LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của Th.S Đinh Thảo Quyên - Giảng viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Các dữ liệu và kết quả trình bày trong khóa luận
là trung thực và chưa từng công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả khóa luận
Lê Thị Toàn
1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời tri ân chân thành tới Th.S Đinh Thảo Quyên – người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu, đặc biệt là sự đóng
góp những ý kiến giúp tôi có thể hoàn thành khóa luận một cách trọn vẹn nhất.
Cùng với đó, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy, Cô Khoa Tâm lý học
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể các bạn sinh viên Khoa Tâm lý
học đã luôn sẵn lòng và tích cực hỗ trợ tôi trong quá trình tiến hành nghiên cứu thực
tiễn giúp tôi thu thập được những số liệu định lượng và định tính quan trọng để có thể
hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người cô, người bạn và gia
đình đã luôn hiện diện và ủng hộ tôi thời gian qua để tôi vững vàng hơn trong việc
hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Trong giới hạn về khả năng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi vẫn còn nhiều
thiếu sót nên rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cô để tôi có thể
hoàn thiện và phát triển đề tài về sau.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Lê Thị Toàn
2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Nội dung viết tắt
1
ĐLC
Độ lệch chuẩn
2
ĐTB
Điểm trung bình
3
ĐRL
Điểm rèn luyện
4
ĐHSP TP.HCM
Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
3
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân bố mẫu nghiên cứu ................................................................. 44
Bảng 2.2. Phân chia mức độ tự chấp nhận dựa trên giá trị trung bình ............. 47
Bảng 2.3. Hệ số tin cậy của thang đo ............................................................... 47
Bảng 2.4. Mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh ................................................................... 48
Bảng 2.5. Một số khía cạnh nổi bật trong tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm
lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh ............................... 50
Bảng 2.6. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các giới tính ..................... 53
Bảng 2.7. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các năm học ........................ 54
Bảng 2.8. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các học lực.......................... 54
Bảng 2.9. Điểm trung bình về tự chấp nhận giữa các kết quả rèn luyện ......... 55
Bảng 2.10. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận cao .......................................... 56
Bảng 2.11. Các chủ đề sinh viên tự chấp nhận thấp ........................................ 57
Bảng 2.12. Các yếu tố tác động đến tự chấp nhận ........................................... 59
4
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1. Phân bố mức độ tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường
ĐHSP TP.HCM ................................................................................................ 49
Biểu đồ 2.2. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Khi quyết định đặt mục tiêu cho
chính mình thì việc cố gắng để đạt được hạnh phúc quan trọng hơn là cố gắng
để chứng tỏ bản thân” ....................................................................................... 51
Biểu đồ 2.3. Phân bố lựa chọn cho mệnh đề “Tôi nghĩ rằng ai thành công trong
những việc họ làm là người có giá trị đặc biệt” ............................................... 52
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Những thay đổi nhanh chóng trong sự biến động của văn hóa – xã hội tác động
không nhỏ đến những cảm nhận của đời sống con người. Con người dễ rơi vào bế tắc,
khủng hoảng và gặp những rối nhiễu tâm lý hơn khi tự mình họ không chấp nhận
được thực tại. Với những khó khăn gặp phải, những thất vọng, những oán trách,... mỗi
người có thể mơ tưởng một thực tế khá hơn thực tại này, mong muốn bản thân khác
đi, luôn muốn được sống thật với những gì mình là. Tuy nhiên, con người lại chịu tác
động từ những định kiến và lề luật cứng nhắc, từ những trải nghiệm cá nhân trong
việc bị bắt lỗi, bị xét đoán, bị từ chối đã khiến họ hành xử khác đi. Có thể nói, một
trong những nhu cầu sâu xa nhất trong trái tim con người là được tôn trọng, được đón
nhận. Điều quan trọng là việc cá nhân tin rằng mình đáng quý và thật sự có giá trị bất
kể những lỗi lầm hay thất bại, bởi khi là chính mình thì họ mới không cần phải đóng
giả một ai đó khác, họ can đảm và tự do hơn trong việc thể hiện những gì rất thật của
bản thân. Điểm khởi đầu để có một cuộc sống khỏe mạnh về tinh thần đó là việc chấp
nhận thực tại, chấp nhận chính mình như những gì mình là. Chỉ khi chấp nhận chính
mình với một cái tôi cá vị về mặt tâm lý và hiện tại, cá nhân mới có thể cảm nhận
hạnh phúc trong sự tồn tại của đời sống con người. Vậy việc một cá nhân ý thức sự
tự chấp nhận, hòa giải với chính mình, đón nhận mọi sự như chính nó được thể hiện
như thế nào?
Theo quan đểm của Albert Ellis, tự chấp nhận vô điều kiện được xem là một
thành tố thay thế cho lòng tự trọng, phát triển trong liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý
(REBT - Rational Emotive Behavior Therapy), ông nhấn mạnh đến tầm quan trọng
của việc “cá nhân chấp nhận những sự kiện bên trong, hướng đến sự tồn tại như một
tiến trình (ongoing process) – một cá nhân có quá khứ, hiện tại và tương lai; bất kì
một sự đánh giá nào về bản thân đều chỉ áp dụng cho một thời điểm nhất định và
không có tính liên tục”.
Với sự quan trọng của mình, tự chấp nhận vô điều kiện được rất nhiều sự quan
tâm, chú ý của các nhà tâm lý học trên thế giới. Nhiều công trình nghiên cứu về mối
liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện và các thành tố trong đời sống tâm lý của con
người như tự chấp nhận vô điều kiện và các yếu tố sức khỏe tâm lý (Unconditional
6
Self-Acceptance and Psychological Health) (Chamberlain & Haaga, 2001), nghiên
cứu của Thompson và Waltz về mối liên hệ giữa chánh niệm, lòng tự trọng và tự chấp
nhận vô điều kiện (Mindfulness, Self-Esteem and Unconditional Self-Acceptance)
(Thompson & Waltz, 2007) hay nghiên cứu về niềm tin phi lý và tự chấp nhận vô
điều kiện (Irrational Beliefs and Unconditional Self-Acceptance) (Davies, 2008). Bên
cạnh đó, kết quả của những nghiên cứu khác đều cho thấy vai trò quan trọng của tự
chấp nhận vô điều kiện, trong đó ý nghĩa sâu xa là việc cá nhân từng bước tìm cách
thấu hiểu chính mình và cuộc sống chứ không phải kiểm soát, đề từ đó dần xây dựng
lòng tin nhằm tìm ra hướng giải quyết thích hợp cho mình và cho người khác.
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào xem xét về
tự chấp nhận, cụ thể là ở thanh niên sinh viên. Trong khi đó, sinh viên là lứa tuổi đang
trong giai đoạn với những biến động rất riêng của đời người, đối diện với rất nhiều
những khó khăn, những tác động từ gia đình, xã hội và từ chính những trải nghiệm cá
nhân. Tâm lý học - một khoa học đặc thù nhằm phục vụ và hướng đến sự phát triển
đời sống con người, các bạn sinh viên đang chọn theo học Tâm lý học hướng đến việc
có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn về đời sống tâm lý con người, trên mọi phương
diện và ở các mức độ khác nhau. Giá trị cuối cùng, có thể là cao nhất nơi những người
theo học là giúp chính bản thân người học hiểu được về chính mình, tự rèn luyện, tự
điều chỉnh mình theo hướng tích cực nhất (Huỳnh Văn Sơn, 2016). Liệu rằng các sinh
viên đang theo học ngành Tâm lý học có sự tự chấp nhận ở mức độ nào, đâu là những
yếu tố nào tác động đến việc sinh viên tự chấp nhận bản thân?
Nhằm cung cấp thêm một phần lý thuyết cũng như góc nhìn khoa học, rõ ràng
hơn về tự chấp nhận của lứa tuổi thanh niên sinh viên nói chung, sinh viên theo học
Tâm lý học nói riêng, đề tài “Tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học Trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh” được xác lập.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên ngành Tâm lý học Khoa Tâm lý
học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó tìm hiểu sâu hơn
một số yếu tố liên quan đến tự chấp nhận và đề xuất một số giải pháp giúp sinh viên
nâng cao tự chấp nhận.
7
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Sinh viên từ năm 1 đến năm 4 đang theo học ngành Tâm lý học (hệ chính quy)
tại Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh năm học 20182019.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Tự chấp nhận của sinh viên ngành Tâm lý học Khoa Tâm lý học Trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Mức độ tự chấp nhận của đa số sinh viên Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh ở mức trung bình.
- Có sự khác biệt ý nghĩa về sự tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học
Trường ĐHSP TP.HCM dựa trên các tham số năm học, thành tích học tập.
- Trong các yếu tố tác động, tự chấp nhận có mối liên hệ nhiều với các yếu tố
thuộc về giá trị bản thân của sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa tổng quan về đề tài và cơ sở lý luận liên quan, bao gồm: lòng tự
trọng, tự chấp nhận, tự chấp nhận vô điều kiện, đặc điểm tâm lý của thanh niên sinh.
- Thực hiện tìm hiểu thực trạng tự chấp nhận của sinh viên Khoa Tâm lý học
Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh qua khảo sát và phỏng vấn.
6. Giới hạn nghiên cứu
6.1. Về nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu về tự chấp nhận (self-acceptance) trong bảng hỏi Tự
chấp nhận vô điều kiện (USAQ - The Unconditional Self-Acceptance Questionaire)
của Chamberlain & Haaga xây dựng năm 2001 được phát triển dưới tiếp cận của
Albert Ellis.
6.2. Về khách thể:
Đề tài tiến hành khảo sát trên 274 sinh viên, phỏng vấn 8 sinh viên từ năm 1 đến
năm 4 đang theo học chuyên ngành Tâm lý học, hệ chính quy tại Khoa Tâm lý học
Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
8
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Với mục đích xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về tự chấp nhận của sinh viên
Khoa Tâm lý học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, phương pháp
nghiên cứu tài liệu được tiến hành bằng cách tập hợp các tài liệu có liên quan, phân
tích thành từng đơn vị kiến thức và khái quát thành hệ thống kiến thức riêng biệt phù
hợp cho đề tài.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp này được tiến hành bằng việc phát bảng hỏi tự chấp nhận vô điều
kiện đến sinh viên nhằm khảo sát về mức độ tự chấp nhận của sinh viên và sự khác
biệt trong các tham số.
7.2.2. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thống kê toán học được sử dụng để xử lý và phân tích các số liệu
thu thập từ bảng hỏi thông qua chương trình SPSS 20.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc
Phương pháp này được tiến hành bằng việc xây dựng hệ thống một số câu hỏi
mở liên quan đến đề tài nhằm tìm hiểu thông tin, góc nhìn của người trong cuộc về tự
chấp nhận.
7.2.4. Phương pháp phân tích dữ liệu theo chủ đề (thematic analysis)
Phương pháp phân tích dữ liệu theo chủ đề được tiến hành bằng việc mã hóa nội
dung phỏng vấn, phân tích thông tin theo các chủ đề nhất định nhằm xác định được
các nội dung liên quan đến tự chấp nhận theo quan điểm của sinh viên.
9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỰ CHẤP NHẬN CỦA SINH VIÊN
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về tự chấp nhận của sinh viên
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1.1. Nghiên cứu về tự chấp nhận nói chung
Khái niệm về cái tôi và những khía cạnh của nó được các nhà tâm lý học quan
tâm từ rất sớm. Tự chấp nhận đã được quan tâm trong tâm lý học về lý thuyết, nghiên
cứu và đo lường nổi trội lên từ những năm đầu thế kỉ 20. Tâm lý học nhân văn là lý
thuyết tâm lý đầu tiên nhấn mạnh, cân nhắc một cách rất nghiêm túc đối với giá trị và
ý nghĩa của tự chấp nhận trong tâm lý học. Các nhà tâm lý học nhân văn tiêu biểu như
Carl Roger, Abraham Maslow, Rollo May.
Những bằng chứng đầu tiên trong nghiên cứu của Ryff (1989) “Thái độ tích cực
đối với bản thân” được xem xét như một phần để định nghĩa tự chấp nhận và đo lường
lòng tự trọng. Những năm cuối thập niên 1940, các nghiên cứu về tự chấp nhận đa số
chịu ảnh hưởng dưới góc độ nhân văn đều cho thấy mức độ tự chấp nhận cao có mối
liên hệ tích cực với cảm xúc tích cực, làm hài lòng những mối quan hệ xã hội, thành
tích và điều chỉnh những sự kiện tiêu cực trong đời sống (Williams & Lynn, 2010).
Theo thời gian, tự chấp nhận tiếp tục được nhấn mạnh trong một số hình thức
của Liệu pháp nhận thức - hành vi (CBT - Cognitive Behavior Therapy), đặc biệt
trong Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý (REBT - Rational Emotion Behavior
Therapy). Năm 1962, Albert Ellis đã đề xuất nhấn mạnh đến sự tự chấp nhận vô điều
kiện và xem đó là một khái niệm cốt lõi, một phần không thể thiếu trong liệu pháp
nhận thức hành vi. Sau đó tự chấp nhận được đẩy mạnh lên làm nền tảng của Liệu
pháp hành vi biện chứng (DBT - Dialectical Behavior Therapy) và Liệu pháp chấp
nhận và chú tâm (ACT - Acceptance and Commitment Therapy) (Szentagotai &
David, 2013).
Những nghiên cứu đầu tiên phản hồi về mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều
kiện và chấp nhận người khác vô điều kiện trong một dân số ngẫu nhiên từ những
sinh viên khỏe mạnh và người lớn cho đến những bệnh nhân hay những tù nhân.
Trong khi các nghiên cứu về sau cố gắng nhấn mạnh đến mối liên hệ của tự chấp nhận
10
với các yếu tố khác của hạnh phúc tâm lý (psychological well-being), sự khác biệt
giữa tự chấp nhận và lòng tự trọng (Sheere, 1949; Berger, 1952; Suinn, 1961).
Năm 2005, David và Szentagotai đã nghiên cứu một thực nghiệm đóng góp cho
quan điểm rằng tự chấp nhận là điều cốt lõi để đạt được hạnh phúc. Nghiên cứu này
cũng tin chắc rằng lý thuyết của liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý về tự chấp nhận có
thể đóng góp những giá trị nền tảng, không chỉ cho việc nâng cao hiểu biết về hạnh
phúc mà còn là việc làm thế nào để đạt được và duy trì hạnh phúc (David &
Szentagotai, 2013).
Nghiên cứu của Macinnes (2006) đã tìm hiểu về mối liên hệ giữa các khái niệm
lòng tự trọng và tự chấp nhận với sức khỏe tâm lý (Self-esteem and self-acceptance:
An examination into their relationship and their effect on psychological health). Kết
quả cho thấy, so với dân số chung mẫu nghiên cứu có mức độ tự chấp nhận và lòng
tự trọng thấp; mức độ lo âu, trầm cảm và bệnh lý tâm lý (psychological ill health) cao
hơn (Macinnes, 2006).
Bernard và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về tự chấp nhận trong giáo dục và
tham vấn cho người trẻ (Self-Acceptance in the Education and Counseling of Young
People). Năm 2007, ông xây dựng các bài học trong việc giáo dục học sinh về tự chấp
nhận (Lesson to Teach Self-Acceptane). Năm 2012, Bernard đã thực hiện một nghiên
cứu trên 254 sinh viên của 4 trường học khác nhau tại Victoria, Úc. Để phát triển tự
chấp nhận trong giáo dục và tham vấn cho học sinh, Bernard đã thiết kế bảng khảo
sát dành cho trẻ em và thanh thiếu niên về tự chấp nhận (Bernard, 2012a). Ông đã đưa
ra một vài lời khuyên tự giúp đỡ dành cho lứa tuổi học sinh trong việc tăng cường tự
chấp nhận (Self-Help Tips for Strengthening Your Self-Acceptance) (Bernard, 2012b).
Năm 2013, để giúp các em học sinh phát triển tự chấp nhận, ông đã xây dựng hệ thống
bài tập nâng cao sự tự nhận thức qua các phản hồi (Bernard, Vernon, Terjesen &
Kurasaki, 2013).
Dù là một khái niệm trung tâm của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý nhưng tự
chấp nhận vô điều kiện lại chưa được kiểm chứng một cách đầy đủ qua các thực
nghiệm. Theo đó, một nghiên cứu được Popov và cộng sự (2016) xây dựng trong bối
cảnh thực nghiệm để kiểm tra sự ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức
khỏe tâm thần (Unconditional Self-Acceptance and Mental Health in Ego-provoking
11
experimental context) qua các yếu tố như mức độ tự chấp nhận, kiểu phản hồi và sự
hài lòng đối với phản hồi (Popov, Radanovic & Biro, 2016).
Năm 2017, Ciuhan và Dumitru đã tiến hành nghiên cứu trên mẫu 300 thanh thiếu
niên Rumani (Unconditional Self-Acceptance, Functional and Dysfunctional
Negative Emotions, and Self-Esteem as Predictors for Depression in Adolescents: a
Brief Pilot Study Conducted in Romania). Kết quả cho thấy mối tương quan giữa tự
chấp nhận vô điều kiện, lòng tự trọng và cảm xúc tiêu cực loạn chức năng (functional
and dysfunctional negative emotions) của họ với mức độ trầm cảm của thanh thiếu
niên tuổi từ 14 đến 17 tại Rumani (Ciuhan & Dumitru, 2017).
Trong vòng ba thập kỉ qua, một lượng lớn các nghiên cứu về tự chấp nhận đã
được tiến hành trên thế giới. Từ đó cũng cung cấp, bổ sung thêm các bằng chứng ấn
tượng có liên quan đến tầm quan trọng của tự chấp nhận cho sức khỏe tâm thần và
cảm nhận hạnh phúc trong đời sống tâm lý con người.
1.1.1.2. Nghiên cứu về tự chấp nhận và sự thể hiện bản thân
Lứa tuổi thanh niên sinh viên đối mặt với những áp lực trong việc thể hiện bản
sắc cá nhân với những người bạn, cụ thể là trong những kết nối có tính xã hội. Một
nghiên cứu của Aricak và cộng sự (2015) tìm hiểu cách tự chấp nhận và giá trị tác
động như thế nào đến việc sinh viên thể hiện chân thực bản sắc cá nhân trực tiếp và
gián tiếp “như chính họ là” (Mediating effect of self-acceptance between values and
offline/online identity expressions among college students). Kết quả thể hiện rằng sự
tự do là một giá trị có ý nghĩa ảnh hưởng đến xu hướng của người tham gia trong việc
thể hiện bản sắc cá nhân trực tiếp và gián tiếp. Đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy
sự tự do, giá trị lãng mạn, phẩm giá con người, xã hội và giá trị nghề nghiệp có một
chút ảnh hưởng tích cực nhưng không trực tiếp trên tính chân thực trong việc thể hiện
bản sắc cá nhân; trong khi giá trị vật chất, tinh thần và giá trị trí tuệ có một chút ảnh
hưởng tiêu cực không trực tiếp (Aricak, Dundar & Saldana, 2015).
Một nghiên cứu khác của Denmark (1973) đã xác định tự chấp nhận cũng có
mối liên hệ với sự thể hiện bản thân. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng người lãnh đạo với
điểm tự chấp nhận vô điều kiện cao được đánh giá là hiệu quả nhất trên địa vị của họ
(Szentagotai & David, 2013).
12
Năm 2016, một nghiên cứu của Popov và cộng sự được thực hiện để tìm hiểu về
ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe tâm thần qua các chỉ số trong
bối cảnh thực nghiệm khơi dậy cái tôi (Unconditional Self-Acceptance and Mental
Health in Ego-provoking experimental context). Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu
là 188 sinh viên, các nhà nghiên cứu đã minh hoạ cuộc nói chuyện trước đám đông,
sau đó các sinh viên tham gia có thời gian chuẩn bị trước, trình bày và nhận được các
phản hồi (tích cực, tiêu cực và trung tính) một cách ngẫu nhiên (Popov, Radanovic &
Biro, 2016).
1.1.1.3. Nghiên cứu về tự chấp nhận trong mối quan hệ với người khác
Bên cạnh khái niệm về “tự chấp nhận vô điều kiện”, Albert Ellis có một quan
điểm tương đồng, đó là “chấp nhận người khác vô điều kiện” (unconditional others
acceptance). Ông định nghĩa rằng “chấp nhận người khác mà không cần bất kì điều
kiện tiên quyết nào, không xem xét hành vi, quan điểm hay cách ứng xử của họ như
thế nào” (Ellis, 1994). Ellis đã nhận định rằng yếu tố chính của một mối quan hệ có
hiệu quả, xét riêng trong mối quan hệ chính là tư duy hợp lý của mỗi người; người
chấp nhận bản thân và người khác một cách vô điều kiện, đó là một điểm khởi đầu tốt
đẹp để xây dựng và phát triển mối quan hệ. Ông cho rằng chìa khóa cho cả hai trong
việc tìm kiếm và duy trì một mối quan hệ yêu thương là việc chấp nhận người khác
một cách hoàn toàn mà không có bất kì sự mâu thuẫn nào trong tư tưởng, học cách để
yêu mến sự tự do và sự khác biệt của mỗi cá nhân.
Những năm đầu của thế kỉ 20, các nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu về mối liên hệ
giữa tự chấp nhận và chấp nhận người khác. Trong nghiên cứu của Sheerer (1949) đã
tìm ra sự mối liên hệ giữa thái độ của tự chấp nhận và chấp nhận người khác, đây là
một trong những nghiên cứu đầu tiên về tự chấp nhận vô điều kiện tập trung giải thích
rằng cái tôi là một điểm tựa (anchor) ảnh hưởng đến góc nhìn và thái độ của chúng ta
đối với người khác (Williams & Lynn, 2010). Có các nghiên cứu phản hồi về sự liên
hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện và chấp nhận người khác vô điều kiện trong một
dân số ngẫu nhiên từ những sinh viên khỏe mạnh và người lớn cho đến những bệnh
nhân hay những tù nhân (Sheerer, 1949). Hầu hết các nghiên cứu chủ yếu quan sát
một mối quan hệ giữa cảm nhận về bản thân và với người khác dựa trên kinh nghiệm
13
lâm sàng, chỉ một số nghiên cứu gần đây mới cố gắng nghiên cứu mối quan hệ này
một cách có hệ thống.
Trên cơ sở nghiên cứu của Sheerer, một nghiên cứu được xây dựng trên mẫu là
sinh viên của Trường Đại học Chicago nhằm tìm hiểu mối quan hệ về thái độ đối với
bản thân và người khác (The relation between expressed acceptance of self and
expressed acceptance of others) dưới ảnh hưởng từ tư tưởng của Carl Rogers. Trong
nghiên cứu này, thay vì khái quát từ những kinh nghiệm lâm sàng, các nhà nghiên
cứu đã cố gắng để đo lường thái độ của cá nhân đối với bản thân và người khác dựa
trên việc sử dụng thang đánh giá. Kết quả cho thấy nghiên cứu có ý nghĩa tích cực,
đóng góp bằng chứng cho thấy có mối liên hệ cao giữa chấp nhận bản thân và chấp
nhận người khác (Berger, 1952).
Nếu một người không thể hiện diện với chính mình thì không thể hiện hiện thật
sự với người khác. Tự chấp nhận trong tâm điểm giao tiếp giúp mối tương giao với
mọi người luôn được đặt trên nền tảng của sự chân thành, yêu thương và sẵn sàng đón
nhận.
1.1.1.4. Nghiên cứu về tự chấp nhận và lòng tự trọng
Ryff đã xây dựng công trình nghiên cứu đầu tiên xem xét về mối liên hệ giữa
lòng tự trọng và tự chấp nhận. Qua tiểu thang đo SPWB (Scales of Psychological
Well-being, Self-Acceptance Subscale) cho thấy lòng tự trọng có mối liên hệ khá cao
(r = 0.62) với tự chấp nhận.
Trong cấu trúc của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, suốt những năm làm việc
Albert Ellis đã trình bày về khái niệm lòng tự trọng (cao và thấp). Đến năm 1996,
trong cuốn “Liệu pháp tâm lý”, Ellis đã đưa ra và nhấn mạnh đến khái niệm tự chấp
nhận vô điều kiện và xem đó như là một khái niệm thay thế cho lòng tự trọng. Các
nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rất nhiều lợi ích có mục đích của lòng tự trọng cao
(như tăng thành tích, mối quan hệ tốt hơn) không chứng minh được những kết quả
này một cách khách quan. Lòng tự trọng cao có thể dẫn đến ái kỉ nếu đi cùng bởi một
cảm giác rằng một người không chỉ tốt và có giá trị mà còn có giá trị “hơn” và đặc
biệt hơn người khác. Nếu sự tự đánh giá của một người quá tốt về sự thể hiện khách
quan và nhận thức của người khác, có thể đó là kết quả không thuận lợi xét về tính
lâu dài, bao gồm cả sự từ chối bởi bạn bè, đồng nghiệp. Theo đó, một quan điểm có
14
tính thuận lợi cao về bản thân bị đe dọa trong một vài thói quen có liên quan với hành
vi bạo lực (Falkenstein & Haaga, 2013).
Theo Chamberlain và Haaga trong nghiên cứu về tự chấp nhận và sức khỏe tâm
lý họ đã tìm thấy mức độ tương đồng tương đối cao trong đo lường giữa lòng tự trọng
và tự chấp nhận. Haaga nhận định rằng một vài điểm trong thang đo lòng tự trọng của
Rosenberg (1965) vẫn có yếu tố “có điều kiện” trong những phát biểu và nhận thấy
thiếu sự tự chấp nhận ở những người tham gia (Chamberlain & Haaga, 2001).
Các khái niệm về lòng tự trọng và tự chấp nhận được xác định là tương tự nhau
(similar) nhưng không đồng nghĩa (not synonymous). Lòng tự trong có liên quan chặt
chẽ hơn về sự ảnh hưởng, mức độ lòng tự trọng cao biểu thị mức độ trầm cảm thấp.
Tự chấp nhận dường như có liên quan chặt chẽ với cảm nhận chung về hạnh phúc tâm
lý và hữu ích hơn khi thực hiện các công việc lâm sàng liên quan đến các vấn đề tâm
lý chung (Macinnes, 2006).
Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý nhìn nhận lòng tự trọng cao hay thấp đều là
sự không khỏe mạnh (unhealthy), cho dù mức độ ấy phản ánh một sự đánh giá tổng
quát về giá trị của một người, sau cùng sẽ dẫn đến sự rối loạn cảm xúc và vì thế lòng
tự trọng là có hại cho sức khỏe tâm thần. Theo đó, giải pháp của A. Ellis cho vấn đề
này là mọi người cần từ bỏ sự tìm kiếm đối với lòng tự trọng và quá trình tự đánh giá
đi kèm với nó, thay vào đó làm việc theo hướng tự chấp nhận vô điều kiện. Năm 1996,
trong cuốn “Liệu pháp tâm lý”, ông đã đưa ra và nhấn mạnh đến khái niệm tự chấp
nhận vô điều kiện và chọn lựa đó như một khái niệm thay thế và là một nhân tố “lành
mạnh hơn” so với lòng tự trọng (Chamberlain & Haaga, 2001a).
1.1.1.5. Nghiên cứu về tự chấp nhận và sức khỏe tâm lý/tâm thần
Năm 2001, Chamberlain & Haaga đã thực hiện một nghiên cứu phi lâm sàng
trên 107 người trưởng thành (tuổi từ 19 đến 81) để tìm hiểu về mối mối liên hệ của tự
chấp nhận vô điều kiện và các chỉ số sức khỏe tâm lý (Unconditional Self-Acceptance
and Psychological Health) như hạnh phúc, sự hài lòng đối với cuộc sống. Nghiên cứu
này đã cho thấy một cách bao quát viễn cảnh của hạnh phúc trong tâm lý học và thảo
luận về vai trò của tự chấp nhận vô điều kiện trong cảm nhận hạnh phúc, đồng thời
nó cũng chỉ ra sự khác biệt giữa tự chấp nhận và lòng tự trọng (Chamberlain & Haaga,
2001).
15
Albert Ellis cho rằng khi một người được giải phóng khỏi những lo âu, những
cảm giác về sự không xứng đáng và thoát ra khỏi nỗi sợ bị chỉ trích, bị chối bỏ thì
người ấy được tự do khám phá và tiếp tục theo đuổi những điều thật sự khiến họ hạnh
phúc (Ellis, 1962).
a. Tự chấp nhận và hạnh phúc
Bản chất của hạnh phúc và cuộc sống tốt đẹp đã được con người quan tâm hàng
thiên niên kỉ nay quan niệm rằng cho dù có chuyện gì thì không phải chỉ “sống” mà
là “sống tốt” đã trở thành tâm điểm tư duy ở cả Tây phương và Đông phương (Kesebir
& Diener, 2008). Các nghiên cứu vào những năm cuối thập niên 1940 đã nhận định
rằng mức độ tự chấp nhận cao có mối liên hệ với cảm xúc tích cực, sự hài lòng về
những mối quan hệ xã hội, thành tích và khả năng điều chỉnh những sự kiện tiêu cực
của cuộc đời (Williams & Lynn, 2010).
Theo Ellis, hạnh phúc lâu dài có khả năng liên quan đến việc theo đuổi và đạt
được mục tiêu mà khi đó các cảm xúc đau đớn giảm, sự dễ chịu và hài lòng được tối
đa hóa, điều đó tạo nên những mối quan hệ sâu sắc và sự mãn nguyện cũng như sự
xuất sắc trong công việc và những hoạt động khác (Bernard, 2011). Năm 2005, một
nghiên cứu của David và Szentagotai đã có những thực nghiệm đóng góp cho quan
điểm về vai trò của tự chấp nhận đối với hạnh phúc và tin chắc rằng lý thuyết của Liệu
pháp hành vi cảm xúc hợp lý có thể đóng góp nền tảng không chỉ cho việc hiểu biết
về hạnh phúc mà còn là việc làm thế nào để đạt được hạnh phúc và duy trì nó
(Szentagotai & David, 2013).
Mặc dù có những thay đổi trong việc tiếp cận cũng như nghiên cứu về hạnh phúc
và cảm nhận hạnh phúc từ đầu đến gần cuối thế kỉ 20. Khuynh hướng tâm lý học tích
cực đạt đỉnh cao vào khoảng cuối những năm 90, trong đó nhìn nhận mối liên hệ giữa
tự chấp nhận và hạnh phúc là một phần của việc khái niệm hóa những mối quan tâm
của các nhà tâm lý.
b. Tự chấp nhận và chủ nghĩa cầu toàn
Nghiên cứu trên mẫu gồm 94 sinh viên của Flett và cộng sự (2003) đã tìm hiểu
mối liên hệ giữa các khía cạnh của chủ nghĩa hoàn hảo, tự chấp nhận vô điều kiện và
tự báo cáo về trầm cảm (Dimensions of Perfectionism, Unconditional Self-Acceptance
and Depression). Những phát hiện trong nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người cầu
16
toàn tự đánh giá mình dựa vào cảm nhận tạm thời về giá trị bản thân, và như vậy, họ
dễ bị tổn thương dẫn đến sự đau khổ tâm lý khi trải qua những sự kiện tiêu cực, cảm
nhận về giá trị bản thân của họ không được khẳng định. Theo đó, người cầu toàn đánh
giá bản thân trong những điều kiện của giá trị toàn thể, dễ bị tổn thương (vulnerable)
với những phản ứng cảm xúc tiêu cực có thể ảnh hưởng đến những mục tiêu của họ
và khi phải đương đầu với những sự kiện không khẳng định giá trị của họ (Flett,
Davies & Hewitt, 2003).
Năm 2007, Scott đã thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu sự tác động của chủ
nghĩa cầu toàn và tự chấp nhận vô điều kiện trên trầm cảm (The effect of perfectionism
and unconditional self-acceptance on depression), nghiên cứu trên mẫu phi lâm sàng
gồm 134 người tham gia. Kết quả cho thấy tự chấp nhận vô điều kiện làm trung gian
trong sự tác động của chủ nghĩa cầu toàn mang tính bắt buộc xã hội đối với trầm cảm.
Trong đó, cấu trúc cốt lõi của chủ nghĩa cầu toàn có thể có hậu quả tiêu cực, dẫn đến
mức độ thấp của sự chấp nhận bản thân vô điều kiện, và từ đó dễ dẫn đến trầm cảm
(Scott, 2007).
Trong rất nhiều khía cạnh, sự khác biệt giữa tự chấp nhận có điều kiện và vô
điều kiện theo Hamachek (1978) để phân biệt giữa người cầu toàn nhiễu tâm là những
người có nhu cầu được chấp nhận, đòi hỏi sự thành công với những người cầu toàn
bình thường là những người theo đuổi sự xuất sắc và tìm kiếm sự chấp nhận của người
khác không bởi những nhu cầu chung chung nhưng là thỏa mãn ước muốn và sở thích
mà không có những hậu quả tiêu cực (Jibeen, 2016).
Trong sự trưởng thành về tâm lý, sự tự chấp nhận hướng đến việc cá nhân ý thức
một cách đầy đủ và trọn vẹn về mình với tất cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực,
những ưu điểm và hạn chế cũng như việc nhìn nhận rằng mình dễ mắc sai lầm, thiếu
sót và bản thân cần điều chỉnh để hoàn thiện mình mà không phán xét hay tức giận
với chính mình.
c. Tự chấp nhận và các niềm tin phi lý
Trong một nghiên cứu phi lâm sàng trên 102 người trưởng thành của Davies
(2006) để tìm hiểu về mối quan hệ giữa đo lường về niềm tin phi lý, tự chấp nhận vô
điều kiện, lòng tự trọng và thang tính cách Big 5 (Big-5 personality dimensions). Kết
quả cho thấy, tự chấp nhận vô điều kiện có mối liên hệ cao với lòng tự trọng. Trong
17
lý thuyết nền tảng (key tenets) của Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý, cá nhân có
điểm số tự chấp nhận vô điều kiện cao sẽ có điểm thấp về niềm tin phi lý, khi lòng tự
trọng đã được loại trừ. Bên cạnh đó, tự chấp nhận đã được tìm thấy có ý nghĩa trong
mối liên hệ nghịch với yếu tố nhiễu tâm, niềm tin phi lý đã được tìm thấy có mối liên
hệ thuận với yếu tố nhiễu tâm và tính cởi mở của thang tính cách Big-5 (Davies,
2006).
Davies (2007) đã tiếp tực thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu về mối liên hệ
hệ nhân quả giữa niềm tin phi lý và tự chấp nhận vô điều kiện trên mẫu phi lâm sàng
là 106 người sử dụng kỹ thuật mồi (priming technique). Nghiên cứu chỉ ra rằng
những người tham gia mồi với những phát biểu về niềm tin phi lý dẫn đến việc giảm
tự chấp nhận trong khi những người tham gia mồi với những phát biểu về niềm tin
hợp lý dẫn đến việc tăng tự chấp nhận vô điều kiện. Ngược lại, những người tham
gia mồi với các phát biểu về tự chấp nhận vô điều kiện không dẫn đến sự tăng trong
những suy nghĩ hợp lý và những người tham gia mồi với phát biểu về tự chấp nhận
có điều kiện không dẫn đến sự gia tăng trong suy nghĩ phi lý. Đây cũng là nghiên
cứu đầu tiên cung cấp bằng chứng về mối liên hệ nhân quả giữa suy nghĩa hợp lý/phi
lý và tự chấp nhận vô điều kiện/có điều kiện (Davies, 2007a). Tiếp theo đó, Davies
lại thực hiện hai nghiên cứu trên sinh viên đại học, một nghiên cứu tương quan (mẫu
là 158) và một nghiên cứu thực nghiệm (mẫu là 128), ông nhận thấy rằng việc cá nhân
cần thành tích, cần sự tán thưởng và tự hạ thấp là những niềm tin phi lý quan trọng
của thái độ chung. Nhu cầu về sự thoải mái, nhu cầu về sự công bằng và những sự hạ
thấp khác được tìm thấy là ít có ảnh hưởng đến cá nhân (Davies, 2007b).
Một nghiên cứu của T. Jibeen (2016) trên 150 sinh viên tuổi từ 18 đến 25 để tìm
hiểu về vai trò điều tiết của tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng trong mối liên
hệ với niềm tin không dung thứ sự thất vọng và đau khổ tâm lý (Unconditional SelfAcceptance and Self-Esteem in Relation to Frustration Intolerance Beliefs &
Psychological Distress) đã chứng minh mối liên hệ cho thấy tự chấp nhận vô điều
kiện và lòng tự trọng có khả năng điều tiết với các yếu tố trong niềm tin không dung
thứ sự thất vọng bao gồm quyền lợi, thành tích, không chấp nhận cảm xúc (emotional
intolerance), không chấp nhận sự khó chịu (discomfort intolerance) và đau khổ tâm
lý. Tự chấp nhận vô điều kiện và lòng tự trọng có mối liên hệ nghịch ở mức trung
18
bình với đau khổ tâm lý và niềm tin không dung thứ sự thất vọng. Nghiên cứu này
cũng đã làm sáng tỏ và mở rộng cho những nghiên cứu trước về những niềm tin phi
lý và đau khổ tâm lý bằng cách kết hợp sự tập trung trên tính khác biệt cá nhân trong
tự chấp nhận và lòng tự trọng (Jibeen, 2016)
Năm 2017, Milburn và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu trên 433 người
tham gia nhằm để tìm hiểu về mối quan hệ giữa các khái niệm của niềm tin phi lý, tự
chấp nhận và khuynh hướng tha thứ (Empirical Investigation of the Relationship
Between Irrationality, Self-Acceptance and Dispositional Forgiveness). Kết quả cho
thấy mối mối liên hệ nghịch mức vừa và cao giữa niềm tin phi lý và khuynh hướng
tha thứ. Ngược lại, tự chấp nhận vô điều kiện có mối liên hệ thuận có ý nghĩa với
khuynh hướng tha thứ. Phân tích hồi quy trong nghiên cứu đã chỉ ra rằng kiểu niềm
tin phi lý và tự chấp nhận có thể dự báo khuynh hướng tha thứ của bản thân, người
khác và tình huống. Khám phá này đã hỗ trợ thêm về kinh nghiệm cho giả thuyết của
Milburn khi ông cho rằng việc giữ những niềm tin phi lý cản trở quá trình tha thứ và
mức độ tự chấp nhận của một người dự báo khuynh hướng tha thứ của người ấy
(Milburn, Porada & Sammut, 2017).
Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng giữa tự chấp nhận vô điều kiện và niềm tin phi
lý luôn có mối mối liên hệ nghịch. Một người có những niềm tin phi lý sẽ cản trở họ
trong việc chọn lựa mục tiêu, chấp nhận bản thân với toàn bộ giá trị và khả năng phát
triển của một con người.
d. Tự chấp nhận và các rối loạn tâm thần
Có rất nhiều các nghiên cứu được thực hiện để xác định mối liên hệ giữa tự chấp
nhận và các chỉ số sức khỏe tâm thần như trầm cảm, lo âu, các rối loạn tâm thần.
Liệu pháp hành vi cảm xúc hợp lý cho rằng sự đánh giá của cá nhân (tích cực
hay tiêu cực) và sự đánh giá tổng thể về giá trị của một người dựa trên những thành
tích đạt được là một sự phi lý và dễ dẫn đến các vấn đề tâm lý. Hầu hết các đau khổ
tâm lý đều có liên quan tới sự tập trung quá mức, nhạy cảm với những lời chỉ trích,
tức giận, cầu toàn và một số trong chúng là các vấn đề tâm bệnh. Trong nghiên cứu
của Chamberlain và Haaga về tự chấp nhận vô điều kiện và sức khỏe tâm lý đã tìm
thấy mối mối liên hệ nghịch giữa tự chấp nhận vô điều kiện với lo âu, trầm cảm
(Chamberlain & Haaga, 2001a).
19
Một nghiên cứu của Macinnes (2006) về mối liên hệ và ảnh hưởng của tự chấp
nhận vô điều kiện và lòng tự trọng trên sức khỏe tâm lý (Self-esteem and selfacceptance: An examination into their relationship and their effect on psychological
health). Nghiên cứu này được thực hiện trên 58 người tham gia đã được chẩn đoán
một vài vấn đề về sức khỏe tâm thần nghiêm trọng, họ cũng được đánh giá về mức độ
lòng tự trọng, tự chấp nhận, trầm cảm, lo âu và hạnh phúc tâm lý. Kết quả cho thấy,
so với dân số chung, mẫu nghiên cứu có mức độ tự chấp nhận và lòng tự trọng thấp;
mức độ lo âu, trầm cảm và bệnh lý tâm lý (psychological ill health) cao hơn
(Macinnes, 2006).
Theo Falkenstein và Haaga (2013) trong tác phẩm đo lường và nét đặc trưng của
tự chấp nhận vô điều kiện (Measuring and Characterizing Unconditional SelfAcceptance) chỉ ra rằng hạnh phúc phi lý (irrational happiness) có điểm đặc trưng là
những hành vi không thích ứng, có cảm xúc tiêu cực loạn chức năng, những mục tiêu
và giá trị luôn đặt ra một cách khuôn khổ và cứng nhắc. Trong đó, sự tự hạ thấp được
xem là nguyên nhân của những căng thẳng và đau khổ. Còn tự chấp nhận, một cách
độc lập với lòng tự trọng có liên hệ với lo âu thấp, ái kỉ thấp, trầm cảm thấp, niềm tin
phi lý thấp và một khả năng tuyệt vời để đạt được sự khách quan về hành vi và sự tử
tế của bản thân trong phản ứng với những lời chỉ trích. Người có điểm tự chấp nhận
vô điều kiện cao cho thấy sự hiện hữu với ít buồn, lo lắng, tức giận, cầu toàn hay phi
lý. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa tự chấp nhận vô điều kiện với các rối loạn lâm sàng
phần lớn chưa được kiểm chứng (Falkenstein & Haaga, 2013).
Một nghiên cứu thực nghiệm của Popov và cộng sự (2016) được thực hiện trên
188 sinh viên để tìm hiểu sự ảnh hưởng của tự chấp nhận vô điều kiện trên sức khỏe
tâm thần. Các nhà nghiên cứu đã thiết kế các thực nghiệm gần như được sử dụng trên
một mặt bằng chung và dự đoán được những người tham gia với mức độ tự chấp nhận
vô điều kiện thấp, không hài lòng với phản hồi sẽ có điểm cao hơn cho các triệu chứng
rối nhiễu tâm lý (lo âu và trầm cảm) (Popov và cộng sự, 2016).
Đầu thế kỉ 20 các nghiên cứu trên thế giới tập trung tìm hiểu về mối liên hệ giữa
tự chấp nhận và chấp nhận người khác. Về sau, các nghiên cứu về tự chấp nhận ngày
càng được mở rộng và sâu hơn, không chỉ dừng lại trong các nghiên cứu tương quan
để tìm hiểu về mối liên hệ giữa tự chấp nhận với các yếu tố như trầm cảm, lo âu, niềm
20
- Xem thêm -