luan van,khoa luan, thac si , su pham1document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ vị trí của Nguyễn Huy Thiệp đối với sự phát triển của
văn học đương đại Việt Nam: Được coi là một hiện tượng độc đáo của văn học
Việt Nam thời kì đổi mới, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp hội tụ rõ nét tính liên
tục và tính đứt đoạn của lịch sử văn học dân tộc. Có thể nói không quá rằng, một
mình Nguyễn Huy Thiệp không làm nên được diện mạo của nền văn học Việt
Nam sau 1975 đến nay, nhưng một mình Nguyễn Huy Thiệp lại có thể đào xới
lên nhiều vấn đề thuộc về bản chất của văn học, tạo nên sức bật khỏi ảnh hưởng
văn học trước 1975, từ đó đưa văn học Việt Nam sau 1975 đi xa hơn, vững vàng
hơn trên hành trình đổi mới văn học dân tộc, hoà nhập vào biển cả văn học hiện
đại của thế giới.
Vào thập niên 80 - 90 của thế kỉ XX, Nguyễn Huy Thiệp nổi lên như một
hiện tượng văn học độc đáo gây xôn xao nền văn học nước nhà vốn đang trầm
lặng sau chiến tranh. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện ngay lập tức gây
không khí tranh luận trên văn đàn. Nhất là khi chùm truyện ngắn viết về đề tài
lịch sử được đăng trên tuần báo Văn nghệ, lập tức gây một cuộc tranh luận sôi
nổi. Trong đó, tư duy tự sự lịch sử đã đánh dấu một hướng khám phá mới, cái
nhìn độc đáo của nhà văn về mối quan hệ giữa lịch sử với văn học, từ lịch sử
đến văn học chính là một bước chuyển thể sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp.
1.2. Xuất phát từ tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, đặc biệt là những truyện
ngắn viết về đề tài lịch sử. Đó là những tác phẩm có vấn đề. Mặc dù viết về đề
tài lịch sử đến Nguyễn Huy Thiệp không phải là điều mới mẻ, nó đã được nhiều
cây bút trước đó quan tâm với tinh thần cổ vũ kháng chiến, phục vụ kháng
chiến. Các cây bút ấy thời kì đổi mới tiếp tục đào sâu vào mảng đề tài này nhằm
thuyết minh cho những tư tưởng, cách nhìn riêng của mình. Với Nguyễn Huy
Bïi ThÞ H¬ng
1
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc1bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham2document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Thiệp việc mượn đề tài lịch sử để phát biểu cho quan niệm riêng của mình là
một vấn đề đáng quan tâm. Nhưng ở đây điều cần chú ý là tư duy tự sự lịch sử
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nhờ đó mà người đọc thấy được sự
sáng tạo của nhà văn đối với đề tài không mấy xa lạ này.
1.3. Xuất phát từ chính nhu cầu muốn tìm tòi, nghiên cứu sự sáng tạo
trong tư duy tự sự lịch sử của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp nên chúng tôi đã
lựa chọn đề tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Năm 1987, tên tuổi của Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành một hiện tượng
văn học mới gây chấn động dư luận. Có thể nói, chỉ mình Nguyễn Huy Thiệp
cũng đủ tạo nên một đời sống văn học sôi động kéo dài cả mấy năm trời và còn
nóng bỏng đến tận hôm nay.
Từ khi các tác phẩm văn chương của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện trên
các báo chí đã có rất nhiều công trình, bài viết, luận văn tốt nghiệp đề cập đến
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Năm 2001, tác giả Phạm Xuân Nguyên đã tập
hợp những bài tiêu biểu về Nguyễn Huy Thiệp mà ông ước tính chỉ là 1/3 số bài
viết đã đăng trên các báo, tạp chí ở khắp nơi thành cuốn Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp trong đó có nhiều bài khen, chê khác nhau nhưng những bài khẳng định
đóng góp của Nguyễn Huy Thiệp vẫn là nổi trội hơn cả.
Châm ngòi nổ cho cuộc tranh luận là bài viết của nhà sử học Tạ Ngọc
Liễn Về truyện ngắn Vàng lửa (Văn nghệ, 26/6/1988) đã chỉ trích Nguyễn Huy
Thiệp hư cấu các nhân vật lịch sử một cách tuỳ tiện và khẳng định: "Viết lịch sử
không chỉ sử gia mà cả nhà văn cũng phải phục tùng sự thật, đúng bản chất lịch
sử, không được làm diện mạo lịch sử méo mó đi" [17, 177].
Trong bài Tư duy tiểu thuyết và folklore hiện đại (Đà Lạt, 8/1988), nhà
nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến lại ủng hộ lối hư cấu lịch sử của Nguyễn Huy
Bïi ThÞ H¬ng
2
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc2bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham3document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Thiệp và cho rằng: "Ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết đăng
trên báo Văn nghệ năm nay bộc lộ một phương diện mới của tài năng Nguyễn
Huy Thiệp: tư duy tiểu thuyết" [17, 356].
Diệp Minh Tuyền với bài Nguyễn Huy Thiệp, một tài năng mới (Văn
nghệ, số 36, 37 ngày 3/9/1988) cũng cho rằng: "Chỉ với bấy nhiêu truyện ngắn,
anh đã mang đến cho văn học chúng ta một diện mạo mới: từ cách chọn đề tài,
cách xây dựng nhân vật, cách dựng truyện, lối hành văn... đều mới, để cuối cùng
diễn đạt những chủ đề tư tưởng mới” [17, 396].
Thái Hoà trong bài Có nghệ thuật Ba-rốc trong truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp (Tạp chí Văn học, số 2, 3/4/1989) cũng đưa ra nhận xét về cách
xây dựng nhân vật lịch sử trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp: "Dù là một
anh hùng chói lọi, tài năng lỗi lạc như Quang Trung hay một hoàng đế quyền lực
vô hạn như Gia Long thì cũng chỉ là con người, mang những khuyết tật, những
chỗ không hoàn hảo của con người" [17, 104].
PGS.TS Nguyễn Thị Bình chứng minh Nguyễn Huy Thiệp là một cây bút
tích cực trong sự đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu qua bài Đổi mới ngôn ngữ và
giọng điệu là thành công đáng chú ý của văn xuôi sau 1975, nhà nghiên cứu
đã nhận xét: "Đó là lối nói cộc lốc, sắc bén, câu văn ngắn gọn dồn dập, hạn
chế tối đa sự miêu tả và bình luận chứa một năng lượng bùng nổ dữ dội và
trước hết làm rung chuyển lối văn mực thước, trang trọng hoặc rào đón, đưa
đẩy" [23, 353].
Trong bài Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn xuôi nước
ta từ sau 1975 (Tạp chí Văn học, số 4/2003), PGS.TS Nguyễn Thị Bình tiếp
tục nhấn mạnh rằng: "Nguyễn Huy Thiệp là người đã mạnh dạn trình bày một
thái độ tự do đối với lịch sử: nhào nặn lại chất liệu lịch sử, dùng lịch sử làm vỏ
nghệ thuật để truyền những thông điệp về hiện tại” [3, 23].
Bïi ThÞ H¬ng
3
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc3bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham4document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Nhà phê bình văn học Đông La trong bài Về cái ma lực trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp đã nhận xét: “Truyện của anh thường không có cốt
truyện, là truyện của nhiều vấn đề. Nó chảy như một dòng chảy tự nhiên. Sự
cuốn hút của chúng không phải ở sự bất ngờ mà ở độ sâu sắc của những ý
tưởng, ở tầm triết lí liên quan tới cuộc sống con người” [17, 137].
Cao Kim Lan trong bài Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và
dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đại (Nghiên cứu Văn học, số 12/2007)
đã đưa ra nhận xét: "Giá trị văn chương trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp có
thể được xác định bắt đầu từ sự thay đổi tư duy sau đó được biểu hiện ở những
cách tân trong kĩ thuật viết" [11, 61].
Bài Nguyễn Huy Thiệp - hợp lưu giữa nguồn mạch dân gian và tiểu
thuyết hiện đại của Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung đã nhận xét: "Nguyễn
Huy Thiệp đã tạo nên những folkore hiện đại, đã làm một cuộc cách mạng trong
tư duy nghệ thuật so với truyền thống" [19].
Trong bài viết Văn học Việt Nam trong quá trình hội nhập, PGS.TS Bích
Thu cho rằng: "Sự hấp dẫn trở lại của tự sự lịch sử qua sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp... đã chứng tỏ các chủ thể sáng tạo ngoài cảm xúc thẩm mĩ đã hết sức
dụng công trong kĩ thuật tự sự" [25]. Bài viết đã không đề cập đến các phương
diện cụ thể của tư duy tự sự lịch sử mà chỉ đưa ra nhận xét về lối tư duy này.
Như vậy, đã có rất nhiều bài nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh có liên
quan đến tư duy tự sự lịch sử trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Ngoài
ra, trên các trang web của báo mạng cũng không ít bài phê bình, giới thiệu về
Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên vấn đề: “ Tư duy tự sự trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp” đến nay vẫn bỏ ngỏ. Chính vì lẽ đó, tác giả khóa luận
mong muốn ở một mức độ nhất định tập trung tìm hiểu “ Tư duy tự sự lịch sử
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp” để góp phần khẳng định tài năng,
Bïi ThÞ H¬ng
4
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc4bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham5document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
cá tính sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp và những đóng góp của ông vào sự
nghiệp văn học.
3. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ vai trò văn học sử của Nguyễn Huy Thiệp đối với công cuộc
đổi
mới văn học Việt Nam sau năm 1986.
- Thấy được những cách tân độc đáo của nhà văn trong tư duy tự sự lịch
sử ở thể loại truyện ngắn.
- Trau dồi thêm kiến thức nghiên cứu cho bản thân tác giả khoá luận về
đề tài lịch sử trong văn xuôi Việt Nam đương đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khoá luận “Tư duy tự sự lịch sử trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp”
có nhiệm vụ sau:
- Nêu những nét khái quát về đề tài lịch sử trong văn xuôi việt Nam hiện
đại, về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả Nguyyễn Huy Thiệp cũng như chùm
truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của ông.
- Chỉ ra những nét độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Huy Thiệp khi viết về đề
tài lịch sử trên các phương diện: cảm hứng lịch sử, các xử lí tư liệu lịch sử, cách
xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là chùm truyện ngắn viết về đề tài lịch sử trong
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Cụ thể là Kiếm sắc, Vàng lửa,
Phẩm tiết, Mưa Nhã Nam, Nguyễn Thị Lộ.
- Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận tập trung làm rõ "Tư duy tự sự lịch sử
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp". ở các phương diện: cảm hứng
lịch sử, cách xử lí tư liệu lịch sử, cách xây dựng nhân vật lịch sử, nghệ thuật trần
thuật, giọng điệu, ngôn ngữ.
Bïi ThÞ H¬ng
5
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc5bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham6document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp hệ thống
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp lịch sử
7. Đóng góp của khoá luận
- Thực hiện khoá luận này, chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói khẳng
định tài năng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp ở thể loại truyện ngắn.
Đặc biệt là những truyện ngắn viết về đề tài lịch sử - một đề tài đặt ra không ít
khó khăn và thử thách đối với người viết.
- Khoá luận cũng góp một phần hình thành và phát triển kĩ năng nghiên
cứu khoa học đối với sinh viên Ngữ văn.
8. Cấu trúc của khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của khoá
luận được chia thành 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Tư duy tự sự lịch sử trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp.
Bïi ThÞ H¬ng
6
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc6bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham7document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm "Tư duy tự sự"
Tư duy tự sự là khái niệm hẹp hơn so với tư duy nghệ thuật. Nó nằm
trong tư duy nghệ thuật. Tư duy tự sự chính là tư duy về thể loại tự sự. Vì vậy để
hiểu được tư duy tự sự, chúng ta phải hiểu được tư duy nghệ thuật.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi (đồng chủ biên): Tư duy nghệ thuật là “dạng hoạt động trí tuệ của con
người hướng tới sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật phù hợp với chức
năng phi đối xứng của bán cầu đại não và lí thuyết về hai kiểu nhân cách thì tư
duy nghệ thuật dựa trên một nền tảng tâm sinh lí khác hẳn với tư duy lí luận”
[9, 381]. Bản chất của nó do phương thức thực tiễn tinh thần của hoạt động
chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng nghệ thuật quy định. Sự chuyên môn hoá lối
tư duy này tạo thành đặc trưng nghệ thuật và tiềm năng nhận thức của nó.
Tư duy nghệ thuật là một bộ phận của hoạt động nghệ thuật nhằm khái
quát hoá hiện thực và giải quyết nhiệm vụ thẩm mĩ. Phương tiện của nó là các
biểu tượng, cơ sở của nó là tình cảm. Bằng trí tưởng tượng sáng tạo vốn là chất
xúc tác của hoạt động tư duy nghệ thuật, nghệ sĩ xác định các giả thiết, làm sáng
tỏ các bộ phận còn bị che khuất của thực tại, lấp đầy các “lỗ hổng chưa biết” [9,
381].
Bïi ThÞ H¬ng
7
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc7bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham8document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Tư duy nghệ thuật đòi hỏi một ngôn ngữ nghệ thuật làm "hiện thực trực
tiếp" cho nó. Đặc điểm của tư duy nghệ thuật là tính lựa chọn, tính liên
tưởng, tính ẩn dụ. Trên cơ sở tư duy nghệ thuật người ta tạo ra các tư tưởng và
quan niệm nghệ thuật, lựa chọn các phương tiện, biện pháp nghệ thuật.
Như đã nói ở trên, tư duy tự sự là khái niệm hẹp của tư duy nghệ thuật. Vì
vậy, tư duy tự sự cũng mang những đặc điểm chung của tư duy nghệ thuật.
Nhưng tư duy tự sự cũng có những đặc điểm riêng khác biệt so với tư duy trữ
tình - cũng là một dạng tư duy khác nằm trong tư duy nghệ thuật.
Nếu như ở thể loại trữ tình phản ánh hiện thực trong sự cảm nhận chủ
quan của nhân vật trữ tình thì tác phẩm tự sự lại tái hiện đời sống trong toàn bộ
tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự phản ánh hiện thực qua bức tranh mở
rộng của đời sống trong không gian, thời gian, qua các sự kiện, biến cố xảy ra
trong cuộc đời con người. Trong tác phẩm tự sự nhà văn cũng thể hiện tư tưởng
và tình cảm của mình. Nhưng ở đây, tư tưởng và tình cảm của nhà văn thâm
nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài của con người tới mức giữa
chúng dường như không có sự phân biệt nào cả. Nhà văn kể lại, tả lại những gì
xảy ra bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực được
phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo hình xác định đang tự phát
triển, tồn tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của nhà
văn.
Tư duy tự sự khác tư duy trữ tình còn ở chỗ trong tác phẩm tự sự bao giờ
cũng có cốt truyện. Gắn với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được khắc họa
đầy đủ, nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch. Trong tác phẩm tự sự, cốt
truyện được khắc hoạ nhờ một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng
bao gồm sự kiện, xung đột, nội tâm, ngoại hình của nhân vật, chi tiết tính cách,
ngoại cảnh, phong tục, đời sống văn hoá, lịch sử... lại còn cả những chi tiết liên
tưởng, tưởng tượng, hoang đường mà không nghệ thuật nào tái hiện được.
Bïi ThÞ H¬ng
8
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc8bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham9document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Một đặc điểm nữa làm cho tư duy tự sự khác tư duy trữ tình là trong tư
duy tự sự nhà văn đã sáng tạo ra hình tượng người trần thuật. Người trần thuật
trong tác phẩm tự sự là một nhân vật trong tác phẩm, nó có thể là tác giả, có thể
là nhân vật. Đây chính là một đặc điểm quan trọng giúp chúng ta nhận biết được
sự khác nhau giữa tư duy tự sự so với tư duy trữ tình.
Nói tóm lại, tư duy tự sự là một khái niệm hẹp hơn so với tư duy nghệ
thuật. Nó mang những đặc điểm chung của tư duy nghệ thuật nhưng cũng mang
những đặc điểm riêng khác với tư duy trữ tình.
1.2. Khái quát về đề tài lịch sử trong văn xuôi Việt Nam hiện đại
Đề tài lịch sử luôn là miền đất hứa để các nghệ sĩ mọi thời đại thâm canh
ý nghĩa mới của sự kiện lịch sử bắt đầu từ những vấn đề mới mà thời đại đặt ra.
Đề tài lịch sử cũng chính là đề tài được nhiều nhà văn quan tâm. Nó có mặt,
xuyên suốt từ văn học trung đại cho đến văn học đương đại.
Người đọc nếu như đã từng say mê với đề tài này thì chắc sẽ không thể
quên cuốn tiểu thuyết lịch sử đặc sắc của văn học trung đại - Hoàng Lê nhất
thống chí. Bối cảnh của tác phẩm là lịch sử xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX cụ thể là khi chúa Trịnh Sâm say mê Tuyên Phi họ Đặng
(1776) đến khi vua Gia Long đánh bại phong trào Tây Sơn (1802).
Đến văn học hiện đại, đề tài lịch sử vẫn liên tục xuất hiện và thu được
những thành công. Có thể kể đến những tác phẩm ở nửa đầu thế kỉ XX như:
Đêm hội Long trì, An Tư công chúa... (Nguyễn Huy Tưởng), Lịch sử Đề Thám
(Ngô Tất Tố)... và hàng loạt tiểu thuyết của Khái Hưng, Lan Khai, Nguyễn
Triệu Luật... Trong các tác phẩm viết về lịch sử giai đoạn này chủ yếu nhà văn
dùng lịch sử để khơi gợi, liên hệ với những vấn đề hiện tại để ca ngợi cuộc
kháng chiến chống xâm lược và những người anh hùng cứu quốc. Từ đó đánh
thức tinh thần dân tộc của thanh niên Việt Nam hoặc cảnh cáo bè lũ bán nước và
cướp nước.
Bïi ThÞ H¬ng
9
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc9bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham10document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Từ sau cách mạng tháng Tám, do sự phát triển gấp rút của đời sống đòi
hỏi người viết phải bám sát thời sự để phục vụ cho các yêu cầu của cuộc chiến
đấu hiện tại nên thành tựu của văn xuôi viết về đề tài lịch sử tạm thời vắng bóng.
Phải từ sau 1960, khi miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ 1 - xây dựng
chủ nghĩa xã hội, có cơ hội nhìn lại quá khứ, các sáng tác viết về đề tài lịch sử
lại xuất hiện như Quận He khởi nghĩa (1963), Tổ quốc kêu gọi (1972), Người
Thăng Long (1981) của Hà Ân, Núi rừng Yên Thế (Nguyên Hồng), Bóng nước
Hồ Gươm của Chu Thiên... Bên cạnh đó là những tác phẩm viết cho thiếu nhi
như Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960), Kể chuyện Quang Trung (1962) của
Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Trung Trực (1964), Bên bờ Thiên Mạc (1967) của
Hà Ân... Từ những năm 80 của thế kỉ XX, xu hướng dân chủ hoá bao trùm đời
sống tinh thần của người Việt Nam và cũng là xu hướng vận động chung của
nền văn học.ý thức nghệ thuật thay đổi, quan niệm về vai trò, vị trí, chức năng
văn học, về nhà văn và hiện thực cũng có biến đổi. Cùng với nó là quan niệm về
hiện thực như đối tượng khám phá của văn học được mở rộng và mang tính toàn
diện. Hiện thực không chỉ là các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà còn
là hiện thực hằng ngày với các quan hệ thế sự riêng tư, đa đoan, phức tạp. Văn
học ngày càng đi tới những quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người mà
nền tảng của nó là triết học và hạt nhân cơ bản của nó là tư tưởng nhân bản.
Đối với loại hình tự sự lịch sử, giai đoạn sau 1986 có những biến đổi mới
đặc biệt quan trọng. Năm 1988, chùm truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp (Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết) được đăng trên báo Văn
nghệ đã thực sự gây "sốc" đối với độc giả đương thời. Chính Nguyễn Huy Thiệp
đã mở đầu cho một cách viết khác trước về đề tài lịch sử mà cách viết này sẽ ảnh
hưởng tích cực đến các cây bút tiểu thuyết lịch sử sau đó như tiểu thuyết Sông
Côn mùa lũ (2 tập, 1998) của Nguyễn Mộng Giác, Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Hồ
Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh. Các tác giả này không chỉ dụng công ở cảm
Bïi ThÞ H¬ng
10
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc10bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham11document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
xúc thẩm mĩ mà còn dụng công trong kĩ thuật tự sự. Ngòi bút sáng tạo của họ đã
góp phần làm phục sinh văn xuôi viết về đề tài lịch sử khiến mảng văn học này
có một vị trí xứng đáng trong đời sống văn học đương đại Việt Nam.
Như vậy, có thể nói đề tài lịch sử là một đề tài có bề dày truyền thống
trong văn học Việt Nam. Viết về lịch sử, người nghệ sĩ vừa có cái thuận lợi là
khai thác một đề tài không phải là mới mẻ mà quen thuộc trong nền văn học
Việt Nam, cùng với một khối lượng lớn những tư liệu của chính sử, những sách
viết về lịch sử, về những người anh hùng dân tộc, lại vừa khó khăn bởi quay về
với những thời kì xa xôi của quá khứ trong khi không có chứng nhân, cũng
không là người tham gia kiến tạo trực tiếp, nhà văn chỉ có cho mình ít mảnh vụn
của thế giới đã qua: những ghi chép lịch sử, những tư liệu khảo cổ, những câu
chuyện lưu truyền trong dân gian... mà trong số đó không phải mảnh nào cũng
khả kiểm, khả tín. Chính vì vậy tạo điều kiện cho nhà văn có thể tự do dẫn dắt
người đọc đến những vùng đất bao la của trí tưởng tượng. Thuận lợi cùng với
những khó khăn, thử thách ấy lại đầy sức quyến rũ đối với người nghệ sĩ. Nó
phụ thuộc rất nhiều vào tài năng và bản lĩnh của mỗi nhà văn.
1.3. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp
1.3.1. Cuộc đời
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950, quê gốc: làng
Khương Hạ (xóm Cò) huyện Thanh Trì nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Thuở nhỏ, ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc bộ từ
Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên... Nông thôn và những người lao động vì
thế để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong nhiều sáng tác của ông. Năm 1960,
ông cùng gia đình chuyển về quê định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà Nội.
Bïi ThÞ H¬ng
11
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc11bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham12document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Ông thân sinh Nguyễn Huy Thiệp là một cán bộ ngành giao thông công
chính, Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn
là người am hiểu Nho học và mẹ vốn là người sùng đạo Phật.
Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội và
được điều đi dạy ở tỉnh Sơn La trong 10 năm. Năm 1980, ông chuyển về Hà Nội
công tác tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó làm việc tại Công ty Kỹ thuật Trắc
Địa Bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu. Ngoài công tác Nhà nước, ông còn
làm nhiều nghề lao động khác để kiếm sống.
Có thể nói, cả cuộc đời Nguyễn Huy Thiệp là cuộc đời với nhiều khó
khăn, vất vả, nhưng bằng nỗ lực của bản thân, ông đã vượt qua mọi khó khăn,
thử thách trở thành một nhà văn chân chính, đóng góp vào việc phát triển nền
văn học Việt Nam giai đoạn sau công cuộc đổi mới (1986) và điều đó được thể
hiện cụ thể qua sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác
Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện muộn trên văn đàn. Năm 1986, ông mới bắt
đầu có tác phẩm đăng báo. Từ đây, ông nổi tiếng với một loạt truyện ngắn có
nhiều sáng tạo mới lạ, mở đầu là truyện Tướng về hưu đến khi mấy truyện gọi là
"giả lịch sử" của ông ra đời (Phẩm tiết, Kiếm sắc, Vàng lửa) thì nhiều cuộc
tranh luận đã nổ ra gay gắt xung quanh nhà văn này.
Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp tính cho đến nay gồm hai thể loại truyện và
kịch.
Truyện gồm khoảng 30 tác phẩm, có thể chia thành 4 loại: "giả cổ tích",
"giả huyền thoại", truyện thế sự, truyện lịch sử. Tất cả đều là những tác
phẩm tự sự ngắn gọi chung là truyện ngắn. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in
dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Sở trường của ông
là truyện ngắn, mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi hướng huyền
Bïi ThÞ H¬ng
12
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc12bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham13document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
thoại, cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao
động. Có thể tạm được phân loại như sau:
+ Truyện về lịch sử và văn học: Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn
Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút thoáng Xuân Hương...
+ Truyện mang hơi hướng huyền thoại, cổ tích: Những ngọn gió Hua Tát,
Con gái Thuỷ Thần, Giọt máu, Muối của Rừng, Chảy đi sông ơi, Trương
Chi...
+ Truyện về xã hội Việt Nam đương đại: Không có vua, Tướng về hưu,
Cún, Sang sông, Tội ác và trừng phạt...
+ Truyện về đồng quê và những người dân lao động: Thương nhớ đồng
quê, Những bài học nông thôn, Những người thợ xẻ...
Ngoài truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp còn viết nhiều kịch, tiêu biểu là
Xuân Hồng, Còn lại là tình yêu, Gia đình (hay Quỷ ở với người dựa theo
truyện ngắn Không có vua). Nhà tiên tri, Hoa Sen nở... và nhiều thơ (chưa xuất
bản tập thơ nào, song thơ xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn của ông).
Năm 1996, Tiểu Long Nữ được coi là "tiểu thuyết đầu tay" - cuốn tiểu
thuyết đầu tiên của ông được chính thức xuất bản bởi Nhà xuất bản Công an
Nhân dân.
Cùng với truyện ngắn, kịch, thơ, tiểu thuyết, Nguyễn Huy Thiệp còn viết
tiểu luận phê bình đăng trên nhiều báo, tạp chí trong nước.
Năm 2004, bài viết Trò chuyện với hoa thuỷ tiên và những nhầm lẫn của
nhà văn của Nguyễn Huy Thiệp đăng trên Tạp chí Ngày nay đã tạo ra những
tranh luận sôi nổi trong giới văn chương một thời gian đầu trên Báo Văn nghệ và
một số trang báo mạng tại Việt Nam.
Sự nghiệp văn học với nhiều thể loại khác nhau, có thể khẳng định
Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng nghệ thuật. Ông đã góp vào sự nghiệp văn
Bïi ThÞ H¬ng
13
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc13bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham14document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
học nước nhà nói chung và vào sự nghiệp đổi mới văn học giai đoạn sau 1986
nói riêng.
1.4. Chùm truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp thành công ở nhiều thể loại nhưng thành công hơn cả
ở thể loại truyện ngắn. Trong đó chùm truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp được nhiều nhà nghiên cứu tranh luận và bạn đọc quan tâm.
Năm 1988, khi ba truyện gọi là "giả lịch sử" của ông ra đời (Phẩm tiết,
Vàng lửa, Kiếm sắc) tiếp đó là các truyện khác Mưa Nhã Nam, Nguyễn Thị
Lộ... thì nhiều cuộc tranh luận đã nổ ra gay gắt xung quanh nhà văn này.
Người ta tập trung tranh cãi về ý nghĩa tiêu cực hay tích cực, về cái tâm và cái
tài của cây bút trẻ. Điều đáng lưu ý là qua các cuộc tranh luận, người ta còn đặt
ra vấn đề đổi mới cách đọc, vấn đề trang bị một "văn hoá đọc" như thế nào đó để
hiểu đúng văn phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Nhưng nhìn chung tất cả đều công
nhận một tài năng độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp. Ông chính là người có nhiều
đổi mới về tư duy nghệ thuật trong văn xuôi Việt Nam, khác hẳn so với lối tư
duy ở giai đoạn trước đó. Nếu như văn học giai đoạn trước, con người là phương
tiện để biểu đạt lịch sử thì bây giờ lịch sử lại trở thành phương tiện để biểu đạt
con người. Mối quan hệ giữa nhà văn với hiện thực như vậy đã thay đổi căn bản.
Hiện thực không bị đóng cứng bởi tiêu chí lịch sử theo tinh thần sử thi mà mang
nội dung sinh động, dân chủ hơn nhiều với hứng thú kiếm tìm "lịch sử trong mỗi
con người" [3, 23]. Lịch sử theo kinh nghiệm cộng đồng chuyển thành lịch sử
theo kinh nghiệm cá nhân. Kinh nghiệm cộng đồng dù phong phú đến đâu cũng
không sánh được với kinh nghiệm cá nhân về tính cụ thể, sinh động và đa dạng.
Thoát khỏi sự lệ thuộc vào hiện thực sử thi, Nguyễn Huy Thiệp là người đã
mạnh dạn trình bày một thái độ tự do đối với lịch sử: Nhào nặn lại chất liệu lịch
sử dùng lịch sử làm cái vỏ nghệ thuật để truyền những thông điệp về hiện tại.
Bïi ThÞ H¬ng
14
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc14bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham15document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Bao nhiêu ý kiến khen chê trái ngược xung quanh của nhà văn này cốt lại đều
xoay quanh hiện thực về con người.
Có thể nói, sự thành công của chùm truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp là ở chỗ các tác phẩm đã đi sâu khám phá "con người bên
trong con người" [3, 23]. Chứng tỏ tính sáng suốt của tư tưởng coi trọng con
người với những "vấn đề tự nó” [3, 23].
Chùm truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp có những
đặc điểm sau:
- Tính đa ngh?a: Truyện thường có nhiều chủ đề.
- Cốt truyện li kì
- Nhân vật đầy góc cạnh, dường như sống đến tận cùng cá tính của mình.
- Khuynh hướng khái quát triết lí
Qua các thiên truyện, Nguyễn Huy Thiệp không hề có ý muốn che giấu
cái tôi của mình. Một cái tôi lưỡng phân, một mặt coi đời là vô nghĩa, là trò đùa,
luôn có giọng ỡm ờ, bỡn cợt, khinh bạc, mặt khác là một cái tôi nghiêm chỉnh
muốn đi tìm khuôn mẫu của con người chân chính, cao cả, con người của nền
văn hoá tương lai.
Chùm truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp cho đến
nay còn nhiều mặt chưa được sự đánh giá, nhất trí trong giới văn học. Tuy
nhiên, dư luận chung thừa nhận đây là một tài năng văn học độc đáo, một sự
kiện rất đáng kể trong đời sống văn học nước ta thời kì đổi mới.
Bïi ThÞ H¬ng
15
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc15bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham16document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
CHƯƠNG 2
TƯ DUY TỰ SỰ LỊCH SỬ TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
2.1. Cảm hứng lịch sử
Trong nền văn học mới của hơn sáu chục năm qua, chủ yếu là văn học
thời gian 1945 - 1975 những nhóm thể tài thế sự và đời tư rất ít phát triển.
Chiếm vị trí chủ đạo là nhóm thể tài lịch sử dân tộc. Do vậy tính chất sử thi là
đặc điểm nổi bật quy định nền văn học này. Tư duy sử thi với một khoảng cách
khó vượt qua giữa nhà văn và đối tượng mà nhà nghiên cứu nổi tiếng Bakhtin
gọi là "khoảng cách sử thi", văn học chuyển sang kiểu tư duy mới: suy ngẫm về
hiện thực, về cái đương đại đang diễn ra, "cái đương đại chưa hoàn thành".
Cùng với kiểu tư duy văn học mới, hiện đại này, đã xuất hiện một thế hệ nhà
văn mới. Họ vừa là sản phẩm của thời đại văn học đổi mới, vừa góp phần đáng
kể tạo nên sự đổi mới tư duy và thành tựu của văn học đổi mới, tạo ra sự "đột
biến" của đời sống văn học.
Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp (1987) đã thật sự gây chấn động đời
sống văn học và rất nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn học. Ngay từ
những sáng tác đầu tay, Nguyễn Huy Thiệp đã khiến công chúng phải sửng sốt.
Đặc biệt là 3 truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp (Kiếm
sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết) tiếp đó là Mưa Nhã Nam, Nguyễn Thị Lộ. Đối tượng
kể chuyện ở đây là lịch sử cách đây trên dưới năm trăm năm, là hiện thực khép
kín trọn vẹn. ở mảng truyện này, người đọc không được tiếp xúc với một cảm
hứng sáng tạo văn chương truyền thống Việt Nam vốn quen thuộc lâu nay. Đó là
cảm hứng sử thi với khí chất hào hùng, chủ yếu đi vào những khía cạnh tích cực
của hiện thực. Giống như ở nhiều truyện khác, cảm hứng chủ yếu trong truyện
ngắn viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng đời thường, có
Bïi ThÞ H¬ng
16
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc16bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham17document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
tính chất phê phán, chĩa vào mặt thứ hai của hiện thực mà ở đó những yếu tố tiêu
cực bộc lộ nhiều hơn, hiện diện rõ hơn, phức tạp hơn. Trước đối tượng lịch sử,
Nguyễn Huy Thiệp không có ý đối lập lại hoàn toàn những gì công chúng đã
biết, đã thừa nhận, nhưng điều đáng nói là Nguyễn Huy Thiệp đã xoá nhoà
"khoảng cách lịch sử" của văn học trước đây để đem đến những cái nhìn mới mẻ
về các nhân vật lịch sử - con người với đầy đủ tính cách, cung bậc tình cảm của
con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Điều này được thể hiện rõ
hơn cả ở quan điểm tiếp cận nhân vật anh hùng trong các sáng tác viết về đề tài
lịch sử của ông: Vua Gia Long - người mở đầu triều đại gần 100 năm nô lệ của
dân tộc cũng là con người nham hiểm, tàn bạo, độc ác - mang những nét tính
cách của con người bình thường; một Nguyễn Huệ - vị anh hùng dân tộc được
kính trọng, quý mến vào bậc nhất của nước ta nhưng ngoài những nét hào hoa,
lịch thiệp, tác giả còn làm nổi bật một điểm yếu đó là tính hiếu sắc, tính mê gái,
âu cũng là một thói “nam nhi thường tình"; rồi Đề Thám "khác người ở thần
thái, ở tinh thần tự chủ cao, nhãn quan bao quát rộng" nhưng lại có cái giống
người bình thường "Đề thám là một anh hùng, cũng là một người nhu nhược"
[24, 184]; một Nguyễn Du văn chương như in, như tạc vào cuộc đời, là đỉnh cao
chói lọi của văn học dân tộc bỗng chốc hoá thành "đứa con hoang của cô gái
đồng trinh” [24, 151] bị "tên đàn ông khốn nạn" [24, 151] là nền văn minh
Trung Hoa "cưỡng hiếp" [24, 151] khiến văn của Nguyễn Du "chứa đầy điển
tích" [24, 151] của tên đàn ông khốn nạn kia; một Nguyễn Trãi văn chương kinh
bang tế thế, đủ sức sửa sang việc đời bỗng chốc hoá thành "nhà duy mĩ khổng
lồ" [24, 302] chỉ có ru với gió, mơ theo trăng và "vơ vẩn cùng mây" [24, 302];
một Nguyễn Thị Lộ chỉ đủ tầm cỡ cho "một trái tim" [24, 299] của Nguyễn Trãi
bỗng nhiên sừng sững trở thành một điểm tựa cho tinh thần suy sụp và cô đơn
của ức Trai.
Bïi ThÞ H¬ng
17
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc17bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham18document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Nói tóm lại, trong truyện ngắn viết về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy
Thiệp, nhà văn đã “kéo xuống” với đời thường những đỉnh cao của lịch sử dân
tộc, trần tục hoá vua Gia Long, Quang Trung và các nhân vật lịch sử như
Nguyễn Du, Nguyễn Trãi làm cho họ mang những tính cách gần gũi với con
người đời thường.
Như vậy, văn học Việt Nam sau 1986 có sự chuyển biến từ tư duy sử thi
sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng lịch sử dân tộc sang cảm hứng đời thường
và đặc điểm này kết tinh chủ yếu trong những truyện ngắn viết về đề tài lịch sử
của Nguyễn Huy Thiệp. Quá khứ lịch sử lúc này đã trở thành đối tượng trung
tâm để nghệ sĩ khám phá, nghiền ngẫm và đưa ra những kiến giải mới về đời
sống con người. Nguyễn Huy Thiệp đã không nhìn lịch sử bằng cảm hứng ngợi
ca, sùng kính, một chiều như trước nữa mà thay vào đó là thái độ khách quan và
cả sự "phán xét" công bằng đối với nó.
2.2. Cách xử lí tư liệu lịch sử
Sau năm 1975, hoàn cảnh đất nước thay đổi, văn học cũng phải có sự
chuyển đổi để đáp ứng nhu cầu mới của đời sống, của công chúng. Theo dõi văn
học từ 1975 đến nay, có thể nhận thấy sự chuyển đổi này theo hai giai đoạn: giai
đoạn đầu, văn học chủ yếu chuyển đổi về chất liệu, về hướng tiếp cận hiện thực
đời sống; giai đoạn sau, là những chuyển đổi trong chiều sâu, trong ý thức của
nhà văn.
Đặc biệt là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Nghị quyết 05 của Bộ Chính
trị và chủ trương "cởi trói" cho văn học nghệ thuật, cuộc gặp gỡ "lịch sử" của
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đông đảo văn nghệ sĩ trong hai ngày của
tháng 10/1987... đó là bối cảnh thuận lợi đã thúc đẩy, tạo nên sự chuyển đổi
mạnh mẽ và sâu sắc của đời sống văn học. Sau sự chuyển đổi về hướng tiếp cận,
lựa chọn chất liệu hiện thực, ở giai đoạn này vấn đề đặt ra đối với văn học là xử
Bïi ThÞ H¬ng
18
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc18bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham19document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
lí chất liệu hiện thực như thế nào? Và trong chùm truyện ngắn viết về đề tài lịch
sử của Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn đã có cách xử lí tư liệu lịch sử ra sao?
Như chúng ta đã biết, bản chất của môn sử học là một khoa học đòi hỏi sự
chính xác còn bản chất của môn sáng tác văn học với tư cách là một sáng tạo
nghệ thuật độc đáo lại khơi gợi ở con người sự xúc cảm có tính thẩm mĩ.
Sử học là ngành khoa học đòi hỏi tính chính xác và sự uyên bác cao. Nhà
sử học là người làm công việc tìm kiếm tài liệu, giám định sử liệu, tái hiện sự
kiện một cách chắc chắn, trên kết quả ấy, tiến hành các bước nhận xét, khái quát,
mô hình hoá, trừu tượng hoá để nhận thức đúng bản chất lịch sử, quy luật lịch
sử. Còn nhà văn khi viết về đề tài lịch sử có quyền hư cấu, nhằm khắc hoạ thêm
chiều sâu tính cách nhân vật, làm cho nhân vật lịch sử sống động hơn, đi sâu vào
tâm trí người đọc dễ hơn so với lối văn của sử bút quá chặt chẽ... Yếu tố sáng
tạo nghệ thuật - trở thành một đặc trưng của văn học.
Lại Nguyên Ân trong bài Đọc văn phải khác đọc sử nhắc lại: "Các phát
ngôn trong văn xuôi nghệ thuật không bao giờ cũng đồng nhất với tư tưởng tác
giả" [17, 180].
Châu Hồng Thuỷ trong bài Làm quen với cây bút trẻ trong ngành giáo
dục (Người GVND 27/6/1988) cũng cho rằng: "Với con mắt của thầy giáo sử
học, anh (tức Nguyễn Huy Thiệp ) không có ý dựng lại chân dung các nhân vật
lịch sử. Lịch sử chỉ là cái cớ để anh suy ngẫm về quan hệ ứng xử giữa người với
người, suy ngẫm về số phận, tâm linh dân tộc" [17, 527-528].
Chính nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng quan niệm: "Lịch sử cũng chỉ là
ước lệ, có tính tương đối, có tính hạn chế chủ quan và khách quan do thời đại
lịch sử quy định” [17, 338].
Để thấy được sự sáng tạo của Nguyễn Huy Thiệp về cách xử lí tư liệu lịch
sử, chúng tôi tiến hành so sánh với các tài liệu chính sử.
Về nhân vật Gia Long, sử sách đã dùng những lời búa rìu để nhận xét.
Bïi ThÞ H¬ng
19
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc19bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
luan van,khoa luan, thac si , su pham20document,pdf,docx,download
Kho¸ luËn tèt nghiÖp §¹i häc
Trêng §HSP Hµ Néi 2
Cuốn Lịch sử Việt Nam giản yếu cũng từng viết: "Cuối 1779, Nguyễn ánh
trở lại chiếm Gia Định, xưng Vương, phong cho Đỗ Thành Nhơn, thủ lĩnh quân
Đông Sơn làm Phụ chính thượng tướng quân. Chẳng được bao lâu (1782), Đỗ
Thành Nhơn lộng quyền bị Nguyễn ánh giết. Từ đó, quân Đông Sơn tan rã, thế
lực của Nguyễn ánh lại suy yếu... Sau lần thất bại thảm hại này, Nguyễn ánh
thấy khó lòng địch nổi quân Tây Sơn đã sai Chu Văn sang cầu cứu quân xiêm”
[20, 282-283].
Trong Đại cương lịch sử Việt Nam (toàn tập):“Chính quyền chúa Nguyễn
bị đánh đổ nhưng Nguyễn ánh vẫn không chịu từ bỏ mong muốn khôi phục cơ đồ
của dòng họ. Sang Xiêm, ánh xin vua Xiêm đem quân đánh Tây Sơn, cứu giúp
mình. Cuối tháng 7 năm 1784, hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương được lệnh
đem 2 vạn thuỷ quân, 300 chiếc thuyền và tướng Chiêu Thuỳ Biên đem 3 vạn bộ
binh cùng Nguễn ánh, Chu Văn Tiếp đánh về Gia Định. Cho đến cuối năm đó,
gần một nửa đất Gia Định đã thuộc về quân Xiêm - Nguyễn ánh” [21, 415].
Cũng trong cuốn này nhấn mạnh: Năm 1802, trước khi hành hình Nguyễn
Quang Toản, Gia Long đã bắt ông phải đem quân lính đào mộ Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ cùng vợ chính, lấy hài cốt giã nhỏ bỏ vào một cái bồ lớn..., xương
đầu thì bỏ vào ngục tối... Các em của Quang Trung đều bị voi giày” [21, 415].
Qua một số tài liệu lịch sử như vậy, ta có cái nhìn về bản chất của Nguyễn
ánh là người thiết lập vương triều, sát hại công thần, trả thù Tây Sơn vì quyền
lợi của dòng họ mà mở đường cho người nước ngoài vào Việt Nam... Chính vì
thế khi đi vào tác phẩm, những hành động, suy nghĩ nhận xét của nhân vật đều
hướng vào thể hiện bản chất đó. Đồng thời, tác giả đã sáng tạo, hư cấu ra những
nhân vật không sử sách nào nhắc đến để khám phá tính cách của chính các nhân
vật đó như Đặng Phú Lân trong Kiếm sắc, Ngô Thị Vinh Hoa trong Phẩm tiết.
Về nhân vật Quang Trung - Nguyễn Huệ, cuốn Lịch sử Việt Nam giản
yếu có ghi: “ Ngày 24 tháng 11, nhận được tin quân Thanh kéo vào xâm lược,
Bïi ThÞ H¬ng
20
tai lieu,dh su pham, luan van thac si,123doc20bao cao,tieu luan,de tai khoa hoc,khoa luan,tieu luan
K32B – Ng÷ V¨n
- Xem thêm -