Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Truyền thuyết và lễ hội về lê lợi ở thanh hóa...

Tài liệu Truyền thuyết và lễ hội về lê lợi ở thanh hóa

.PDF
123
355
105

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------- MAI THỊ NHUNG TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ LÊ LỢI Ở THANH HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học dân gian Việt Nam Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------- MAI THỊ NHUNG TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI VỀ LÊ LỢI Ở THANH HÓA Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học dân gian Việt Nam Mã số: 60.22.01.25 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đặng Thị Diệu Trang Hà Nội - 2014 LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành tại Khoa Văn học – Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội. Trong quá trình thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của cô hướng dẫn khoa học TS. Đặng Thị Diệu Trang. Sự giúp đỡ của thầy cô khoa Sau đại học, Khoa Văn học – Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội. Sự giúp đỡ của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa; Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa; Thư viện tỉnh Thanh Hóa; Phòng văn hóa huyện Thọ Xuân – Thanh Hóa; Ban quản lý khu di tích Lam Kinh; Nhân dân địa phương các xã thuộc huyện Thọ Xuân: TT Lam Kinh, Xuân Lam, Xuân Lập, Xuân Lai, Xuân Trường. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Đặng Thị Diệu Trang cùng toàn thể các thầy cô trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội; Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thanh Hóa; Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa; Thư viện tỉnh Thanh Hóa; Phòng văn hóa huyện Thọ Xuân –Thanh Hóa; Ban quản lý khu di tích Lam Kinh; Nhân dân địa phương các xã thuộc huyện Thọ Xuân: TT Lam Kinh, Xuân Lam, Xuân Lập, Xuân Lai, Xuân Trường. Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2014 Học viên Mai Thị Nhung LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đề tài “Truyền thuyết và lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa” là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Tất cả các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Mọi tài liệu tham khảo, trích dẫn khoa học đều có nội dung chính xác. Các kết luận khoa học chưa công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2014 Học viên Mai Thị Nhung MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2.Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 3 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................ 10 4 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 11 5 Phƣơng pháp nghiên cứu ....................................................................... 11 6. Đóng góp của khóa luận ........................................................................ 12 7 Cấu trúc luận văn.................................................................................... 13 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT THANH HÓA VÀ BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TRUYỀN THUYẾT LÊ LỢI ................................. 14 1.1 Khái quát về vùng đất Thanh Hóa ..................................................... 14 1.1.1 Sơ lược về lịch sử vùng đất Thanh Hóa ........................................ 14 1.1.2 Văn hóa dân gian ............................................................................ 15 1.2 Đặc trƣng của thể loại truyền thuyết Việt ......................................... 19 1.2.1 Chức năng làm sử ........................................................................... 19 1.2.2 Cảm hứng tôn vinh, ngợi ca .......................................................... 22 1.3 Bối cảnh ra đời truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa ................... 25 1.3.1 Anh hùng Lê Lợi ............................................................................. 25 1.3.2 Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.............................................................. 28 CHƢƠNG 2 TRUYỀN THUYẾT VỀ LÊ LỢI Ở THANH HÓA ............ 32 2.1 Truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa trong kho tàng văn học dân gian .............................................................................................................. 32 2.1.1 Đặc điểm nội dung trong truyền thuyết Lê Lợi ở Thanh Hóa...... 41 2.1.2 Đặc điểm thi pháp trong truyền thuyết về Lê Lợi.......................... 46 2.2 Khảo sát truyền thuyết về Lê Lợi trong đời sống nhân dân địa phƣơng hiện nay ......................................................................................... 54 CHƢƠNG 3 LỄ HỘI GẮN VỚI TRUYỀN THUYẾT VỀ LÊ LỢI Ở THANH HÓA ................................................................................................ 65 3.1.Khái niệm lễ và hội .............................................................................. 65 3.2 Lễ hội Lam Kinh .................................................................................. 66 3.2.1 Khái quát về khu di tích Lam Kinh ................................................ 66 3.2.2 Quy trình lễ hội ............................................................................... 79 3.3 Lễ hội làng Xuân Phả .......................................................................... 86 3.4 Lễ hội lễ hội Căm Mƣơng và lễ hội Đền Thi ..................................... 92 3.4.1 Lễ Hội Căm Mương ........................................................................ 92 3.4.2 Lễ hội Đền Thi ................................................................................ 94 3.5 Ý nghĩa của lễ hội ................................................................................. 96 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................... 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 105 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 109 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1.Thanh Hóa là miền đất có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời và có nhiều di tích, danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong cả nước. Những danh lam, thắng cảnh này là tài sản vô giá, là niềm tự hào không chỉ riêng của đất và người xứ Thanh mà còn của chung toàn dân tộc. Nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ sông Mã, đây là vùng đất trù phú, cảnh quan đa dạng có nhiều di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng. Từ xa xưa xứ Thanh đã được coi là vùng đất: “ Địa linh nhân kiệt”. Nơi đây gắn liền với những lịch sử truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc và lưu giữ những giá trị văn hóa tinh thần truyền thống. Trong số đó không thể không nói tới cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược do người anh hùng Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo. Trong thiên anh hùng ca chống giặc ngoại xâm của dân tộc, Lam Sơn – mảnh đất thiêng, quê hương của anh hùng Lê Lợi, được ghi vào lịch sử như một dấu son chói lọi. Lam Sơn là căn cứ đầu tiên của một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại ách đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh, giành thắng lợi, mở ra thời kỳ độc lập, thịnh trị cho đất nước nhà. Hơn năm mươi thế kỷ đã trôi qua, thời gian cùng với sự thăng trầm của lịch sử đã làm nhòa đi những vết tích vật chất về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Những hào lũy, đồn trại, kho lương, cách dàn binh bố trận, những cuộc chiến đấu vô cùng quả cảm của nghĩa quân…Tất cả chỉ còn tàn tích là dấu vết của một thời oanh liệt hào hùng. Nhưng trong ký ức của người dân tỉnh Thanh vẫn còn nguyên vẹn hình ảnh của người anh hùng dân tộc Lê Lợi cùng vời cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo. Lê Lợi- Lam Sơn, tên đất, tên người đó như quyện chặt vào nhau và từ lâu đã đi vào truyền thuyết, đi vào lòng nhân dân như một biểu tượng anh hùng của người dân xứ Thanh và của cả dân tộc ta. Đi vào tìm hiểu truyền thuyết về Lê Lợi góp phần ngợi ca người anh hùng Lê Lợi, cuộc khởi nghĩa 1 Lam Sơn và tái hiện một thời kỳ hào hùng của dân tộc ta dưới thời Lam Sơn khởi nghĩa. Việc nghiên cứu về truyền thuyết Lê Lợi ở Thanh Hóa là vấn đề hết sức quan trọng trong hành trình tìm về lịch sử và văn học dân gian. Đồng thời giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn truyền thống văn hóa của dân tộc , thêm tự hào về đất nước con người Việt Nam, nhất là những vị anh hùng đã làm rạng danh cho quê hương đất nước. Từ chuyên ngành văn học dân gian, nghiên cứu truyền thuyết gắn với việc tìm hiểu tín ngưỡng và lễ hội tưởng niệm các danh nhân văn hóa để làm sáng rõ hơn đặc trưng của của thể loại. 1.2 Truyền thuyết gắn liền với lễ hội tôn vinh các anh hùng dân tộc, các địa danh lịch sử đã ăn sâu vào đời sống tâm linh của nhân dân và được thể hiện qua các phong tục, nghi lễ. Môi trường diễn xướng các hoạt động văn hóa dân gian ấy gắn liền với các địa danh có trong tác phẩm. Chỉ trong không khí đó tác phẩm dân gian mới bộc lộ hết giá trị thẩm mĩ của nó. Truyền thuyết và lễ hội có mối quan hệ biện chứng với nhau. Nhờ truyền thuyết, lễ hội bám chặt gốc rễ vào mảnh đất đời sống, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tâm linh của nhân dân. Truyền thuyết là cầu nối giữa cảm xúc, niềm tin và cộng đồng với tín ngưỡng, phong tục tập quán. Niềm tin trong truyền thuyết được hiện thực hóa trong lễ hội. Lễ hội giúp truyền thuyết được lưu giữ và có sức lan tỏa trong đời sống. Đi vào tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa góp phần thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa truyền thuyết và lễ hội. 1.3. Đời sống đích thực của truyền thuyết là môi trường diễn xướng mà hoạt động diễn xướng của văn học dân gian là lễ hội. Các hoạt động lễ hội luôn tổ chức trong môi trường có ở truyền thuyết. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử dân tộc, địa phương mà lễ hội bị gián đoạn. Việc nghiên cứu tìm hiểu lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa góp phần vào việc khôi phục phát triển lễ hội 2 cũng như các loại hình văn hóa dân gian. Đồng thời góp phần xây dựng phát triển kinh tế xã hội tại đại phương. Với những lí do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu đề tài: “Truyền thuyết và lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa” 2.Lịch sử vấn đề 2.1 Vấn đề nghiên cứu truyền thuyết dân gian ở Việt Nam về góc độ đặc trưng thể loại Truyền thuyết là một trong những loại truyện tiêu biểu của loại hình tự sự dân gian. Vấn đề nghiên cứu thể loại truyền thuyết ở nước ta đã đặt ra nhiều vấn đề, ý kiến khác nhau về thể loại này. Giáo sư Nguyễn Đổng Chi trong lời tựa cho cuốn: Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (NXB Sử học, 1961) đã chỉ ra đặc điểm của truyền thuyết so với thể loại cổ tích và thần thoại: “Truyền thuyết thường dùng để chỉ những câu chuyện cũ, những sự việc lịch sử còn được quần chúng truyền lại nhưng không đảm bảo về mặt chính xác có thể do truyền rộng mà sai lạc, cũng có thể do sự tưởng tượng của quần chúng phụ hoạ thêu dệt mà càng sai lạc hơn. Và truyền thuyết phần nhiều chưa được xây dựng thành truyện. Nó mới là những mẩu chuyện. Nếu nó phát triển đến mức hoàn chỉnh thì tuỳ theo nội dung nó có thể trở thành cổ tích hay thần thoại. Còn xét về mặt nghệ thuật và ý nghĩa thì hoàn toàn giống cổ tích hay thần thoại. Hiện nay truyền thuyết Việt Nam tìm được còn rất ít ỏi, đượm khí vị cổ tích nhiều hơn thần thoại. Vì vậy khi sưu tầm thì xếp lẫn vào cổ tích và coi như truyện cổ tích” [4, tr 20] Phó giáo sư Đỗ Bình Trị trong cuốn Văn học dân gian (NXB ĐHSP Hà Nội I, 1978), có đưa truyền thuyết vào cơ cấu các thể loại văn học dân gian nhưng lại đặt bên cạnh thần thoại. Tuy cách sắp xếp truyền thuyết trong hệ thống các thể loại văn học dân gian có khác nhau nhưng xác định bản chất của thể loại truyền thuyết thì có sự tương đồng giữa ý kiến bản chất của nó. Các 3 nhà khoa học khi nghiên cứu truyền thuyết bao giờ cũng đặt nó trong mối quan hệ với thần thoại và cổ tích Ông Tầm Vu khi nghiên cứu: “Tư tưởng chủ yếu của người Việt thời cổ qua những truyện đứng đầu trong thần thoại và truyền thuyết” trong tạp chí văn học nghệ thuật, số ra ngày 25/3/1995) có nhận xét: “ Xã hội công xã nguyên thuỷ tan rã thì truyền thuyết trở nên thịnh so với thần thoại. Truyền thuyết nặng về đề tài về lịch sử hơn là thần thoại vì một phần cuộc đấu tranh trong xã hội gay gắt thu hút sự chú ý của con người. Phần khác vì dân số, công cụ và tri thức đã phát triển khá đến mức đối với thiên nhiên con người ít nhiều được bảo vệ. Bây giờ người anh hùng hay nhân dân anh hùng được thuần hoá trong truyền thuyết. Truyện thường thường không giản dị như trong thần thoại mà ngày càng phức tạp hơn. Mặt khác, vì nhìn chung trí tưởng tượng trong truyền thuyết cũng không bay bổng bằng trong thần thoại. Càng về sau “thần” trong truyền thuyết càng không được phóng khoáng vô tư như “thần” trong thần thoại có lẽ và ảnh hưởng ý thức hệ giai cấp bóc lột”. Cũng trong số báo này, ông Phan Trần có bài: “Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử”, ở đó tác giả đã nêu định nghĩa về truyền thuyết: “truyền thuyết là những truyện truyền tụng trong dân gian về những sự việc và nhân vật có liên quan đến lịch sử. Những nhân vật và sự việc đó thường được phản ánh qua trí tưởng tượng của con người, qua sự hư cấu của nhân dân”. Phó Giáo sư Đỗ Bình Trị khi chấp bút phần truyền thuyết trong Giáo trình văn học dân gian cũng nêu ra định nghĩa: “Truyền thuyết là những truyện có dính líu đến lịch sử mà lại có sự kỳ diệu – là lịch sử hoang đường – hoặc là những truyện tưởng tượng ít nhiều gắn với sự thực lịch sử” [25; tr.59] Tác giả Kiều Thu Hoạch trong cuốn Tổng tập văn học dân gian người Việt (NXB Khoa học xã hội, 2004) cũng viết về truyền thuyết: “Truyền thuyết là một thể tài truyện kể truyền miệng, nằm trong loại hình tự sự dân gian. Nội 4 dung cốt truyện kể lại truyện các nhân vật lịch sử hoặc giải thích các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân. Biện pháp nghệ thuật phổ biến là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng những yếu tố hư ảo thần kỳ như cổ tích và thần thoại. Nó khác cổ tích ở chỗ không nhằm phản ánh xung đột gia đình, sinh hoạt xã hội và số phận các nhân mà phản ánh những vấn đề thuộc phạm vi quốc gia dân tộc rộng lớn. Nó khác thần thoại ở chỗ nhào nặn tự nhiên và xã hội trên cơ sở sự thật lịch sử cụ thể chứ không hoàn toàn trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng” [16; tr. 40] Giáo sư Hoàng Tiến Tựu trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam ( NXB Giáo Dục, 1990) đã khẳng định: “Trong nền văn học dân gian Việt, truyền thuyết xuất hiện, tồn tại và diễn biến trước hết như là sự thay thế, sự hoá thân của thể loại sử thi hay anh hùng ca cổ đại. Nó là các mắt xích nối liền truyền thuyết Việt với các loại truyện dân gian khác đảm bảo tính liên tục hoàn chỉnh và hợp lý trong cơ cấu thể loại cũng như trong tiến trình lịch sử của loại hình tự sự dân gian”. [52; tr. 45] Ý kiến này nhấn mạnh vai trò của truyền thuyết trong nền văn học dân gian. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng tuy không nhằm định nghĩa truyền thuyết nhưng đã giúp ích rất nhiều cho các ngành nghiên cứu văn học dân gian xác định bản chất thể loại của nó. Nhận xét của cố Thủ tướng về tính lịch sử và tính nghệ thuật, ý nghĩa tư tưởng và giá trị thẩm mỹ của truyền thuyết được khái quát đầy đủ: “Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thực lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lý tưởng hoá, gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình với thơ và mộng, chấp đôi cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuật dân gian làm nên tác phẩm văn hoá mà đời đời con cháu ưa thích” ( Nhân ngày giỗ tổ Vua Hùng – Báo nhân dân ngày 29/4/1969). Điểm qua các ý kiến của các nhà nghiên cứu về văn học dân gian, người ta có thể thống nhất với nhau định nghĩa về truyền thuyết như sau: 5 “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử hay di tích cảnh vật địa phương thông qua hư cấu nghệ thuật thần kỳ”. Trong nghiên cứu văn học dân gian, diễn ra nhiều cuộc tranh luận về nội hàm, ngoại diên của khái niệm và đặc trưng của truyền thuyết. Nhưng tất cả đều đi đến ý kiến chung là thừa nhận truyền thuyết chứa đựng cả yếu tố lịch sử và yếu tố tưởng tượng kỳ ảo. 2.2 Những nghiên cứu về truyền thuyết Lê Lợi ở Thanh Hóa Truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa là một bộ phận quan trọng trong hệ thống truyền thuyết Việt, thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu văn học dân gian. Đã có nhiều công trình nghiên cứu thành công ở bộ phận truyền thuyết này. Công trình đầu tiên được nói đến là: Lê Lợi con người và sự nghiệp, của Giáo sư Vũ Ngọc Khánh, NXB Thanh Hóa (1985). Tác giả đã nghiên cứu tương đối đầy đủ về anh hùng Lê Lợi, không chỉ là anh hùng lịch sử mà còn là hình tượng trong văn học dân gian. Ở trọng trách là người đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử, tác giả khẳng định: “Lê Lợi là con người lịch sử đợi chờ, là nhà lãnh tụ khởi nghĩa xứng đáng, vị tổng chỉ huy quân sự lỗi lạc; người lãnh đạo nhà nước xuất sắc. Trong lĩnh vực văn học, đặc biệt là văn học dân gian, tác giả khẳng định vị trí của Lê Lợi trong lòng dân: Lê Lợi đi vào truyền thuyết dân gian với một hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn học dân gian nước ta. Chỉ có Lê Lợi mới là con người xuất hiện giữa hai huyền thoại. Một huyền thoại mở đầu cho cuộc khởi nghĩa và một huyền thoại cuối để kết thúc bản anh hùng ca oanh liệt, mở ra kỉ nguyên mới cho tổ quốc giang sơn. Câu chuyện được gươm thần và trả lại gươm thần là một tác phẩm dân gian cực đẹp, hiếm có trong truyền thuyết dân tộc” [23, tr 20] 6 Cuốn Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn, Nhà xuất bản Thanh Hóa, năm 1975 đã tuyển tập tương đối đầy đủ các mẩu chuyện dân gian về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Phần lớn các câu chuyện có dung lượng ngắn gọn. Bao gồm các câu chuyện, các sự tích về địa phương, làng bản…Tất cả đều tập trung nói về Lê Lợi. Có những câu chuyện Lê Lợi xuất hiện trực tiếp như: Truyện gươm thần, Hội thề Lũng Nhai…lại có những truyện Lê Lợi chỉ hiện lên qua suy nghĩ của nghĩa sĩ, nhân dân: Nguyễn Trãi đi tìm minh chủ; Bài văn đuổi hổ; Người anh hùng đánh két…Dù trực tiếp hay gián tiếp, thì người anh hùng Lê Lợi hiện lên qua những tác phẩm là người giàu lòng yêu nước, thương dân, có ý chí đánh giặc và tài năng quân sự bậc thầy. Những câu chuyện về Lê Lợi mang đặc trưng của truyền thuyết đó là yếu tố lịch sử đậm nét, song nhân dân đã thêu dệt nên những chi tiết tưởng tượng kì ảo tạo nên người anh hùng sống mãi trong lòng dân. Các tác giả đã ghi nhận các tư liệu dân gian chung quanh khởi nghĩa Lam Sơn trong đó khẳng định: Truyền thuyết là kho tàng nghệ thuật ca ngợi truyền thống anh hùng. Chung quanh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã được đề cao trong sách sử, nhân dân bao đời nay còn sáng tạo ra cả một kho tàng nghệ thuật ca ngợi truyền thống anh hùng. Sự sáng tạo ấy dù ta chưa lý giải được một cách đầy đủ, chính xác song vẫn lộ rõ tính cách dân gian của nó. Giáo sư Hoàng Tiến Tựu trong cuốn Sáng tác dân gian về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, NXB Sở văn hóa thông tin Thanh Hóa, năm 1985 cũng một lần nữa khẳng định vị trí đặc biệt của truyền thuyết dân gian trên các phương diện số lượng, chất lượng, nội dung: Sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn đã hình thành, phát triển và tiếp tục được lưu truyền, bổ sung thêm qua một thời gian dài gần sáu thế kỷ, với một khối lượng tác phẩm khá lớn, gồm hàng trăm đơn vị tác phẩm và dị bản khác nhau, thuộc hầu hết các thể loại cơ bản của sáng tác dân gian truyền thống. Đồng thời ông 7 cũng chỉ ra đặc điểm chung của truyền thuyết về Lê Lợi trong hệ thống truyền thuyết Việt: Tính chất kết hợp vừa là văn nghệ vừa là lịch sử hiện thực gắn chặt với lý tưởng, cái có song song hòa lẫn với cái không – một đặc điểm lớn của sáng tác dân gian về đề tài lịch sử đã được thể hiện hết sức nổi bật và độc đáo ở bộ phận sáng tác dân gian này. Trong cuốn: Tên làng xã Thanh Hóa, NXB Thanh Hóa, 2000 đã thống kê tương đối đầy đủ những làng bản gắn liền với các sự tích dân gian, trong đó phải kể đến hơn 50 làng xã có gắn với Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Những làng, bản, thôn xóm là nơi Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đi qua được nhân dân cưu mang, chở che, sau đó để ghi nhớ công ơn của nhân dân địa phương Lê Lợi đã đặt tên cho các làng. Như làng Quỳ Chử, làng Tiên Nông, Chòm Thiu, Chòm Đỏ…Cũng có những giai thoại về tên làng xã do nhân dân địa phương tự đặt để tưởng nhớ đến Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn. Sự tích về làng xã đã thể hiện vị trí vai trò của Lê Lợi trong lòng muôn dân, đồng thời cũng nói vai trò của nhân dân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Họ là lực lượng hùng hậu nhất tạo nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa. Mối quan hệ của Lê Lợi và nhân dân gắn bó mật thiết với nhau. Đó cũng là nội dung phản ánh trong truyền thuyết dân gian về Lê Lợi: Lê Lợi đánh giặc chỉ có dân. Như vậy, khi nghiên cứu về truyền thuyết về Lê Lợi, các tác giả đã đặt nó vào trong thể loại truyền thuyết, đồng thời chỉ ra đặc điểm chung và những sắc thái riêng của bộ phận truyền thuyết về Lê Lợi. Tuy nhiên phần lớn các công trình nghiên cứu đều đi sâu vào đặc điểm nội dung của truyền thuyết, về đặc trưng thi pháp hoặc các motif về truyền thuyết Lê Lợi ít được nhắc đến, nếu có nói cũng chưa được sâu sắc. Vì vậy vấn đề nghiên cứu truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa vẫn là đề tài được các nhà nghiên cứu văn học dân gian quan tâm. 8 2.3 Nghiên cứu lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa Lê Lợi đã đi vào lễ hội dân gian như biểu tượng của một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc. Nhiều lễ hội, tín ngưỡng diễn ra trên địa bàn tỉnh Thanh thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân với người anh hùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn. Hoạt động quy tụ đậm đặc nhất là lễ hội Lam Kinh diễn ra vào tháng 8 âm lịch hàng năm. Nghiên cứu về lễ hội Lam Kinh cũng có nhiều các công trình thể hiện rất kĩ lưỡng. Tuy nhiên phần lớn các tài liệu chỉ đi sâu vào tìm hiểu lễ hội Lam Kinh, các lễ hội và tín ngưỡng, tục lệ thờ cúng Lê Lợi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa chưa được tìm hiểu một cách có hệ thống. Trong cuốn Lịch sử triều hiến chương loại chí, tác giả Phan Huy Chú đã khảo cứu rất cơ bản các nghi lễ trong lễ hội Lam Kinh. Theo tác giả, lễ hội Lam Kinh chỉ gọi là “ lễ” chứ không phải là “ lễ hội”. Nhưng trên thực tế trong thời gian diễn ra “ lễ” ở Lam Kinh ấy, người dân Thanh Hóa đã bị cuốn vào hội hè suốt hàng tháng trời. Điều đó cho thấy vai trò của Lễ hội trong đời sống tinh thần của người dân địa phương. Nếu phần lễ diễn ra trang nghiêm và chỉ có những người có vị trí trong làng xã mới được tham gia, thì phần hội luôn là nơi vui chơi gải trí cho tất cả mọi tầng lớp nhân dân tham dự. Lễ hội Lam Kinh không chỉ tái hiện lại lịch sử hào hùng của khởi nghĩa Lam Sơn cũng như sự phát triển hưng thịnh của vương triều Hậu Lê mà đây còn là điểm đến của hàng nghìn du khách từ khắp nơi trong và ngoài tỉnh thể hiện tình cảm với người anh hùng Lê Lợi. Đồng thời cũng là điểm văn hóa du lịch hấp dẫn du khách thập phương. Tác giả Hoàng Anh Nhân, trong cuốn Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh, NXB Văn hóa dân tộc, năm 2006 cũng đã chỉ ra đặc điểm riêng của lễ hội Lam Kinh so với tất cả các lễ hội dân gian khác trên vùng đất Thanh Hóa. Lễ hội Lam Kinh tập trung tất cả các nghi lễ, và trò chơi từ các lễ hội trên địa bàn tỉnh Thanh nói về Lê Lợi. Cho thấy đây là lễ hội có quy mô lớn trong và ngoài tỉnh. Cũng trong cuốn sách này, tác giả đề cập đến lễ hội làng Xuân 9 Phả. Đây là lễ hội tưởng nhớ về Lê Lợi lớn thứ hai sau lễ hội Lam Kinh. Phần lễ diễn ra ngắn gọn hơn lễ hội Lam Kinh, nhưng phần hội thật đặc sắc với những trò diễn Xuân Phả. Những trò diễn này đã một thời được đưa vào cung đình, và trong lễ hội Lam Kinh cũng có phần lớn các trò diễn ấy. Tác giả cũng đề cập tới các lễ hội như: Lễ hội Đông Cao (Huyện Nông Cống); Lễ hội Căm Mương (Bá Thước); Lễ hội Đền Thi ( Như Thanh). Tuy nhiên chỉ mang tính chất liệt kê, chưa chỉ ra rõ được những đặc điểm của các lễ hội về Lê Lợi trên quy mô toàn tỉnh. Điều chúng tôi thực sự tâm đắc trong cuốn sách: Truyền thống các làng văn hóa Thọ Xuân của tác giả Hoàng Tùng, NXB Thanh Hóa, 2000 là tác giả đã khảo sát trên phạm vi huyện Thọ Xuân – tỉnh Thanh Hóa những lễ hội, tín ngưỡng dân gian trong đó chủ yếu nói về Lê Lợi. Bởi đây chính là vùng đất Lê Lợi sinh ra lớn lên, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Khi tìm hiểu về các lễ tục, lễ hội ấy tác giả đã chỉ ra được mối quan hệ giữa các truyền thuyết dân gian về Lê Lợi và lễ hội. Truyền thuyết nảy sinh lễ hội và chính lễ hội là môi trường sống lâu bền của truyền thuyết. Qua Lễ hội, nhân vật lịch sử sống mãi trong tâm thức của nhân dân. Cũng qua đây, ngưỡi viết chỉ ra được giá trị của lễ hội trong đời sống văn hóa, lịch sử, du lịch tâm linh và có những đề xuất để bảo tồn, phát huy những giá trị tốt đẹp của lễ hội về Lê Lợi. Trên đây là một số công trình nghiên cứu về truyền thuyết và lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa. Trong phạm vi luận văn, các công trình nói trên có giá trị về mặt tư liệu giúp chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu đề tài Truyền thuyết và lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Hình tượng người anh hùng Lê Lợi từ lâu đã đi vào truyền thuyết và sống mãi với thời gian. Đã có hàng trăm truyền thuyết được sưu tầm thành văn bản về Lê Lợi cũng như cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo, bên cạnh đó 10 vẫn còn những dị bản, thần tích, gia phả, truyện kể…trong nhân dân chưa lưu hành thành văn bản. Vì vậy, trong phạm vi của đề tài, luận văn đi vào khảo sát hệ thống truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa trên cơ sở các văn bản văn học dân gian đã được xuất bản và những câu chuyện được gìn giữ, lưu truyền trong nhân dân hiện nay; đồng thời khảo sát lễ hội liên quan đến bộ phận truyền thuyết này. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Thứ nhất: Các công trình nghiên cứu sưu tầm tư liệu truyền thuyết dân gian về Lê Lợi đã xuất bản: Truyền thuyết cổ tích Lam Sơn, NXBThanh Hoá,1975. Tên làng xã Thanh Hoá, NXB Thanh Hoá, 2000. Sáng tác dân gian về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, NXB Sở văn hóa thông tin Thanh Hóa, 1983. Thứ hai: Điều tra, khảo sát địa bàn nghiên cứu để thu thập những tư liệu liên quan đến câu chuyện truyền thuyết được lưu giữ trong dân gian hiện nay cũng như khảo sát lễ hội – không gian lưu truyền của truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa. 4 Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Vận dụng lý thuyết ngành Văn học dân gian vào tìm hiểu đề tài và thực tiễn nhằm hệ thống hóa truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa. Nghiên cứu, miêu tả chi tiết các lễ hội liên quan đến truyền thuyết về Lê Lợi tỉnh Thanh Hóa. Từ đó chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa truyền thuyết và lễ hội. Đó là những truyền thống, tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện đạo lý: “ Uống nước nhớ nguồn” 5 Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp thống kê: Khảo sát, tập hợp và thống kê các tư liệu liên quan đến truyền thuyết về Lê Lợi. 11 5.2 Phương pháp quan sát gắn với hoạt động điền dã: Chúng tôi tiến hành điền dã trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tham quan khu di tích lịch sử Lam Kinh, huyện Thọ Xuân. Nơi đây hội tụ đậm đặc những truyền thống văn hóa dân gian liên quan đến Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa. Gặp gỡ, trao đổi với những cán bộ văn hóa, cán bộ quản lí di tích, người dân địa phương (đặc biệt là những người cao tuổi). 5.3 Phương pháp phân tích tổng hợp Chúng tôi sử dụng phương pháp này trước hết là để tiếp cận đối tượng khoa học một cách cụ thể, chi tiết, sau đó là đảm bảo vấn đề được đánh giá một cách toàn vẹn khái quát. 5.4 Phương pháp nghiên cứu liên ngành Do văn học dân gian nói chung, truyền thuyết nói riêng có đặc trưng là tính nguyên hợp, tính chất sinh hoạt thực hành nên khi tiến hành đề tài này chúng tôi vận dụng những tri thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như lịch sử, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng…để lý giải đến một số vấn đề có liên quan đến đề tài. 6. Đóng góp của khóa luận 6.1 Về mặt lý luận Góp phần khẳng định vai trò của truyền thuyết về Lê Lợi trong hệ thống truyền thuyết Việt. Đồng thời làm sáng rõ vẻ đẹp người anh hùng Lê Lợi trong tâm thức người dân địa phương thông qua sinh hoạt lễ hội. 6.2 Về mặt thực tiễn Cung cấp thêm tư liệu về truyền thuyết người anh hùng Lê Lợi qua phân tích văn bản và tư liệu điền dã . Đối với việc giảng dạy môn văn học dân gian, đặc biệt là dạy về truyền thuyết về Lê Lợi, sẽ giúp học sinh, sinh viên hiểu rõ hơn người anh hùng Lê 12 Lợi. Góp phần nhận thức sâu sắc hơn giá trị văn hóa, văn học dân gian trong đó có văn học dân gian của địa phương Thanh Hóa. 7 Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương với nội dung chính như sau: Chƣơng 1: Khái quát về vùng đất Thanh Hóa và bối cảnh ra đời của truyền thuyết Lê Lợi Chƣơng 2: Truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa Chƣơng 3: Lễ hội gắn với truyền thuyết về Lê Lợi ở Thanh Hóa 13 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT THANH HÓA VÀ BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA TRUYỀN THUYẾT LÊ LỢI 1.1 Khái quát về vùng đất Thanh Hóa 1.1.1 Sơ lược về lịch sử vùng đất Thanh Hóa Thanh Hóa là tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội khoảng 150 km về phía Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560 km về hướng Bắc. Thanh Hóa bao gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 2 thị xã và 24 huyện, với diện tích 11.133,4 km2 và số dân 3,405 triệu người với 7 dân tộc Kinh, Mường, Thái, H'mông, Dao, Thổ, Khơ-mú.. Đây là một tỉnh lớn của Việt Nam, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số trong số các đơn vị hành chính trực thuộc trung ương, cũng là một trong những địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt. Cách đây khoảng 6000 năm đã có người sinh sống tại Thanh Hóa. Các di chỉ khảo cổ cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây là văn hóa Đa Bút. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hóa Đông Sơn, Thanh Hóa đó trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối Quỳ Chữ tương đương với các văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Và sau đó là nền văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đó toả sáng rực rỡ trong đất nước của thời đại các Vua Hùng. Thanh Hóa là tỉnh chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam trên nhiều phương diện. Về hành chính, Thanh Hóa là tỉnh cực bắc Trung Bộ, tiếp giáp với Tây Bắc Bộ và đồng bằng Bắc Bộ. Về địa chất, miền núi Thanh Hóa là sự nối dài của Tây Bắc Bộ trong khi đồng bằng Thanh Hóa là đồng bằng lớn nhất Trung Bộ, ngoài ra một phần nhỏ (phía bắc huyện 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan