Thái tiếp thu có chọn lọc và phát
triển tinh hoa Bái Hỏa giáo góp phần hình thành tư tưởng bác ái.
Chương 3
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG BÁC ÁI CỦA CÔNG
GIÁO TRONG TÂN ƯỚC
3.1. Khái niệm bác ái và các quan điểm cơ bản của Công giáo
liên quan đến tư tưởng bác ái trong Tân ước
3.1.1. Khái niệm Agape (Bác ái) trong Bách khoa thư
Encyclopaedia Britannica bản Anh – Mỹ. Bác ái là “tình yêu” của
con người giành cho Thiên Chúa và cho tha nhân (hoặc những người
anh em) trong hành động của những người công nhận quyền năng
của Thiên Chúa.
3.1.2. Các quan điểm cơ bản của Công giáo liên quan trực tiếp
đến tư tưởng bác ái trong Tân ước
3.1.2.1. Quan điểm về Thiên Chúa Ba ngôi, cội nguồn bác ái.
Thiên Chúa là bản thể duy nhất, có Ba Ngôi là Chúa Cha và Con và
Thánh Thần, nhưng Ba Ngôi không tách biệt nhau, mà có chung một
bản thể và Thiên Chúa là cội nguồn của bác ái.
3.1.2.2. Quan điểm về con người, chủ thể của bác ái trong Tân
ước. Con người do Thiên Chúa tạo ra, gồm cả phần thân xác (bị biến
đổi và phải chết), tâm hồn (quy định tính hữu lý, phân biệt người với
11
người) và linh hồn (phần thiêng liêng và kết nối với Thiên Chúa).
Con người tìm đến nhau bằng bác ái để có sự sống thiêng liêng.
3.1.2.3. Quan điểm về Tội lỗi và sự Chết trong đời sống con người.
Tội Tổ tông, do bị ma quỷ cám dỗ mà con người quên đi thân phận
thụ tạo, lạm dụng tự do, không tuân theo Thiên Chúa. Tội Tổ tông
còn nhiễm lên con người cho đến ngày nay, đó là tình trạng chứ
không phải là hành vi. Quan điểm về Sự chết, là sự kết thúc cuộc
sống trần thế, khi phần hồn (linh hồn và tâm hồn) bị tách ra khỏi thân
xác. Chết để đi đến sự sống đời đời giành cho những ai sống bác ái;
chết để đi đến Hoả ngục cho những kẻ làm ngược lại. Tội lỗi và sự
chết trong mối liên hệ với bác ái, tội lỗi là nguyên nhân của sự chết
trong Hỏa ngục, còn bác ái là nguyên nhân của sự sống đời đời.
3.1.2.4. Quan điểm về sự phán xét của Thiên Chúa dành cho từng
người lấy bác ái làm thước đo. Sự phán xét, sau khi chết, phần hồn
sẽ chịu sự phán xét để được thưởng hoặc bị trừng phạt do cuộc sống
trần thế. Thiên Đàng là một trạng thái, là tình trạng phần hồn tốt đẹp
được ở bên Thiên Chúa. Luyện ngục là một trạng thái, là nơi phần
hồn cần được cầu nguyện, thanh tẩy cho sạch trước khi vào Thiên
đàng. Hỏa ngục là trạng thái người ta tự loại trừ chính mình một
cách vĩnh viễn ra khỏi Thiên Chúa và với tha nhân. Sự phán xét,
Thiên đàng và Hỏa ngục trong quan hệ với bác ái. Bác ái là thước
đo, là tiêu chuẩn cho sự phán xét đối với từng người. Sự phán xét
cũng là điểm rẽ đôi giữa cái thiện và cái ác. Thiên đàng và Hỏa ngục
là cùng đích của hoặc bác ái, hoặc cái ác.
3.2. Những nội dung cơ bản của tình yêu dành cho Thiên Chúa
và tình yêu dành cho tha nhân của con người trong Tân ước
3.3.1. Tình yêu con người dành cho Thiên Chúa, chiều cạnh đối
thần của tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước, cũng là đòi
hỏi chính đáng về luân lý. Tình yêu dành cho Thiên Chúa bao gồm:
12
(1) Tin vào Thiên Chúa, bởi Thiên Chúa đã tạo ra vũ trụ vạn vật, tạo
ra con người và trao vũ trụ vạn vật vào tay con người, nhưng cũng là
nhu cầu trong lấp đầy linh hồn trong mỗi người. (2) Hy vọng, trông
cậy vào Thiên Chúa là sự mong chờ đầy tin tưởng vào sự ân sủng, lời
chúc lành của Thiên Chúa, vinh quang khi đến bên Thiên Chúa. (3)
Kính mến Thiên Chúa, là yêu mến Thiên Chúa và mọi thụ tạo nhờ
Thiên Chúa và vì Thiên Chúa mà hiện diện trên thế gian này.
3.2.2. Tình yêu con người dành cho tha nhân, chiều cạnh đối
nhân của tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước
3.3.2.1. Vâng lời Thiên Chúa trong thờ kính cha mẹ và tổ tiên. Sau
Thiên Chúa, người ta phải tôn kính cha mẹ vì họ là những người lưu
truyền sự sống cho chúng ta và nuôi dạy ta khôn lớn. Đây cũng là
điều răn duy nhất có kèm theo phần thưởng. Điều răn này cũng đòi
buộc cha mẹ và những người trên phải có trách nhiệm nuôi nấng, răn
dạy con cái để giới răn này liên tục được nối dài.
3.3.2.2. Cấm xâm phạm mạng sống của người khác, tôn trọng đặc
biệt sự sống của con người, không có bất cứ ai, trong bất cứ hoàn
cảnh nào có thể giành cho mình quyền xâm phạm sự sống hay trực
tiếp mang lại cái chết cho một người vô tội. Giới răn này còn được
xem là luật của Thượng Đế, là thứ luật cao trọng hơn bất cứ thứ luật
nào có trên thế gian này và việc tước đi mạng sống của một người vô
tội là xâm phạm trầm trọng phẩm giá con người, và bản tính nhân
hậu tối cao của Thương Đế. Tuy nhiên, tôn trọng đặc biệt sự sống
con người cũng bao gồm cả việc tự vệ hợp pháp.
3.3.2.3. Cấm ngoại tình, giữ gìn đặc biệt cuộc sống hạnh phúc lứa
đôi, hôn nhân gia đình là sự phản ánh quyền năng, lòng thương xót,
và sự tác hợp của Thiên Chúa loài người không được phân ly hay
làm hư hại. Con người phải sống có đôi có lứa là ý muốn của Thiên
Chúa ngay từ thủa Sáng thế. Để giữ gìn hạnh phúc lứa đôi con người
13
cần sống khiết tịnh, thủy chung vợ chồng; giữ gìn Bí tích hôn phối,
sống yêu thương nhau trọn đời; con cái là món quà tặng tuyệt vời mà
Thiên Chúa giành cho đôi vợ chồng, tuy nhiên vô sinh cũng không
phải là điều tuyệt đối xấu, vợ chồng có thể nhận con nuôi nếu mọi sự
trợ giúp đều không có tác dụng.
3.3.2.4. Tôn trọng quyền sở hữu của cải của người khác, cấm ăn
trộm, ăn cắp. Thiên Chúa trao trái đất và vũ trụ vào tay con người và
mỗi người đều có quyền và nghĩa vụ tác động vào công trình sáng
tạo của Chúa để lấy ra của cải phục vụ cuộc sống của mình và giúp
đỡ người yếu thế hơn. Do đó, của cải người ta có được là do tham gia
vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, lấy đi trái phép là làm trái ý
Chúa. Tuy nhiên, quyền chung hưởng cũng được Thiên Chúa thiết
lập nhằm bảo vệ những người yếu thế hơn, những người nắm giữ
nhiều của cải có trách nhiệm chia sẻ với những người đói lạnh. Do
vậy, tôn trọng quyền sở hữu của cải cũng bao gồm cả việc, tôn trọng
quyền chung hưởng; đức yêu thương người nghèo và không sử dụng
phung phí của cải.
3.3.2.5. Không gian dối, tôn trọng chân lý trong quan hệ với người
khác, chân lý là lẽ thật vốn có một cách khách quan. Người ta phải
nhìn nhận nó, không phụ thuộc vào sở thích hay ý muốn cá nhân,
làm sai lệch chân lý là xâm phạm giao ước với Thiên Chúa. Thiên
Chúa là ngọn nguồn là chân lý, tôn trọng sự thật, sống trung thực
không dối trá là làm theo ý Chúa. Sống trong chân lý là việc sống
đúng với thiên tính chân thật của con người, cũng là nhân đức tỏ ra ở
con người bằng hành động, lời nói thành thật, chân thành trong quan
hệ với người khác. Bảo vệ chân lý, là việc lên án và chống lại các
hành vi nói dối, thề gian và làm sai lệch sự thật.
3.3.2.6. Kiềm chế dục vọng, ham muốn xác thịt trái luân lý. Dục
vọng là ham muốn của giác quan đi ngược lại với lý trí, cũng là sự
14
nổi loạn của thân xác chống lại lý trí. Không kìm giữ được ham
muốn, dục vọng là nguồn cơn của những hành động xấu với những
người xung quanh. Để có được tâm hồn trong sạch con người cần
sống khiết tịnh và chuẩn mực, giữ gìn sự chuẩn mực trong các mối
quan hệ phù hợp với phẩm giá của cả người nam và nữ. Người ta cần
có cái nhìn trong sạch từ tâm hồn tới ánh mắt, từ suy nghĩ tới hành
động, kìm hãm cảm giác xác thịt, khước từ thú vui không trong sạch.
3.2.2.7. Không tham lam, triệt tiêu từ ngay trong tâm hồn ham
muốn của cải của người khác. Ham muốn của cải của người khác là
nguyên nhân của các hành động bạo lực và bất công. Do vậy, người
ta cần triệt tiêu ngay từ trong tâm hồn sự tham lam, ước mong có của
cải một cách vô độ và ham muốn của cải của người khác một cách
bất chính. Thêm vào đó, loại trừ ham muốn của cải bất chính còn đòi
hỏi người ta phải loại bỏ sự ghen tị ra khỏi con người bởi đó là đầu
mối của tội lỗi, tuân thủ lề luật, giữ cho được tâm hồn thanh sạch khi
đối diện với của cải, vật chất để biết lấy và giữ những thứ thuộc về
mình, biết trao về người những thứ thuộc về họ.
Khái niệm tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước có thể
được trình bày như sau: “Tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân
ước là bộ luật luân lý, trong đó quy định những chuẩn tắc trong
việc thiết lập mối quan hệ và ứng xử giữa con người với Thiên
Chúa và giữa con người với con người do Chúa Jesus truyền
giảng và được các tông đồ làm rõ trong các sách Tân ước”.
3.3. Một số đặc điểm rút ra từ khái niệm tư tưởng bác ái của
Công giáo trong Tân ước
3.3.1. Tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước đã khu biệt
rạch ròi giữa cái thiện và cái ác theo cách nhìn của Công giáo. Tư
tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước đã phân định rạch ròi thế
nào là thiện (kính Chúa, yêu người) và ngược lại là ác.
15
3.3.2. Bên cạnh biện thần luận, tư tưởng bác ái trong Tân ước
đưa con người vào vị trí quan trọng trong triết học Công giáo và
hướng cuộc sống con người về phía nhân văn. Cũng như mọi tôn
giáo khác, không thể thiếu đức tin trong tôn giáo. Tuy nhiên, tính
hiện hữu của tư tưởng bác ái được thể hiện ra ở lời nói, việc làm, ứng
xử … mang tinh thần yêu người. Thiên đàng chỉ có thể biết được sau
khi đã chết thể lý, còn trong cuộc sống hiện thực, người ta sẽ sống có
niềm tin, sống thân ái, tôn trọng, vị tha và mở lòng với tha nhân, đó
cũng chính là lối sống hướng về phía nhân văn.
3.3.3. Tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước có câu trả
lời theo cách riêng các câu hỏi lớn và day dứt nhất trong cuộc đời
con người. Tôi từ đâu đến ? Con người là thụ tạo của Thiên Chúa;
con người là cao quý nhất do mang trong mình hơi thở của Thiên
Chúa và mỗi người là một hình ảnh của Thiên Chúa. Tôi sẽ đi về
đâu ? Sau khi sau khi chết thể lý, con người vẫn còn cuộc sống
thiêng liêng, phần hồn của con người sẽ được về bên Thiên Chúa nơi
Thiên đàng nếu sống bác ái và ngược lại là xuống Hỏa ngục. Tôi
phải làm gì ? Chính là sống kính Chúa, yêu người.
3.3.4 Tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước tạo ra sự
nghịch lý trong nhận thức của con người về Thượng Đế và cả
trong nhận thức về chính con người về giữ và trao; sức mạnh và
chiến thắng. Nếu lúc trước uy vũ và sức mạnh khiến Thượng Đế là
người chiến thắng, duy trì địa vị của mình, thì trong Tân ước, sự trao
hiến và hạ thấp bản thân đến tận cùng để phục vụ con người đã khiến
Chúa Jesus trở thành người chiến thắng và là Đấng toàn năng. Mọi
tích cực của cuộc sống con người không đến từ sự quy ngã, bo bo
giữ mọi thứ cho bản thân mình, nhưng lại đến từ lối sống hướng tha,
trao ban, hiến dâng bản thân cho mọi người.
16
Tiểu kết chương 3: (1) Khái niệm bác ái đã được Bách khoa thư
Encylopaedia Britanninca làm rõ, là cơ sở cho việc tiếp cận nghiên
cứu tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước. (2) Nhờ kế thừa và
phát triển theo cách riêng, Công giáo có hệ thống quan điểm khá
hoàn bị liên quan trực tiếp đến tư tưởng bác ái. (3) Tư tưởng bác ái
của Công giáo trong Tân ước là tập hợp những chuẩn tắc đạo đức
trong việc thiết lập quan hệ và quy tắc ứng xử tốt đẹp giữa con người
với Thiên Chúa và giữa con người với con người. (4) Tư tưởng bác
ái của Công giáo trong Tân ước đã khu biệt rạch ròi giữa thiện và ác;
con người có vị trí quan trọng trong triết học Công giáo và trả lời
theo cách riêng các câu hỏi quan trọng bậc nhất trong cuộc sống con
người; xác lập các chuẩn mực để thấy rõ thế nào là thiện, hoặc ác và
tạo ra ra sự nghịch lý trong nhận thức của con người về Thượng Đế
và cả trong nhận thức về chính con người về giữ và trao; sức mạnh
và chiến thắng.
Chương 4
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ, SỰ TƯƠNG ĐỒNG VỚI VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG VÀ THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG BÁC ÁI CỦA
TÍN ĐỒ CÔNG GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Giá trị của tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước
4.1.1. Tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước mở ra cho
con người cách khơi dậy bản diện cá nhân tốt đẹp của mình,
hướng tới sự tự do về tinh thần
4.1.1.1. Con người và bản diện cá nhân. Bản diện cá nhân là hình
tượng toàn vẹn của con người, khởi nguyên từ linh hồn, bao gồm tất
cả sức mạnh linh hồn, tâm hồn và thể xác. Bản diện cá nhân gắn liền
với bác ái và bác ái là phương cách để thể hiện bản diện cá nhân.
4.1.1.2. Tình trạng nô lệ, ông chủ và tự do trong tinh thần của con
người. Ông chủ là ý thức hiện hữu cho bản thân mình, nhưng là ý
17
thức sự hiện hữu của bản thân mình thông qua kẻ khác, tức là kẻ nô
lệ. Nô lệ là ý thức về sự hiện hữu của mình cho kẻ khác, nô lệ hiện
hữu mình cho ông chủ. Tự do là việc ý thức hiện hữu tự mình, cho
mình mà không thông qua bất cứ trung gian nào và được thừa nhận
bởi một bản diện cá nhân khác.
4.1.1.3. Bác ái khơi dậy bản diện cá nhân tốt đẹp, hướng tới sự tự
do về tinh thần cho con người. (i) Tin và yêu mến Thiên Chúa giải
phóng con người khỏi việc tự làm nô lệ cho những thứ do con người
tạo ra. (ii) Thờ kính cha mẹ và tổ tiên tạo nên bước đi thực tế đầu
tiên cho con người bước ra xã hội. (iii) Tôn trọng đặc biệt sự sống
con người giải phóng người ta khỏi tội lỗi, trong đó có tội xâm phạm
sự sống. (iv) Tôn trọng quyền sở hữu của cải của người khác giải
phóng con người khỏi sự cám dỗ vật chất. (v) Tôn trọng chân lý
trong quan hệ với người khác giải phóng người ta khỏi sự dối trá.
4.1.2. Tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước mở ra việc
chống lại cái ác bằng cái thiện
4.1.2.1. Việc sử dụng cái ác để chống lại cái ác trước khi tư tưởng
bác ái của Công giáo trong Tân ước ra đời, phương cách dùng cái ác
chống lại cái ác được người ta sử dụng trong thời gian dài, dù có
những điểm mạnh, nhưng lại làm cho cái ác cứ tiếp tục nối dài.
4.1.2.2. Tư tưởng bác ái của Công giáo trong Tân ước tạo ra ngã
rẽ cho việc chống lại cái ác bằng cái thiện. (i) Việc chống lại cái ác
bằng bác ái bắt đầu từ sự suy tư sâu sắc và tin tưởng vào chiến thắng
của cái thiện. (ii) Dùng bác ái chống lại cái ác là để được tha thứ cho
sự thiếu vẹn toàn do nhiễm nguyên tội. (iii) Dùng bác ái để chống lại
cái ác cần nhiều hơn sự nhẫn nại, tha thứ và vượt qua chính mình.
4.1.3. Tư tưởng bác ái trong Tân ước đánh dấu bước chuyển
biến quan trọng của tôn giáo sợ hãi thời sơ kỳ, làm xuất hiện tôn
giáo luân lý ở khu vực Trung Đông
- Xem thêm -