Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Từ ngữ chỉ người trong tiếng tày nùng (có so sánh với tiếng việt)...

Tài liệu Từ ngữ chỉ người trong tiếng tày nùng (có so sánh với tiếng việt)

.PDF
103
327
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THỊ THU HẰNG TỪ NGỮ CHỈ NGƯỜI TRONG TIẾNG TÀY NÙNG (CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT) LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ THÁI NGUYÊN, NĂM 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THỊ THU HẰNG TỪ NGỮ CHỈ NGƯỜI TRONG TIẾNG TÀY NÙNG (CÓ SO SÁNH VỚI TIẾNG VIỆT) Chuyên ngành: Ngôn ngữ Mã số: 60.22.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐOÀN VĂN PHÚC THÁI NGUYÊN, 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Tác giả xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới: Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Trung tâm Thông tin Thư viện và các Thày, Cô trong khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên; các Thày, Cô trong Viện Ngôn ngữ đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn của mình. Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thày hướng dẫn PGS.TS. Đoàn Văn Phúc đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tác giả rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này. Tác giả cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn tới toàn thể gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã quan tâm giúp đỡ, động viên tác giả trong suốt quá trình học tập. Thái Nguyên, tháng 9 năm 2010 Tác giả Trần Thị Thu Hằng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng có ai công bố trong bất kì một công trình nào khác. Tác giả Trần Thị Thu Hằng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU..................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Một số khái niệm cơ bản về hình vị, từ, ngữ, nghĩa………………….. 7 1.1.1. Khái niệm về hình vị……………………………………………….. 7 1.1.2. Khái niệm về từ…………………………………………………….. 10 1.1.3. Khái niệm ngữ……………………………………………………… 11 1.1.4. Nghĩa……………………………………………………………….. 12 1.2. Vấn đề định danh và từ ngữ chỉ người……………………………….. 14 1.2.1. Định danh…………………………………………………………... 14 1.2.2. Khái niệm từ, ngữ chỉ người……………………………………….. 17 1.3. Người Tày Nùng……………………………………………………... 20 1.4. Tiếng Tày Nùng……………………………………………………… 20 1.4.1. Vấn đề các phương ngữ Tày Nùng………………………………… 20 1.4.2. Vài nét về tiếng Tày Nùng ở Việt Nam……………………………. 23 1.5. Mối quan hệ ngôn ngữ và văn hóa…………………………………… 33 1.6. Tiểu kết……………………………………………………………….. 38 Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA TỪ NGỮ CHỈ NGƢỜI TRONG TIẾNG TÀY NÙNG 2.1. Dẫn nhập……………………………………………………………... 39 2.2. Đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa từ chỉ người………………………... 40 2.2.1. Phân loại từ chỉ người trong tiếng Tày Nùng………………………. 40 2.2.2. Đặc điểm cấu trúc từ chỉ người…………………………………….. 45 2.2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa từ chỉ người…………………………………... 50 2.3. Đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa ngữ chỉ người…………………….... 54 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.3.1. Đặc điểm chung của ngữ chỉ người………………………………… 54 2.3.2. Phân loại ngữ chỉ người…………………………………....………. 55 2.4. Tiểu kết……………………………………………………………….. 58 Chƣơng 3: ĐẶC ĐIỂM NGỮ DỤNG VÀ VĂN HÓA TỪ NGỮ CHỈ NGƢỜI TRONG TIẾNG TÀY NÙNG 3.1. Dẫn nhập……………………………………………………………... 60 3.2. Đặc điểm ngữ dụng và văn hóa của từ chỉ người…………………….. 61 3.2.1. Đặc điểm ngữ dụng và văn hóa từ chỉ người theo quan hệ thân tộc.. 61 3.2.2. Đặc điểm ngữ dụng, văn hóa của từ chỉ người theo quan hệ xã hội.. 69 3.2.3. Đặc điểm ngữ dụng và văn hóa từ chỉ người theo chức nghiệp……. 72 3.2.4. Đặc điểm ngữ dụng và văn hóa từ chỉ người là ĐTNX……………. 75 3.3. Đặc điểm ngữ dụng và văn hóa của ngữ chỉ người…………………... 79 3.3.1. Đặc điểm ngữ dụng và văn hóa ngữ chỉ người theo quan hệ xã hội.. 79 3.3.2. Đặc điểm ngữ dụng và văn hóa của ngữ chỉ người theochức nghiệp 81 3.4. Tiểu kết……………………………………………………………….. 82 KẾT LUẬN................................................................................................. 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO….............................................. 87 PHỤ LỤC 1………………………………………………………………. 92 PHỤ LỤC 2………………………………………………………………. 96 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trên đất nước ta, cộng đồng dân tộc (nation) Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó có 53 dân tộc thiểu số (DTTS). Trong nền văn hoá đa dân tộc, đa ngôn ngữ đó, mỗi dân tộc anh em đều có bản sắc văn hoá riêng, tiếng nói riêng của mình. Trong khi chăm lo xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta phải giữ gìn và phát huy bản sắc riêng của mỗi dân tộc để đảm bảo tính đa dạng phong phú của nền văn hoá Việt Nam trong thời đại ngày nay. Đồng thời, chúng ta cũng cần bảo tồn ngôn ngữ dân tộc vì nó là yếu tố quan trọng hướng tới bảo tồn giá trị văn hoá, tri thức của dân tộc đó. Trong số 53 DTTS ở Việt Nam, dân tộc Tày và dân tộc Nùng là những cộng đồng có nhiều nét văn hóa tương đồng nhất, đặc biệt là về ngôn ngữ. Vì vậy, từ trước đến nay, tuy người Tày và người Nùng được coi là hai dân tộc (ethnic), song về ngôn ngữ thì hầu hết các nhà nghiên cứu đều coi tiếng Tày và tiếng Nùng là những phương ngữ khác nhau của cùng một ngôn ngữ chung Tày Nùng. Theo số liệu chính thức của nhà nước, cộng đồng người Tày có dân số đông nhất trong số 53 dân tộc thiểu số, còn cộng đồng người Nùng là dân tộc có dân số đông thứ bảy. Người Tày và người Nùng sống tập trung ở vùng đông bắc tại các tỉnh Lạng sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Bắc Kạn và ở vùng Lao Cai. Việc nghiên cứu tìm hiểu từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng, thiết nghĩ, là việc làm cần thiết, góp phần gìn giữ và bảo vệ ngôn ngữ dân tộc và phát huy bản sắc văn hoá của người Tày và người Nùng. Mặt khác nó giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về một nét văn hoá lâu đời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn của đồng bào các cộng đồng dân tộc Tày và Nùng, góp phần làm phong phú thêm về mặt tư liệu văn hoá của người Tày Nùng và văn hoá của DTTS. Lâu nay, việc nghiên cứu một cách cụ thể về từ ngữ chỉ người để từ đó hiểu rõ hơn về một nét văn hoá của cộng đồng cư dân dân tộc Tày và Nùng, do nhiều lí do, còn chưa được quan tâm một cách đúng mức và việc nghiên cứu cũng chưa có hệ thống. Với những lí do trên, người viết đã chọn vấn đề Từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng để làm đề tài nghiên cứu cho mình. Hơn nữa, là người con của dân tộc Nùng nên việc chọn vấn đề này còn mục đích giúp chính người viết hiểu rõ hơn về ngôn ngữ và văn hoá của dân tộc mình trong toàn bộ tiến trình phát triển truyền thống văn hoá rất đỗi tự hào của dân tộc. Mặt khác, việc nghiên cứu Từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng còn nhằm mục đích thiết thực là giúp cho dân tộc khác hiểu được hệ thống từ ngữ chỉ người, hiểu thêm văn hoá của đồng bào Tày Nùng. Nghiên cứu từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng là việc làm cần thiết không những có ý nghĩa về mặt khoa học thực tiễn mà nó còn góp phần quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ dân tộc Tày Nùng có ý thức bảo tồn, giữ gìn và phát huy ngôn ngữ và bản sắc văn hóa của dân tộc mình trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Từ trước đến nay đã có một số công trình, bài viết của các tác giả nghiên cứu về từ vựng ngôn ngữ này từ nhiều phương diện khác nhau về cấu trúc (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp), ngôn ngữ học xã hội, về lịch sử... Trong số này, người ta phải kể đến hai tác giả tiêu biểu nhất người Tày là Hoàng Văn Ma và Lục Văn Pảo. Các ông đã có hàng loạt công trình, bài viết liên quan đến đặc điểm cấu trúc, ngôn ngữ học xã hội, lịch sử… của tiếng Tày - Nùng. Chẳng hạn, đó là các công trình: Ngữ pháp tiếng Tày Nùng (1971), Từ điển Tày Nùng - Việt (1974), Từ điển Việt - Tày Nùng (1984)… Bên cạnh đó còn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn có hàng loạt công trình, bài viết khác của Hoàng Văn Ma, như: Một vài ý kiến về các từ mượn trong tiếng Tày - Nùng, (1970), Vài nét về sự phát triển của tiếng Tày - Nùng sau cách mạng tháng Tám (1970), Vấn đề tiếng và chữ Tày Nùng (1983), Cách thức biểu hiện phương hướng của tiếng Tày Nùng và tiếng Việt (1994), Cảnh huống tiếng Nùng (2002), Ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt nam: Một số vấn đề về quan hệ cội nguồn và loại hình học (2002), Tộc danh trong các nhóm dân tộc Thái - Kađai (2004), Vấn đề tiếng Thu Lao, tiếng Pa Dí trong mối quan hệ với tiếng Tày (2005)… Bên cạnh đó, ta còn thấy có những bài của một số tác giả khác như: Nguyễn Hàm Dương với Xây dựng và phát triển hệ thống từ vựng Tày - Nùng (1969), hay Nguyễn Thiện Giáp với Cách làm giàu vốn từ vựng Tày - Nùng (1970), Đoàn Thiện Thuật với các bài Hệ thống ngữ âm tiếng Tày Nùng (1972), Về kho từ vựng chung Việt - Tày, (1986). Năm 1998, có luận án của Phạm Ngọc Thưởng về Từ xưng hô trong tiếng Nùng. Gần đây, trong luận án tiến sĩ của mình (2006), Lê Văn Trường có đề cập đến một bảng từ đối chiếu các thổ ngữ, phương ngữ Nùng trong mối quan hệ với tiếng Nùng Dín để xác định vị của nó trong các ngôn ngữ Thái (Tai - Kađai) ở Việt Nam. Ở các công trình về từ vựng của những người đi trước, các tác giả thường chỉ nghiên cứu chung về vốn từ vựng trong tiếng Tày Nùng, chứ chưa có một tác giả nào nghiên cứu về các từ ngữ chỉ những đối tượng cụ thể thuộc những trường từ vựng cụ thể. Vì vậy, việc nghiên cứu từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng mà người viết thực hiện là hết sức cần thiết, hữu ích trong tình hình vấn đề dân tộc và tôn giáo hiện nay của thế giới và đất nước. 3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ 3.1. Mục đích - Nghiên cứu về từ ngữ (về cấu trúc, ngữ nghĩa - ngữ dụng và văn hóa) chỉ người trong tiếng Tày Nùng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Thông qua việc nghiên cứu về từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng giúp cho ta hiểu rõ hơn về văn hoá của cư dân Tày Nùng qua vốn từ. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích trên, luận văn có 3 nhiệm vụ: - Tìm hiểu cơ sở lí luận (một số khái niệm ngôn ngữ học, đặc điểm của tiếng Tày Nùng, vấn đề đơn vị định danh, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa…) phục vụ cho việc nghiên cứu từ ngữ chỉ người. - Miêu tả đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa - ngữ dụng và văn hóa của các từ chỉ người trong tiếng Tày Nùng. - Miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa - ngữ dụng và văn hóa của các ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng. 4. TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP 4.1.Tư liệu - Nguồn tư liệu thành văn là một số công trình nghiên cứu Từ điển Tày Nùng Việt (1974), Ngữ pháp tiếng Tày Nùng (1971), Từ điển Việt - Tày Nùng (1984) của các tác giả Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Tiến tới xác lập vốn từ văn hoá Việt của Nguyễn Văn Chiến, Văn hoá Tày Nùng của Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, Văn hoá truyền thống Tày Nùng của Hoàng Quyết, Ma Văn Bằng, Cảnh huống tiếng Nùng (2002), Ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt nam: Một số vấn đề về quan hệ cội nguồn và loại hình học (2002) của Hoàng Văn Ma cũng như nhiều công trình khác của những người đi trước… - Nguồn tư liệu điền dã: + Thu thập tư liệu từ thực tiễn cuộc sống, thông qua các đợt điền dã tại một số bản làng nơi người Tày Nùng sinh sống ở Thái Nguyên và các vùng lân cận. + Các tài liệu truyền miệng do các cụ cao niên kể lại, giải thích về cách gọi tên các từ ngữ chỉ người của người Tày Nùng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ, mục đích của đề tài, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu dưới đây: 4.2.1. Phương pháp nghiên cứu điền dã ở một số vùng xung quanh Thái Nguyên để thu thập và bổ sung tư liệu, đặc biệt là về nghĩa của các từ ngữ và các đơn vị tham gia cấu thành chúng, cũng như việc sử dụng chúng để đạt hiệu quả cao nhất trong giao tiếp. 4.2.2. Trên cơ sở tư liệu được thu thập qua văn bản và nghiên cứu thực địa, người viết đã vận dụng phương pháp miêu tả với các thủ pháp được áp dụng là : Các thủ pháp luận giải bên trong và luận giải bên ngoài . Với các thủ pháp luận giải bên trong chính là việc phân loại , hệ thống hóa các đơn vị ngôn ngữ thành các nhóm , các loại, các tiểu hệ thống phân cấp , các hệ thống con , thủ pháp phân tích , thủ pháp đối lập , thủ pháp vị trí, thủ pháp phân tích trường nghĩa... được áp dụng để phân tích những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa của các đơn vị cấu tạo nên từ, ngữ trong tiếng Tày Nùng. Cùng với chúng là các thủ pháp luận giải bên ngoài: Văn hóa, tâm lí tộc người trong việc sử dụng từ ngữ chỉ người, đặc biệt là vấn đề nghĩa đối với các đơn vị ấy trong các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. 4.2.3. Bên cạnh đó, một số phương pháp , thủ pháp nghiên cứu của các ngành khoa học khác: Qui nạp, diễn dịch, mô hình hóa… cũng được vận dụng trong quá trình phân tích, lí giải và viết luận văn. 5. CÁI MỚI VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 5.1. Về lí luận - Luận văn Từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng là công trình nghiên cứu đầu tiên về vốn từ của ngôn ngữ này từ cách nhìn nhận, phân chia theo trường từ vựng từ các bình diện cấu trúc, ngữ nghĩa và văn hóa - tộc người. - Luận văn bổ sung tư liệu vào việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc Tày Nùng và chỉ ra đặc điểm văn hóa tộc người này qua ngôn ngữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 . Mặt khác, http://www.lrc-tnu.edu.vn những tư liệu và lí giải của luận văn sẽ góp phần soi sáng thêm mối quan hệ Việt - Tày Nùng, nói riêng, và người Việt với các cư dân sử dụng các ngôn ngữ Thái - Kađai, nói chung, trong sự tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa. 5.2. Về thực tiễn - Luận văn giúp cho các dân tộc khá c hiểu được hệ thống từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng. Mặt khác, trên cơ sở sưu tầm , tập hợp, hệ thống hóa tư liệu và phân tích về từ ngữ chỉ người , luận văn giúp người đọc hiểu thêm về một nét văn hóa của người Tày Nùng thể hiện qua ngôn ngữ. - Từ một phương diện khác, luận văn còn có thể góp phần giúp cho các công chức không phải người Tày Nùng có thêm những kiến thức mới khi học và sử dụng tiếng Tày Nùng trong thực tiễn công tác ở vùng cư trú của người Tày Nùng. Chính điều này góp phần thực hiện các chủ trương của Đảng và Chính phủ đối với ngôn ngữ và chữ viết các dân tộc thiểu số, nhất là việc thực hiện Quyết định 53/CP cũng như việc thực hiện các Quyết định 253/QĐ-TTg ngày 05 tháng 3 năm 2003, và Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm 2004, nhằm đưa việc học tiếng dân tộc thiểu số trở thành nhiệm vụ thường xuyên đối với cán bộ, công chức hay Chỉ thị 38/2004/CT-TTg về việc đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số đối với cán bộ, công chức công tác ở vùng dân tộc, miền núi. 6. KẾT CẤU LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận , Danh mục tài liệu tham khảo , Phụ lục , nội dung của luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa từ chỉ người trong tiếng Tày Nùng. Chương 3: Đặc điểm ngữ dụng và văn hóa từ ngữ chỉ người trong tiếng Tày Nùng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn Chƣơng 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ HÌNH VỊ, TỪ, NGỮ, NGHĨA 1.1.1. Khái niệm về hình vị Bất cứ một ngôn ngữ nào khi đi vào hoạt động đều phải tuân theo những qui tắc nhất định. Cấu trúc của một ngôn ngữ bao giờ cũng gồm nhiều bậc. Trong số các bậc ấy có bậc hình vị. Theo quan niệm chung thì hình vị (morpheme) là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa và để cấu tạo từ. Đã có rất nhiều những định nghĩa khác nhau, trong các công trình nghiên cứu về từ vựng, và hình vị được gọi bằng các tên khác nhau: Từ tố (Nguyễn Văn Tu), nguyên vị (Hồ Lê), tiếng (Nguyễn Tài Cẩn), hình vị (Đỗ Hữu Châu, Đái Xuân Ninh)... Dưới đây là một số những định nghĩa về hình vị như sau: + Tiếng (hình vị) là đơn vị có mang ý nghĩa, mang giá trị ngữ pháp nhưng không vận dụng độc lập được (Nguyễn Tài Cẩn - Ngữ pháp tiếng Việt). + Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa và/hoặc có giá trị (chức năng) về mặt ngữ pháp (Vũ Đức Nghệu). + Các yếu tố cấu tạo từ (hình vị) là những hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất - tức là những yếu tố không thể nào phân chia thành những yếu tố nhỏ hơn nữa mà cũng có nghĩa - được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương thức cấu tạo của từ tiếng Việt (Đỗ Hữu Châu). + Hình vị là đơn vị nhỏ nhất, có nghĩa, được dùng để cấu tạo nên các từ (Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Thỉnh - Giáo trình tiếng Việt 2 - NXB GD HN, 1997, tr236). Từ những định nghĩa trên, ta thấy “hình vị” có một số đặc điểm đáng lưu ý là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Là đơn vị có kích thước vật chất - âm thanh nhất định, là mặt biểu thị, hình thức. - Là đơn vị có ý nghĩa nhất định, là mặt được biểu thị, nội dung. - Là đơn vị có cấu trúc nội tại tương đối ổn định, vững chắc, không thể phân tách thành các đơn vị nhỏ hơn về nghĩa. - Là đơn vị có chức năng cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó, chủ yếu là dùng để cấu tạo nên từ... Tuy vậy hình vị trong các ngôn ngữ cụ thể (với tất cả các dạng thức của nó) không phải là đơn vị có thể nhận thức dễ dàng. Hình vị là kết quả của sự phân tích và tổng hợp của nhà nghiên cứu, nhằm mục đích “mổ xẻ” để hiểu rõ bản chất, chức năng của các đơn vị lớn hơn nó hoặc chính nó trong các mối quan hệ với các đơn vị cùng loại và khác loại. Cái đơn vị này thường không hiển nhiên đối với người bản ngữ. Tuy nhiên, ở đây cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm nhiều khi không trùng khớp: “Hình vị” và “thành tố cấu tạo từ”. Hình vị có thể trực tiếp cấu tạo nên từ (một mình nó hoặc kết hợp với các hình vị khác) hoặc không trực tiếp cấu tạo nên từ, mà gián tiếp, bằng cách kết hợp với các hình vị khác để tạo thành một thành tố có nghĩa lớn hơn hình vị. Thành tố này mới được dùng để trực tiếp cấu tạo nên từ. Thành tố cấu tạo từ có thể trùng hoặc không trùng khớp với hình vị. Cách nhìn nhận như vậy, giúp ta giải thích có logic đối với những trường hợp các hình vị kết hợp với nhau, nhưng sản phẩm của sự kết hợp này không thể được đánh giá là từ (không tái hiện được tự do trong lời nói để tạo nên câu), mà chỉ nên xem là thành tố cấu tạo từ. “Thành tố cấu tạo từ” được hiểu là yếu tố bên trong từ, yếu tố hợp thành nên từ. Như vậy, cách hiểu này còn giúp phân biệt nó với đơn vị được gọi là “đơn vị gốc”, đơn vị ở bên ngoài từ đang nói, đơn vị được lấy làm cơ sở để tác động và chuyển hoá thành ra thành tố cấu tạo từ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn Từ những cách nhìn nhận hình vị trong các tài liệu ngôn ngữ học, ta có thể chấp nhận định nghĩa: Hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được sử dụng (trực tiếp hoặc gián tiếp) cấu tạo nên từ. Tuy nhiên tất cả những định nghĩa ấy đều cho ta thấy được ngoài đặc điểm chung của hình vị là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, nó còn có những đặc điểm riêng, phản ánh rõ ràng tính đơn lập của tiếng Việt: + Sự trùng nhau về hình thức giữa hịnh vị với âm tiết. Trong tiếng Việt tuyệt đại bộ phận hình vị có ranh giới hình thức trùng với âm tiết. + Sự gần gũi giữa hình vị và từ được thể hiện ở chỗ: Một số lớn hình vị đồng thời là từ đơn tức là vừa có nghĩa, vừa có khả năng dùng độc lập. Ví dụ: Nhà, sẽ, đang… Một số khác có nghĩa, có hình thức giống từ, tuy không có tính độc lập nhưng vẫn tiềm tàng khả năng dùng độc lập. Số còn lại tuy tự thân không có nghĩa và không có tính độc lập nhưng vẫn tiềm tàng khả năng mang nghĩa và vận dụng độc lập lâm thời. + Sự vắng mặt của các loại hình vị - phụ tố: Trong ngôn ngữ biến hình, khi phân loại hình vị, người ta thường chia thành căn tố và phụ tố. Sự vắng mặt của các phụ tố trong tiếng Việt chính là đặc điểm quan trọng qui định đặc tính “phi hình thái” tức là đặc tính không biến hình của từ tiếng Việt. Nhưng cũng cần lưu ý dùng thuật ngữ hình vị chỉ đơn vị cấu tạo từ trong tiếng Việt chỉ là một giải pháp. Trong các sách giáo khoa tiếng Việt ở phổ thông hiện nay, người ta dùng tuật ngữ “tiếng” để tiến hành phân loại cấu tạo từ tiếng Việt. Những người theo quan điểm này cho rằng “tiếng” là đơn vị mà người bản ngữ rất dễ nhận biết. Theo quan điểm này “tiếng” có những đặc trưng cơ bản sau: + Tiếng là đơn vị phát âm nhỏ nhất. + Tiếng là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn Như vậy “tiếng” là đơn vị hai mặt (âm - nghĩa) phân biệt với âm tiết là đơn vị một mặt âm thanh, không có nghĩa). Tóm lại để hình vị có thể tạo thành từ thì nó phải có nghĩa, một hình vị có thể cấu tạo với nhiều phương thức khác nhau. Có nhiều cách để phân loại hình vị, nếu phân loại hình vị theo cách truyền thống ta có căn tố và phụ tố, nó đảm bảo được hai yếu tố là chức năng và ngữ nghĩa. L. Bloomfield thì lại phân loại hình vị thành hình vị tự do và hình vị hạn chế. Với cách phân loại này ta phát hiện ra một đặc tính quan trọng của hình vị là tính chất hoạt động trên trục tuyến tính nhưng nó lại làm mất đi phương diện ngữ nghĩa, chức năng quyết định sự tồn tại của hình vị trong ngôn ngữ. Cách phân loại nữa về hình vị là người ta dựa vào các đặc tính thiên về hình thức. Dựa vào vị trí ta có tiền tố, hậu tố, trung tố. Dựa vào đặc tính âm vị học của các hình vị thì theo E.Nida ta có các hình vị gián cách và các hình vị từ. Tuy nhiên dù phân loại theo cách nào thì hai tiêu chí là chức năng và ngữ nghĩa là yếu tố quan trọng nhất để phân loại hình vị. 1.1.2. Khái niệm về từ Trong ngôn ngữ từ là đơn vị cơ bản của từ vựng, nói như vậy để thấy rằng trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, không chỉ tồn tại các từ mà còn có các ngữ, tức là những cụm từ có sẵn, tương đương với từ, chẳng hạn các thành ngữ tiếng Việt. Tuy nhiên ngữ không phải đơn vị từ vựng cơ bản bởi nó do các từ cấu tạo nên, muốn có các ngữ trước hết phải có các từ. Tuy nhiên từ là đơn vị mà các nhà ngôn ngữ học rất khó để có được một định nghĩa chính xác, hoàn chỉnh, thỏa mãn nhu cầu được biết về từ. L.V.Sherba cho rằng trong các ngôn ngữ khác nhau, từ sẽ khác nhau. Các nhà ngôn ngữ học đã đưa rất nhiều định nghĩa khác nhau về từ, ta có thể chấp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn nhận và sử dụng định nghĩa sau về từ: Từ là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có khả năng vận dụng độc lập tạo nên câu. Tính độc lập của từ được thể hiện: + Độc lập về vị trí: Mỗi từ đều có khả năng tách khỏi từ bên cạnh một cách dễ dàng. Ví dụ: Nhà cửa… + Độc lập về chức năng: Từ có khả năng độc lập đảm nhiệm một chức năng cú pháp nào đó trong câu như chủ ngữ (Ví dụ: Tôi xây nhà), bổ ngữ (Ví dụ: nhà rất đẹp), định ngữ… Trong hai mức độ độc lập trên thì tính độc lập về vị trí có ở cả thực từ và hư từ, còn độc lập về chức năng chỉ có ở thực từ. Như vậy có thể nhận thấy từ có cấu trúc tương đối ổn định, hoàn chỉnh về ngữ âm và ngữ nghĩa, là vị cơ bản để cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó như câu, cụm từ… 1.1.3. Khái niệm ngữ Ngữ là cụm từ có sẵn trong ngôn ngữ, có giá trị tương đương với từ, có nhiều đặc điểm giống với từ: Chúng có thể tái hiện trong lời nói như từ. Về mặt ngữ pháp, chúng có thể làm thành phần câu, cũng có thể làm cơ sở để cấu tạo các từ mới. Về mặt ngữ nghĩa, chúng cũng là những đơn vị định danh, biểu thị những hiện tượng của thực tại khách quan, gắn liền với những kiểu hoạt động khác nhau của con người. Ngữ mà ta thường hay nói tới nhiều nhất là ngữ cố định, nó có sẵn trong ngôn ngữ được hình thành trong quá trình phát triển của lịch sử, xã hội. Nó bao gồm tập hợp những từ đơn có kết cấu chặt chẽ, vững chắc ổn định, bất biến và có nghĩa hoàn chỉnh để gọi tên sự vật, hiện tượng, biểu thị khái niệm (Ví dụ: Cưỡi ngựa xem hoa, nước đổ lá khoai…). Tuy nhiên tính độc lập về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn mặt từ vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng của ngữ trở nên giống như ý nghĩa của một từ riêng biệt. Bên cạnh đó còn có ngữ tự do nghĩa của nó là nghĩa của của các từ vựng độc lập tạo thành, ngữ tự do có khả năng sản sinh ra các từ mới một cách linh hoạt phụ thuộc vào điều kiện sử dụng của người phát ngôn. Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học định nghĩa: “Ngữ: Kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng với các hư từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái niệm thống nhất, và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tượng của thực tại khách quan. Đó là một kết cấu cú pháp được tạo thành bởi hai hoặc nhiều thực từ trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc - theo quan hệ phù hợp, chi phối hay liên hợp. Trong một số ngữ có từ đóng vai trò chủ yếu về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính gọi là thành tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là danh từ (tạo nên danh ngữ), động từ (tạo nên động ngữ), tính từ tạo nên tính ngữ, ngữ còn được gọi là cụm từ, từ tố. Ngữ là phương tiện định danh, biểu thị sự vật, hiện tượng quá trình, phẩm chất. Ý nghĩa ngữ pháp của ngữ được tạo nên bằng quan hệ nảy sinh giữa các thực từ kết hợp lại trên cơ sở của một kiểu liên hệ nào đó giữa chúng. 1.1.4. Nghĩa Khi nói về hình vị, từ, ngữ ở trên, chúng ta đã xác nhận đặc tính quan trọng nhất của các đơn vị này là “có nghĩa”. Vậy nghĩa là gì? Khi nói tới các đơn vị ngôn ngữ thì chúng bao gồm hai mặt (cái biểu hiện và cái được biểu hiện, hay hình thức và nội dung), nghĩa thuộc mặt thứ hai, tức nội dung. Hiện nay, có không ít định nghĩa về nghĩa vì khái niệm này rất trừu tượng (so với từ và các đơn vị ngôn ngữ khác). Về mặt lí thuyết, căn cứ để hiểu nghĩa, là: Các đơn vị đang xét (từ và hình vị) được sử dụng trong sự qui Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn chiếu về một sự vật hiện tượng nào đó, với yêu cầu người nói và người nghe đều phải cùng nghĩ về sự vật hiện tượng ấy, khi nhắc đến đơn vị đang xét. Nhờ sự qui chiếu như vậy, sự sử dụng các đơn vị này trong cấu tạo nên các đơn vị lớn hơn nó mới không gây nên sự lẫn lộn. Nghĩa các đơn vị đang xét mang tính qui ước là nhờ người nói và người nghe (bản ngữ) ước định với nhau: Âm thanh này thì biểu thị sự vật hiện tượng này, âm thanh kia thì biểu thị sự vật hiện tượng kia... Như vậy, mặt vật chất và ý nghĩa có liên hệ mật thiết, qui định ràng buộc và là điều kiện tồn tại của nhau. Đồng thời, cũng như các đơn vị ngôn ngữ, nghĩa của các đơn vị này (từ và hình vị) cũng chỉ tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ. Tách ra khỏi hệ thống, chúng không tồn tại nữa. Vậy nghĩa là: Hiện thực được phản ánh vào trong nhận thức, tạo nên một mối liên hệ thường trực, liên tục với một hình thức âm thanh nhất định, nhờ đó sự phản ánh này được hiện thực hoá bằng ngôn ngữ. Mối liên hệ này được hiểu là “nghĩa”. Khi nói về nghĩa của từ (và hình vị), người ta phân biệt các thành phần như: Nghĩa biểu vật (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với sự vật hiện tượng cụ thể mà nó chỉ ra); nghĩa biểu niệm (là liên hệ giữa “hình thức âm thanh” với ý niệm - cái biểu niệm, bao gồm các thuộc tính sự vật hiện tượng được phản ánh vào ý thức con người)... Ngoài ra, người ta còn phân biệt nghĩa cấu trúc - là mối liên hệ giữa các đơn vị khác nhau trong hệ thống, nghĩa ngữ dụng - là mối liên hệ giữa các đơn vị đang xét với tình cảm, thái độ của người sử dụng. Khi đi vào phân tích nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ đang nói ở trên, người ta đề xuất nhiều cách, trong đó thường được sử dụng hơn cả là làm cho cái đơn vị này bộc lộ ý nghĩa của mình qua ngữ cảnh. Ngữ cảnh được hiểu là chuỗi các đơn vị ngôn ngữ kết hợp với đơn vị đang xét hoặc bao xung quanh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn nó, làm cho nó được cụ thể hoá hơn và được xác định về nghĩa. Ngữ cảnh, có thể là tối thiểu (đơn giản nhất) và tối đa (mở rộng đến mức có thể). Mặt khác, khi tìm hiểu nghĩa của hình vị, từ, ngữ phải xem xét trong quá trình hành chức của nó. Đối với từ cũng vậy, không thể tách rời nó khỏi hoạt động ngôn ngữ, trong đó nó có vai trò tái hiện tự do tạo thành câu. Như vậy, chỉ trong sự hành chức, nghĩa mới được hiện thực hoá và xác định. Hơn thế nữa, trong thực tế hoạt động của ngôn ngữ, nghĩa của đơn vị ngôn ngữ có thể bị giảm thiểu hoặc gia tăng so với các yếu tố cấu thành nó (các nét nghĩa), đồng thời người nói cũng có thể tạo nên hàng loạt các quan hệ về nghĩa khác trong hệ thống ngôn ngữ của mình: Đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa. 1.2. VẤN ĐỀ ĐỊNH DANH VÀ TỪ NGỮ CHỈ NGƢỜI 1.2.1. Định danh Thuật ngữ “định danh” (nomination) có nguồn gốc từ tiếng La tinh nghĩa là “tên gọi”. Thuật ngữ này biểu thị kết quả của quá trình gọi tên. Đó là chức năng của đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ. Như vậy định danh có thể hiểu một cách đơn giản là cách đặt tên gọi cho một sự vật, hiện tượng nào đó. Sự hình thành những đơn vị ngôn ngữ có chức năng định danh nghĩa là dùng để gọi tên sự vật và chia tách những khúc đoạn của thực tại khách quan và tạo nên những khái niệm tương ứng về sự vật, hiện tượng dưới hình thức là các từ, các tổ hợp từ, thành ngữ, câu. Đối tượng của lí thuyết định danh là nghiên cứu mô tả những qui luật về cách cấu tạo những đơn vị ngữ nghĩa, về sự tác động qua lại giữa tư duy, ngôn ngữ - hiện thực khách quan trong quá trình định danh. Tìm hiểu vai trò của nhân tố con người trong việc lựa chọn các dấu hiệu làm cơ sở cho sự định danh xuất phát từ mối quan hệ giữa hiện thực khái niệm - tên gọi. Lí thuyết định danh phải nghiên cứu và miêu tả cấu trúc của đơn vị định danh, từ đó xác định những tiêu chí hoặc những đặc trưng cần và đủ để phân biệt đơn vị định danh này với đơn vị định danh khác. Hiện thực khách quan được hình dung như là cái biểu vật của tên gọi, nghĩa là như toàn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất