Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Từ đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác, tăng hiệu quả tiếp nhận khi giảng...

Tài liệu Từ đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác, tăng hiệu quả tiếp nhận khi giảng dạy tác phẩm văn xuôi lãng mạn trong trường phổ thông

.PDF
134
103
137

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN THỊ HỒNG THỊNH TỪ ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI VÀ PHƢƠNG PHÁP SÁNG TÁC, TĂNG HIỆU QUẢ TIẾP NHẬN KHI GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN XUÔI LÃNG MẠN TRONG TRƢỜNG PHỔ THÔNG Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học (Bộ môn Ngữ văn) Mã số : 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2011 DANH MỤC VIẾT TẮT CỦA LUẬN VĂN Nxb Nhà xuất bản: HS Học sinh: THCS Trung học cơ sở: THPT Trung học phổ thông: MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 10 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 11 5. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 13 Chƣơng 1: ĐẶC TRƢNG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM 14 GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 .......................................................................... 1.1. Đặc trưng thể loại truyện ngắn ............................................................. 14 1.1.1. Truyện ngắn ...................................................................................... 14 1.1.2. Truyện ngắn hiện đại......................................................................... 17 1.1.3. Một số loại hình truyện ngắn Việt Nam............................................ 19 1.1.4. Truyện ngắn lãng mạn ...................................................................... 20 1.2. Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam ........................................................ 24 1.2.1. Không gian và thời gian nghệ thuật .................................................. 24 1.2.2. Thế giới nhân vật............................................................................... 29 1.2.3. Ngôn ngữ ........................................................................................... 31 1.3. Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Tuân .................................................... 37 1.3.1. Không gian và thời gian nghệ thuật .................................................. 37 1.3.2. Hình tượng nhân vật .......................................................................... 38 1.3.3. Ngôn ngữ ........................................................................................... 41 1.4. Khái quát chung về lý thuyết tiếp nhận văn chương............................ 43 1.4.1. Văn bản văn học - Chủ thể tác động và định hướng tiếp nhận của giáo viên - học sinh ............................................................................... 43 1.4.2. Hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn chương ....................................... 45 1.4.3. Đặc điểm hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn chương ....................... 47 1.5. Tiểu kết chương 1................................................................................. 50 Chƣơng 2: VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN TRUYỆN NGẮN LÃNG MẠN TRONG TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỐ THÔNG ............................ 52 52 2.1. Thực trạng dạy học truyện ngắn lãng mạn qua hai tác phẩm trong trường Trung học phổ thông: Hai đứa trẻ -Thạch Lam và Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân .................................................................................... 52 2.1.1. Thực trạng giảng dạy ........................................................................ 52 2.1.2. Thực trạng tiếp nhận ......................................................................... 53 2.2. Thực nghiệm dạy truyện ngắn lãng mạn từ đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác .................................................................................. 54 2.2.1. Địa điểm dạy thực nghiệm ................................................................ 54 2.2.2. Mục đích............................................................................................ 54 2.2.3. Cách thức tiến hành ........................................................................... 54 2.2.4. Kết quả điều tra ................................................................................. 55 2.2.5. Những thuận lợi và khó khăn khi tiến hành thực nghiệm ................. 56 2.3. Vận dụng cách thức dạy học tác phẩm văn chương lãng mạn qua đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác nhằm tăng cường hiệu quả tiếp nhận ............................................................................................... 57 2.3.1. Tõ đặc điểm truyện ngắn lãng mạn tiÕp cËn c¸c gi¸ trÞ cña t¸c phÈm ............................................................................................................ 58 2.3.2. Yêu cầu sử dụng phương pháp và biện pháp dạy học hướng học sinh đến quá trình chiếm lĩnh tác phẩm văn chương ........................... 59 2.3.3. Yêu cầu sử dụng phương pháp và biện pháp dạy - học phải hướng đến sự tích cực hóa hoạt động tiếp nhận của học sinh..................... 61 2.3.4. Yêu cầu nội dung và phương pháp dạy học phải phù hợp với tâm lý tiếp nhận của học sinh ..................................................................... 62 2.4. Những đề xuất về cách thức dạy học truyện ngắn lãng mạn ............... 64 2.4.1. Đọc hiểu, đọc theo cảm xúc nhân vật ............................................... 65 2.4.2. Gợi mở, dẫn dắt, định hướng học sinh bằng những câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi gợi cảm xúc ........................................................................ 68 2.4.3. Thông qua lời giảng và bình, phát huy thế mạnh truyền thống trong dạy học tác phẩm văn chương ........................................................... 71 2.5. Tiểu kết chương 2................................................................................. 72 Chƣơng 3: PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC TĂNG HIỆU QUẢ TIẾP NHẬN TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ – THẠCH LAM VÀ CHỮ NGƢỜI TỬ TÙ- NGUYỄN TUÂN ............................................... 74 3.1. Bài thiết kế thể nghiệm ........................................................................ 74 3.1.1. Tiết 37-38 .......................................................................................... 74 3.1.2. Tiết 41 – 42 ....................................................................................... 95 3.2 Bài dạy học thực nghiệm.......................................................................112 3.2.1. Kiểm tra mức độ lĩnh hội của học sinh .............................................112 3.2.2. Kết quả dạy thực nghiệm ..................................................................113 3.2.3. Một số nhận xét .................................................................................114 3.3. Tiểu kết chương 3.................................................................................117 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...........................................................118 1. Kết luận ...................................................................................................118 2. Khuyến nghị ............................................................................................120 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................123 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học vừa là một khoa học đồng thời cũng là bộ môn nghệ thuật đầy phức tạp. Văn học thực sự trở thành chất dinh dưỡng tâm hồn, là chặng đường mà con người đi tìm hạnh phúc để sống tốt hơn, mở rộng hiểu biết, trí tưởng tượng, đưa ta tới những chân trời mà không có văn chương con người không thể cảm và thấy được. Có thể coi dạy văn là một nghệ thuật, nghệ thuật cảm thụ cái đẹp và phô diễn cái đẹp, nó lắng đọng trong tâm hồn, là khát vọng vươn tới chân , thiện, mỹ. Người giáo viên dạy văn là chiếc cầu nối không thể thiếu để học sinh đến được với những giá trị đích thực của tác phẩm văn chương. Bằng tâm huyết, tri thức và khả năng sư phạm của mình, người thày sẽ đem đến cho học sinh những điều mới mẻ, củng cố niềm tin, sự hứng thú, khơi dậy niềm đam mê và tình yêu văn học, để rồi văn học chiếm vị trí xứng đáng trong hành trang tri thức của các em. Cũng từ đây, các em sẽ lớn dần lên qua những giờ dạy văn hiệu quả ấy, bởi văn học nghệ thuật chân chính có khả năng thanh lọc tâm hồn con người, thấy yêu đời, yêu người và lớn hơn một chút. Trong chương trình Ngữ văn THPT, khối lượng truyện ngắn hiện đại khá lớn nên việc giảng dạy sao cho đạt hiệu quả là điều hết sức cần thiết. Nó có tác dụng nâng cao trình độ thưởng thức, nâng cao phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học sinh trong thời đại mới. Truyện ngắn giai đoạn 1930-1945 đã đánh dấu bước chuyển mình của nền văn học dân tộc từ truyền thống sang hiện đại, không ít truyện ngắn giai đoạn này được đánh giá là ngang tầm với các tác phẩm xuất sắc của nền văn học phương Tây hiện đại. Vai trò của chủ thể sáng tạo in dấu ấn rất rõ và chính điều đó đã tạo nên sự đa dạng về phong cách cũng như bút pháp nghệ thuật thể hiện. Dù mỗi nhà văn một quan điểm, một phong cách riêng nhưng 1 đều đóng góp vào quá trình cách tân, hiện đại hoá thể loại giúp cho truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả bề rộng lẫn chiều sâu và theo xu hướng phát triển chung của nền văn học thế giới. Trong đội ngũ văn nghệ sĩ, các nhà văn lãng mạn có nhiều đóng góp vào sự phát triển, trưởng thành và cách tân truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Trong số những cây bút truyện ngắn lãng mạn xuất sắc của Văn học Việt Nam thế kỷ XX được đưa vào giảng dạy ở trường THPT, khó thiếu vắng tên tuổi của hai nhà văn lãng mạn: Thạch Lam và Nguyễn Tuân. Xuất phát từ những đóng góp to lớn của ngòi bút tài hoa, độc đáo Thạch Lam và Nguyễn Tuân, xuất phát từ lòng yêu mến, cảm phục, tri ân đối với hai nhà văn lãng mạn, chúng tôi chọn đề tài “Từ đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác, tăng hiệu quả tiếp nhận khi giảng dạy tác phẩm văn xuôi lãng mạn trong trường phổ thông” Chọn đề tài này, từ việc đi vào tìm hiểu đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, luận văn chú trọng tới phương diện tăng hiệu quả tiếp nhận cho học sinh khi học hai tác phẩm văn xuôi lãng mạn, Hai đứa trẻ của Thạch Lam và Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân (chương trình Ngữ văn 11-tập I). Với đề tài này, chúng tôi muốn có cái nhìn khoa học đối với vấn đề thi pháp nghệ thuật, đồng thời giúp giáo viên và học sinh có cái nhìn đầy đủ, toàn diện, chính xác hơn về hai truyện ngắn lãng mạn, để thực thi việc đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề Cho đến nay, nhiều công trình nghiên cứu về đặc trưng và thể loại và phương pháp sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân đã khẳng định những đóng góp lớn lao của hai tác giả này. Nhưng từ đặc trưng thể loại và phương 2 pháp sáng tác, tăng hiệu quả tiếp nhận cho học sinh thì chưa được đề cập một cách có hệ thống và chiều sâu cần thiết. 2.1. Xét trong thời kỳ văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX Sự xuất hiện của Thạch Lam, Nguyễn Tuân đã mở ra một bước tiến cho văn xuôi nghệ thuật nói chung và địa hạt truyện ngắn nói riêng. Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày văn phẩm đầu tay của Thạch Lam, Nguyễn Tuân ra đời, đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về thân thế, sự nghiệp và đặc biệt là truyện ngắn của nhà văn. Điểm qua những tài liệu viết về Thạch Lam, Nguyễn Tuân, sáng tác của hai nhà văn này đã tạo ra được sức hút khá lớn, cùng một sức mạnh chinh phục khá đặc biệt đối với giới phê bình nghiên cứu và giới học đường. Chân dung hai cây bút văn xuôi lãng mạn hiện lên mỗi ngày một sáng tỏ. Một cách tổng quát, có thể thấy các tài liệu nghiên cứu về Thạch Lam, Nguyễn Tuân xoay quanh ba nội dung lớn. Thứ nhất là, các tài liệu viết về đặc điểm con người của Thạch Lam, Nguyễn Tuân hoặc những kỷ niệm sâu sắc với nhà văn. Đây là những bài viết của những người thân, bạn bè, những nhà văn, nhà phê bình từng gặp gỡ, tiếp xúc với nhà văn hoặc nghiên cứu về ông. Tiêu biểu là các bài viết: Người em thứ sáu (Hồi kí) của Nguyễn Thị Thế; Thạch Lam - cha tôi trong trí tưởng của Nguyễn Tường Giang; Thạch Lam - một nhà văn yêu người như yêu mình của Vũ Bằng… Thứ hai là, các bài viết đưa ra nhận xét, đánh giá khái quát về Thạch Lam, Nguyễn Tuân. Đây là những tài liệu nghiên cứu về thành tựu của văn học Việt Nam thời kỳ từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng Tám 1945. Trong những tài liệu này, các chuyên gia nghiên cứu về văn học Việt Nam hiện đại đã đưa ra những nhận xét, đánh giá về giá trị văn chương Thạch Lam, Nguyễn Tuân và khẳng định đóng góp của ông vào thành tựu chung của công cuộc hiện đại hoá văn học nước nhà, nhằm mục đích làm rõ những đánh giá 3 khái quát về thời kỳ văn học. Chẳng hạn như các bài viết: Tình hình chung văn học lãng mạn 1932-1945; Tự lực văn đoàn của Phan Cự Đệ; Thạch Lam văn chương và cái đẹp của Vũ Tuấn Anh… Thứ ba là, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về truyện ngắn Thạch Lam, Nguyễn Tuân. Tác giả của những tài liệu này là các nhà nghiên cứu phê bình, học viên Cao học, nghiên cứu sinh, những người trực tiếp làm công tác giảng dạy và học tập về Thạch Lam, Nguyễn Tuân. Tìm hiểu những tài liệu trên, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã đưa ra phân tích, đánh giá sâu sắc về quan niệm văn chương của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, thi pháp và phong cách văn chương, cảm hứng chủ đạo, đồng thời có những nhận định xác đáng về giá trị văn chương Thạch Lam, Nguyễn Tuân. Riêng vấn đề làm thế nào để tăng hiệu quả tiếp nhận khi giảng dạy tác phẩm văn xuôi lãng mạn trong trường phổ thông đã có một số tác giả nhắc đến ở chỗ này hay chỗ khác, nhưng chưa được nghiên cứu toàn diện và sâu sắc. 2.2. Những ý kiến đánh giá, nhận xét về đặc trưng truyện ngắn lãng mạn của Thạch Lam Ngay từ khi tập truyện ngắn đầu tay Gió đầu mùa (Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1937) vừa mới xuất hiện, một số tác giả đã nhận thấy phạm vi hiện thực được phản ánh trong truyện ngắn Thạch Lam là đời sống bên trong của con người. Viết lời tựa cho Gió đầu mùa, Khái Hưng nhận xét: “Nếu ta có thể chia ra hai hạng nhà văn: nhà văn thiên về tư tưởng và nhà văn thiên về cảm giác thì tôi quả quyết đặt Thạch Lam vào hạng dưới. Ở chỗ mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời có khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói, nói một cách giản dị cái cảm giác của ông, cái cảm giác ấy bao quát hết tư tưởng của tác giả và của độc giả, nhiều khi đi xa hơn, sâu hơn tưởng, vì có cái ta cảm thấy mà không thể dùng tư tưởng để mô tả cảm giác của ta” 4 [1,tr.273]. Như vậy, cây bút chủ chốt của Tự lực văn đoàn đã nhận ra Thạch Lam là nhà văn thiên về cảm xúc, cảm giác. Tiếp nối sự phát hiện đột khởi của Khái Hưng, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cũng nhấn mạnh Thạch Lam: “Có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút miêu tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, những tình cảm, cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ cả các hạng người, mà ông tả một cách thật tinh vi” [1,tr.47]. “Tất cả các nhân vật trong truyện của Thạch Lam đều có những cái phảng phất của tâm hồn Thạch Lam” [1,tr.59]. Ý kiến của Vũ Ngọc Phan đã nhận đựơc sự đồng tình của nhiều nhà nghiên cứu về Thạch Lam. Trong bài Tính cách tạo tác của Thạch Lam, Thế Lữ khẳng định, sự thực của tâm hồn mà Thạch Lam diễn ra trong lời văn chương phức tạp nhiều hình nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương: “Bao nhiêu băn khoăn về nghệ thuật, bao nhiêu tư tưởng cũng như tình cảm rung động, lúc nào cũng chứa chất dồi dào trong tâm trí, cái kho tàng cuộc sống bên trong ấy rất sẵn châu báu mà chỉ cầm đến bút, Thạch Lam thấy dàn xếp theo hình thể của lời” [1,tr.148]. Như vậy, Thế Lữ đã nhận thấy sự hoá thân sâu sắc và yếu tố cảm xúc trong sáng tác của Thạch Lam. Liên quan đến vấn đề đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác trong truyện ngắn Thạch Lam, nhiều tác giả đã nói đến cốt truyện và kết cấu, nhân vật, giọng điệu, ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Thạch Lam. Phần lớn ý kiến của các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh cốt truyện của Thạch Lam rất đơn giản, hầu như không có chuyện gì đáng kể. Trần Ngọc Dung cho rằng: “Nhiều truyện ngắn của Thạch Lam là loại truyện ngắn không có truyện” [1,tr.230]. Nhà nghiên cứu Bích Thu nhận xét về việc phản ánh thế giới nội tâm của con người trong truyện ngắn Thạch Lam: “Dễ nhận thấy 5 nhân vật của Thạch Lam ít được nhấn mạnh về điệu bộ, cử chỉ, dáng vẻ bên ngoài mà là những nhân vật “hướng nội” có đời sống bên trong, ẩn chứa những bí mật của “cõi người” mà nhà văn đặt mục đích khám phá và phát hiện”[1,tr.146] Đây chính là nét độc đáo trong sáng tác của Thạch Lam. Nhận xét giọng điệu truyện ngắn Thạch Lam, các nhà nghiên cứu đều khẳng định giọng điệu chủ đạo trong truyện ngắn Thạch Lam là giọng điệu trữ tình sâu lắng. Nguyễn Hoành Khung khẳng định: “Với ngòi bút giản dị, tinh tế lạ thường, ngôn ngữ đặc biệt trong sáng, đầy chất thơ, Thạch Lam đã góp phần nâng cao trình độ truyện ngắn Việt Nam lên một bước mới” [1,tr.204]. Nguyễn Thành Thi trong cuốn Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, xuất bản năm 1999 có viết: “Truyện ngắn của Thạch Lam rất giàu chất thơ. Chất thơ ấy man mác trong giọng điệu, ngôn ngữ truyện ngắn của ông. Thạch Lam hình như muốn trải tấm lòng của ông, của người trong truyện lên những trang văn. Nhưng dù ở đâu và bao giờ câu văn Thạch Lam vẫn chỉ là lời thủ thỉ tâm tình, bình dị, trong sáng. Câu văn của Thạch Lam luôn dồi dào cảm giác, uyển chuyển mà mực thước, kín đáo” [33,tr.144]. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng Hai đứa trẻ trong truyện ngắn của Thạch Lam vẫn là những hình tượng nghệ thuật đầy sức sống trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Cái gì đã mang đến một sức sống lâu bền như vậy cho tác phẩm? Phải chăng cái tạo nên sức lôi cuốn ấy chính là tài năng nghệ thuật của nhà văn Thạch Lam. Với bài viết Thạch Lam, Nguyễn Tuân đã là người đã đề xuất những ý kiến xác thực đầu tiên về Hai đứa trẻ: “Truyện có một hương vị thật man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai. Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín” [1,tr.61]. Nguyễn Thanh Hồng lại hướng 6 về thứ ánh sáng khác trong truyện ngắn Hai đứa trẻ đó là ánh sáng của tình người “cảm xúc sâu đậm đến với người đọc là tình người giữa những dân nghèo của phố huyện vào một thời khắc bình lặng của cuộc sống. Cuộc sống nghèo nơi phố huyện chỉ là cái nền để tác giả nói tới quan hệ giữa những người dân mộc mạc trong cảnh sống bình thường. Cái tình người chân chất bàng bạc khắp thiên truyện” [1,tr.330]. Hướng sự chú ý đến xung đột, Đỗ Đức Hiểu viết: “Có thể thấy ở Hai đứa trẻ, truyện của xung đột giữa bóng tối và ánh sáng, bóng tối hay nghèo nàn và cô đơn, ánh sáng chỉ là ước mơ thoáng qua. Mở đầu truyện, ánh sáng tắt dần, kết thúc truyện bóng tối tràn ngập phố huyện, hay tràn ngập thế giới. Và có thể thấy ở đây triết lý của Thạch Lam về thân phận con người” [1,tr.334]. Khác với những đánh giá về sự khai thác tuyệt vời tâm trạng nhân vật của Thạch Lam, nhà nghiên cứu Văn Tâm chú ý tính dân tộc của hồn văn Thạch Lam: “Sức hấp dẫn chủ yếu của những trang viết Thạch Lam là ở tâm hồn dân tộc. Cái ngữ điệu nhỏ nhẹ mà man mác thi vị, những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dễ rung động như cánh bướm non” [1,tr.329]. Những trích dẫn trên đây chỉ là số ít trong vô vàn các kiến giải về Hai đứa trẻ. Dễ nhận thấy ở các công trình này là sự chú ý dành cho tâm trạng nhân vật. Việc khai thác tâm trạng đã chạm đến hàng loạt thuật ngữ có liên quan như: hiện thực tâm trạng, cốt truyện tâm lý. Đây chính là điểm khác biệt của Thạch Lam với các nhà văn hiện thực và thậm chí ngay cả các thành viên Tự lực văn đoàn. Qua những ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học về những nét đặc trưng cho phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam. Qua Hai đứa trẻ, ta thấy rõ những tìm tòi, thể nghiệm trong lĩnh vực truyện ngắn của riêng ông đã làm nên gương mặt Thạch Lam khó lẫn trong Tự lực văn đoàn và trong làng văn hiện đại. 7 2.3. Các ý kiến đánh giá, nhận xét về đặc trưng truyện ngắn lãng mạn của Nguyễn Tuân qua Chữ người tử tù Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Mỗi trang viết của ông đều thể hiện sự tài hoa uyên bác hết mực của người viết. Mọi sự vật, hiện tượng được miêu tả dù chỉ là cái ăn, cái uống cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật. Ông thường đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là vang bóng một thời. Văn Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Những giá trị tích cực nhất trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám 1945 là tinh thần dân tộc biểu hiện qua việc khai thác và gìn giữ cái đẹp truyền thống. Ông có ý thức giữ gìn, chắt chiu làm giàu cho tiếng Việt. Sống trong hoàn cảnh mất nước, những tình cảm tha thiết của Nguyễn Tuân đối với dân tộc, với những vẻ đẹp truyền thống được thể hiện qua sự gắn bó, trân trọng tiếng mẹ đẻ. Ông thấu hiểu sâu sắc đến mức tinh vi vẻ đẹp của tiếng nói dân tộc. Trong suốt cuộc đời mình, Nguyễn Tuân không ngừng tìm kiếm, khám phá thêm những nét đẹp mới, làm giàu có hơn vốn từ vựng tiếng Việt. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân nhiều màu sắc, đa thanh, có khả năng gợi cảm, gợi hình. Nguyễn Quang Trung cũng nhận xét: “Tôi luận bàn về phép chữ Nguyễn Tuân trong mặc cảm: càng nói càng thiếu… Song luận gì về Nguyễn cũng chớ quên văn ông không chỉ là toà lâu đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn” [35,tr.79]. Vũ Dương Quỹ khẳng định “Một trong những đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn đồng thời cũng là nét thi pháp riêng của ngòi bút Nguyễn Tuân là sự đối lập giữa lý tưởng và hiện thực cuộc sống, giữa tính cách và hoàn cảnh. Ở nhân vật quản ngục, những đối lập ấy tạo ra chiều sâu tâm lý. Làm cái nghề coi tù, sống giữa lũ người quay quắt, hàng ngày chứng kiến bao cảnh xô 8 bồ, hỗn tạp, viên quản ngục lại biết kính mến khí phách, biết trọng người tài” [28,tr.63]. Chữ người tử tù dựng lên một thế giới tối tăm, ngục tù, trong đó kẻ tiểu nhân, bọn độc ác bất lương làm chủ. Trên cái tối tăm ấy, hiện lên ba đốm sáng lẻ loi, cô đơn, Huấn Cao, người quản ngục và viên thơ lại, những con người có tài và biết trọng tài, có nghĩa khí và biết trọng nghĩa khí. Họ tình cờ gặp nhau trong một tình thế éo le, từ chỗ ngờ vực nhau, đối địch nhau, dần đi đến hiểu nhau và trở thành tri kỷ. Ba đốm sáng cô đơn ấy cuối cùng tụ lại, tạo thành ngọn lửa ngùn ngụt rực sáng giữa chốn ngục tù “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Cái đẹp, cái tài, sự trong sạch của tâm hồn đã tập hợp họ lại giữa cái nơi xưa nay chỉ có gian ác, thô bỉ và hôi hám “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi trên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái tài, cái đẹp đối với cái nhem nhuốc, tục tằn, của thiên lương đối với tội ác. Như vậy, chất nghệ sĩ tài hoa của Nguyễn Tuân đã nhập vào đám nhân vật tài hoa, tài tử, vào cái tiểu thế giới của Nguyễn Tuân mang dáng dấp phong cách nhà văn. Ở đó, Huấn Cao là nhân vật lãng mạn tiến bộ. Các nhân vật lãng mạn ít nhiều đều đựơc phóng đại và lý tưởng hoá. Tác giả đã xây dựng một cặp nhân vật có tính cách gần giống nhau (quản ngục và Huấn Cao) và nhân vật quản ngục sẽ làm tôn lên vẻ đẹp cao cả của Huấn Cao. Vũ Dương Quỹ trong Những nhân vật - Những cuộc đời, nhận xét: “Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình. Đấy đâu chỉ là lời đánh giá của viên quản về thày thơ lại. Đấy chính là tình yêu và sự bao dung của Nguyễn Tuân chia đều cho các nhân vật trong cuộc tương ngộ dưới vẻ đẹp trắng trong và 9 ngan ngát hương thơm của Chữ người tử tù. Và cũng là những dòng chữ, tấm lòng thơm ngát của nhà văn gửi lại mỗi bạn đọc chúng ta ngày nay” [28,tr.60] Trên đây là một số ý kiến đánh giá về đặc trưng nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Tuân, Thạch Lam và đặc biệt là hai truyện ngắn Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ. Trong luận văn này, chúng tôi tiếp thu các ý kiến đó để tạo cơ sở nhìn nhận về đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác của hai nhà văn lãng mạn Thạch Lam và Nguyễn Tuân một cách toàn diện hơn. Xuất phát từ thực tiễn đó, luận văn tập trung vào việc tăng hiệu quả tiếp nhận cho học sinh khi giảng dạy hai tác phẩm văn xuôi lãng mạn trong trường phổ thông, đó là Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng khoa học mà luận văn đề cập đến là từ đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác, tăng hiệu quả tiếp nhận cho học sinh khi giảng dạy tác phẩm văn xuôi lãng mạn trong trường phổ thông. Ở đây, hầu như các bình diện chính yếu trong sáng tác của Thạch Lam và Nguyễn Tuân đều được đề cập xem xét tương đối đầy đủ nhưng chủ yếu là làm rõ những đặc sắc, độc đáo trong thể loại và phong cách sáng tác cũng như những đóng góp cụ thể của các tác giả trên các bình diện này. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong các truyện ngắn của mình, Thạch Lam không khai thác những cốt truyện giật gân, ly kỳ hay tạo ra những cốt truyện giàu kịch tính và hành động mà đi sâu vào nội tâm tìm cảm giác nhân vật. Có thể Thạch Lam là “nhà văn khai sáng” kiểu truyện này. Cũng ở thời kỳ này, nhà văn Nguyễn Tuân được coi là “Nhà văn đặc biệt Việt Nam” bởi sự uyên bác độc đáo. Chính vì thế trong quá trình giảng 10 dạy tác phẩm của hai nhà văn Thạch Lam và Nguyễn Tuân, chúng ta thường gặp phải khó khăn là tâm lý học sinh thường không thích và ngại khó khi tiếp cận văn bản. Vì thế, luận văn với đề tài: Từ đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác, tăng hiệu quả tiếp nhận khi giảng dạy tác phẩm văn xuôi lãng mạn trong trường phổ thông, đi sâu vào việc tăng hiệu quả tiếp nhận khi giảng dạy hai truyện ngắn của Thạch Lam, Nguyễn Tuân trong chương trình Ngữ văn 11 - Tập I. Đó là Hai đứa trẻ (Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, Hà Nội 1998) và Chữ người tử tù (Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập I, NXB văn học, Hà Nội 1998). Đồng thời tham khảo thêm một số truyện ngắn khác của Thạch Lam và Nguyễn Tuân. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp thống kê Phương pháp thống kê được sử dụng trong quá trình nghhiên cứu với mục đích tập hợp, thống kê những tác phẩm văn xuôi lãng mạn đã được đưa vào giảng dạy trong trường trung học phổ thông. Sử dụng phương pháp thống kê, người viết tập hợp được những phương pháp giảng dạy của giáo viên khi phân tích, tìm hiểu các giá trị của tác phẩm văn xuôi lãng mạn và tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp nhận những tác phẩm này. Qua thống kê người viết rút ra những kết luận ban đầu về tác dụng, hiệu quả thẩm mĩ của tác phẩm văn xuôi lãng mạn nói chung và các tác phẩm của Nguyễn Tuân, Thạch Lam nói riêng được giảng dạy trong nhà trường đối với người học. 11 4.2. Phương pháp từ thi pháp học Phương pháp phân tích xuất phát từ thi pháp học bám sát đặc trưng thể loại của tác phẩm văn xuôi lãng mạn, từ đó tìm ra những giá trị cả về nội dung và nghệ thuật của hai tác phẩm Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) và Hai đứa trẻ (Thạch Lam) 4.3. Phương pháp khảo sát trực tiếp Phương pháp khảo sát trực tiếp được tiến hành với hai đối tượng: giáo viên và học sinh. Từ phương pháp này, người viết sẽ có được những số liệu thực tế của vấn đề nghiên cứu (thông qua các phiếu hỏi và phỏng vấn trực tiếp…) 4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu So sánh, đối chiếu được sử dụng trong luận văn với mục đích làm nổi bật những ưu thế của phương pháp giảng dạy các tác phẩm văn xuôi lãng mạn được giảng dạy từ đặc trưng thể loại và phương pháp sáng tác với các phương pháp khác. 4.5. Phương pháp phân tích hệ thống Sử dụng phương pháp phân tích hệ thống đặt các tác phẩm được nghiên cứu và các phương pháp giảng dạy vào hệ thống mang tính đặc thù, từ đó có điều kiện để tìm hiểu sâu sắc hơn đối tượng. Hệ thống hóa lại những ý kiến đánh giá của người đi trước, cùng với sự tìm hiểu, cảm nhận của bản thân, chúng tôi phân tích các vấn đề liên quan đến thể loại và phương pháp sáng tác nhằm làm nổi bật đặc điểm riêng của hai nhà văn lãn mạn và chọn hai tác phẩm giảng dạy trong chương trình trung học phổ thông (lớp 11) để tìm ra hướng khơi gợi làm tăng hứng thú cho học sinh khi tiếp nhận hai văn bản này. 12 Các phương pháp nghiên cứu trên không tồn tại độc lập mà luôn có sự đan xen, hỗ trợ nhau trong quá trình nghiên cứu tạo ra sự cộng hưởng về hiệu quả. 5. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 3 chương với nhiệm vụ cụ thể sau: Chƣơng 1: Đặc trưng văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 1945 Chƣơng 2: Vấn đề tiếp nhận tác phẩm truyện ngắn lãng mạn trong trường trung học phổ thông. Chƣơng 3: Phương pháp dạy học tăng hiệu quả tiếp nhận tác phẩm Hai đứa trẻ - Thạch Lam và Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân. 13 Chƣơng 1: ĐẶC TRƢNG VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 – 1945 1.1. Đặc trƣng thể loại truyện ngắn 1.1.1. Truyện ngắn Tác phẩm văn học là sự thống nhất trọn vẹn của các yếu tố, đề tài, chủ đề, tư tưởng nhân vật, kết cấu, cốt truyện, lời văn. Sự thống nhất ấy được thực hiện theo những quy luật nhất định. Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể. Truyện là một khái niệm chỉ chung cho truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn. Nó là một loại văn tự sự, kể chuyện và trình bày sự việc. Văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng có những yếu tố cơ bản là: Tình huống nghệ thuật, tình tiết, cốt truyện, nhân vật, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ. Có một số truyện viết bằng văn vần nhưng phần lớn được viết bằng văn xuôi. Từ trước đến nay vẫn tồn tại nhiều cách phân loại truyện ngắn tùy vào nội dung hay hình thức tác phẩm. Có thể dựa vào thể tài chia ra: truyện ngắn sử thi, truyện ngắn thế sự, truyện ngắn đời tư. Có thể dựa vào khuynh hướng cảm hứng, chia ra: truyện ngắn trào phúng, truyện ngắn trữ tình - lãng mạn. Căn cứ vào tính chất của cốt truyện có thể chia ra: truyện sự kiện và truyện tâm lý. Căn cứ vào hướng tiếp cận và khám phá cuộc sống ta có: truyện hướng ngoại và truyện hướng nội. Hoặc căn cứ vào số chữ của tác phẩm, ta có: truyện ngắn, truyện rất ngắn, truyện siêu ngắn. Do vậy, có thể hiểu “truyện ngắn là truyện bằng văn xuôi có dung lượng nhỏ, số trang ít, miêu tả một khía cạnh tính cách, một mẩu trong cuộc đời của nhân vật, là hình thức tự sự cỡ nhỏ, ngày càng thu hút sự chú ý của nhà văn cũng như của bạn đọc” [36,tr.1054]. 14 Nội dung thể loại truyện ngắn có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó lại là ngắn. Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời nhưng đa phần là một đoạn đời, một sự kiện hay một “chốc lát” trong cuộc sống nhân vật, nhưng cái chính của truyện ngắn không phải ở hệ thống sự kiện mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời. Ở nhiều nước trên thế giới, truyện ngắn gắn liền với báo chí: khuôn khổ báo chí không cho phép dài, họ gọi truyện ngắn là một giọt nước. hay một tấm lưới phải cắt bỏ rất nhiều, cũng có khi là tảng băng trôi, là bức ảnh chụp nhanh, bằng chứng hình sự, viên sỏi, hay là con đom đóm trong đêm tối. Nhưng truyện ngắn không phải là tiểu thuyết ngắn mà là một thể loại khác hẳn. Tác giả truyện ngắn thường hướng tới khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người, tạo thành một ấn tượng hoàn chỉnh. Nhiều nhà văn quan niệm, truyện ngắn phản ánh một khoảnh khắc, một mẩu nhỏ nào đó của cuộc sống, câu chuyện đựơc tổ chức chung quanh một tình huống đặc biệt, có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa ra nước mắt. Với số lượng ít ỏi của câu chữ, truyện ngắn ngắn gọn, súc tích dồn nén như bàn tay siết lại thành nắm đấm. Vì vậy, truyện ngắn thường rất ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Chỗ khác biệt quan trọng giữa tiểu thuyết và truyện ngắn là nếu nhân vật chính của tiểu thuyết thường là một thế giới, thì nhân vật truyện ngắn là mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không nhằm tới việc khắc họa nhiều tính cách điển hình có cá tính đầy đặn và nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật truyện ngắn thường ít và chỉ hiện lên ở một trạng thái quan hệ, mang một ý thức xã hội hoặc là một trạng thái tồn tại của con người. Mặt khác, truyện ngắn lại có thể mở rộng diện nắm bắt các kiểu, loại nhân vật đa dạng của cuộc sống, chẳng hạn như: chức nghiệp, xuất thân, gia hệ, bạn bè, những kiểu loại mà trong tiểu thuyết thường hiện ra thấp thoáng các nhân vật phụ. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan