Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Truyện ngắn việt nam 1945 – 1975 như một trường diễn ngôn...

Tài liệu Truyện ngắn việt nam 1945 – 1975 như một trường diễn ngôn

.DOC
179
254
57

Mô tả:

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Trêng ®¹i häc s ph¹m hµ néi ----------˜˜˜--------- HOµNG THÞ THU GIANG TRUYÖN NG¾N VIÖT NAM 1945 - 1975 NH¦ MéT TR¦êng diÔn ng«n Chuyªn ngµnh: lý luËn v¨n häc M· sè : 62.22.01.20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phùng Ngọc Kiếm hµ néi – 2014 LỜI CAM ĐOAN Tác giả luận án xin cam đoan: - Luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi. - Những số liệu và tài liệu được trích dẫn trong đây là trung thực. - Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó. Tôi chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình. Hà Nội, tháng 2 năm 2014 Tác giả luận án Hoàng Thị Thu Giang MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................. 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................................2 3. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................3 4. Nhiệm vụ và ý nghĩa của luận án.........................................................................3 5. Bố cục của luận án...............................................................................................4 Chương 1. TỔNG QUAN......................................................................................5 1.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975...............................5 1.2. Tình hình nghiên cứu diễn ngôn.....................................................................13 1.2.1. Trên thế giới.................................................................................................13 1.2.2. Ở Việt Nam..................................................................................................16 Chương 2. TRUYỆN NGẮN NHƯ MỘT TRƯỜNG DIỄN NGÔN................23 2.1. Diễn ngôn và các thẩm quyền diễn ngôn........................................................23 2.2. Khái niệm trường diễn ngôn...........................................................................28 2.3. Trường diễn ngôn truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975...................32 2.3.1. Những yếu tố chi phối sự hình thành, vận động của trường diễn ngôn truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975........................................................................32 2.3.2. Các bộ phận tâm và biên trong trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975......42 Chương 3. DIỄN NGÔN TRUNG TÂM TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 1945 – 1975......................................................................................54 3.1. Thẩm quyền sáng tạo......................................................................................54 3.1.1. Nguyên tắc truyền bá, nêu gương................................................................54 3.1.2. Khung truyện định sẵn.................................................................................60 3.2. Thẩm quyền của cái được biểu đạt.................................................................65 3.2.1. Thế giới được lưỡng cực hoá.......................................................................65 3.2.2. Bức tranh của những chức phận...................................................................69 3.2.3. Không gian cộng đồng và thời gian lịch sử.................................................85 3.3. Thẩm quyền tiếp nhận.....................................................................................88 3.3.1. Lớp ngôn từ, lời văn được đại chúng hóa, quân sự - chính trị hóa..............88 3.3.2. Giọng điệu thể hiện lập trường kháng chiến, cách mạng.............................94 Chương 4. DIỄN NGÔN NGOẠI BIÊN TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM 1945 – 1975....................................................................................100 4.1. Thẩm quyền sáng tạo....................................................................................100 4.1.1. Nguyên tắc phản tư với sáng tác tuyên truyền...........................................100 4.1.2. Vượt khung truyện định sẵn.......................................................................107 4.2. Thẩm quyền của cái được biểu đạt...............................................................113 4.2.1. Thế giới được đa diện hóa.........................................................................113 4.2.2. Bức tranh cuộc đời muôn mặt....................................................................116 4.2.3. Không gian cá thể và thời gian thế tục.......................................................127 4.3. Thẩm quyền tiếp nhận...................................................................................131 4.3.1. Ngôn từ, lời văn ẩn ý, đa nghĩa..................................................................131 4.3.2. Giọng điệu thể hiện ý thức phê phán và tinh thần nhân bản......................134 KẾT LUẬN.........................................................................................................146 CÁC BÀI BÁO Đà CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN...................................................................................151 THƯ MỤC THAM KHẢO...............................................................................152 PHỤ LỤC........................................................................................................... 162 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trong những năm 1945 – 1975, cả dân tộc Việt Nam huy động mọi sức mạnh vật chất và tinh thần có thể vào sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ và dựng xây đất nước. Trên mặt trận văn hoá nghệ thuật, truyện ngắn là thể loại xung kích, có nhiều đóng góp, phát triển đều, “ở chặng nào cũng có những truyện hay” [68;134]. Chính vì vậy, từ lâu, truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 đã trở thành đối tượng khảo sát của nhiều công trình phê bình, nghiên cứu văn học. Tuy nhiên, có thể thấy, cho đến nay, đối tượng này chủ yếu được nghiên cứu trong phạm vi lời nói nghệ thuật và phần nhiều dựa vào lí thuyết phản ánh. Đó là cách nghiên cứu theo hướng thi pháp lí thuyết, tách thể loại ra khỏi ngữ cảnh văn học cực kì phức tạp làm nên đời sống đích thực của chúng, hướng tới khái quát những đặc điểm chính yếu, tiêu biểu. Các thành tựu nghiên cứu, phê bình mấy chục năm qua về truyện ngắn nói riêng cũng như về văn học 1945 – 1975 nói chung thường tập trung khẳng định tính thống nhất, ít chú ý phân tích, lý giải các phạm vi, yếu tố khác biệt tồn tại, vận động trong chỉnh thể văn học giai đoạn này. Tiếp cận đối tượng theo hướng như vậy tưởng như là đã nghiên cứu triệt để, khó có thể phát hiện thêm điều gì mới về truyện ngắn Việt Nam 30 năm kháng chiến chống xâm lược. Chúng tôi cho rằng nếu vận dụng lí thuyết diễn ngôn, xem xét đối tượng trong sự tồn tại và vận động chỉnh thể, đa chiều, ta có thể nhận thức đầy đủ, đánh giá toàn diện hơn về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. 1.2. Hướng sự quan tâm đến phương thức ngôn ngữ tạo tác nên hiện thực, ngôn ngữ luận là khuynh hướng lý thuyết ngày càng phát triển mạnh mẽ và có nhiều ảnh hưởng trong khoa học xã hội hiện đại. Trong ngôn ngữ luận, lí thuyết diễn ngôn là khu vực rất nổi trội. Khác với các hướng nghiên cứu văn học theo phản ánh luận, bản thể luận, nghiên cứu văn học từ góc độ lí thuyết diễn ngôn xác định đối tượng tìm hiểu không chỉ là “thế giới nghệ thuật” mà còn là cách thức, mục đích của việc kiến tạo nên thế giới nghệ thuật đó. Tiếp cận văn học từ góc nhìn diễn ngôn không chỉ hướng tới giải đoán ý nghĩa của văn bản được nghiên cứu, mà còn xác định, tái 2 tạo, mô tả những nguyên nhân, điều kiện, quy tắc để tạo ra văn bản và ý nghĩa ấy. Nghiên cứu thể loại văn học như một hình thức diễn ngôn và trong thực tiễn diễn ngôn của nó, khảo sát lời nghệ thuật trên cùng một dãy với các thể loại lời nói ngoài nghệ thuật, nghiên cứu đối tượng trong môi trường đa ngữ theo tinh thần lí thuyết của M. Bakhtin, có thể đem lại cách nhìn và nhận thức mới về những vấn đề tưởng như đã xong xuôi của đời sống văn học, đặc biệt là về thời đại văn học và đặc trưng của thể loại trong tương tác diễn ngôn của thời đại. 1.3. Nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 như một trường diễn ngôn là hướng tìm hiểu đặc trưng của thể loại truyện ngắn dưới góc nhìn mới, có thể mang lại sự nhìn nhận và đánh giá toàn diện, khách quan hơn về truyện ngắn dân tộc giai đoạn này. Cùng với điều đó, luận án góp phần làm sáng rõ hơn bản chất của diễn ngôn và diễn ngôn văn học – những vấn đề ngày càng được quan tâm thảo luận, vận dụng trong nghiên cứu văn học tại Việt Nam. Với những ý nghĩa ấy, nghiên cứu đề tài có thể góp thêm một tài liệu tham khảo thiết thực với những người quan tâm đến lý luận, phê bình văn học, những người dạy – học văn học trong nhà trường các cấp. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975 với các bộ phận tâm và biên của nó, từ đó xác lập quan niệm và nhận thức về diễn ngôn, trường diễn ngôn văn học, trường diễn ngôn thể loại gắn với lịch sử xã hội. 2.2. Phạm vi nghiên cứu Với đối tượng nghiên cứu được xác định như trên, phạm vi nghiên cứu của luận án bao gồm: cơ sở lí thuyết diễn ngôn đối với nghiên cứu văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng; trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975 với các bộ phận cấu thành của nó; các thẩm quyền và chiến lược thực thi thẩm quyền của diễn ngôn trung tâm và diễn ngôn ngoại biên trong truyện ngắn 1945 – 1975. Trong hoàn cảnh lịch sử đặc thù của dân tộc, văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 gồm nhiều bộ phận. Làm nên diện mạo chính yếu của văn học dân tộc giai đoạn này là bộ phận văn học cách mạng (văn học kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ở cả hai miền Nam, Bắc; văn học thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở 3 miền Bắc những năm 1954 - 1964). Ngoài ra, còn có các bộ phận văn học trong vùng tạm chiếm những năm 1946 – 1954, văn học đô thị miền Nam 1954 - 1975 và văn học của người Việt ở nước ngoài. Trong khuôn khổ luận án, ứng với đối tượng và phạm vi nghiên cứu được xác định như trên, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát những truyện ngắn thuộc bộ phận văn học cách mạng giai đoạn 1945 – 1975 bởi chúng cùng nằm trong một trường diễn ngôn (có chung hoàn cảnh lịch sử, xã hội, cùng chịu sự chi phối của một cơ chế quyền lực, có chung môi trường sáng tác, chung đối tượng tiếp nhận, chung điều kiện lưu hành…). Những tác phẩm thuộc bộ phận này có thể khác nhau về quan điểm nghệ thuật, phương pháp sáng tác nhưng chúng có giao tiếp, có quan hệ với nhau. Những truyện ngắn thuộc các bộ phận khác tuy thuộc giai đoạn 1945 – 1975 nhưng không cùng nằm trong một trường diễn ngôn được đặt ra ngoài phạm vi khảo sát của luận án này. 3. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài việc kết hợp sử dụng các thao tác chung của nghiên cứu văn học như phân tích, tổng hợp, thống kê, phân loại .v.v, chúng tôi chú ý sử dụng các phương pháp: phương pháp loại hình, phương pháp nghiên cứu liên ngành và phương pháp so sánh. - Phương pháp loại hình: Nhận diện, phân loại các hình thái cấu thành trường diễn ngôn truyện ngắn giai đoạn 30 năm chiến tranh trên cơ sở chứng minh các nhóm hiện tượng giống nhau về những phương diện nào đó. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Đặt đối tượng vào môi trường văn hóa mà nó sinh thành, vận động, xác định bối cảnh lịch sử, xã hội, những cơ chế quyền lực cụ thể chi phối chiến lược kiến tạo các loại diễn ngôn trong trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975. - Phương pháp so sánh: So sánh các loại hình diễn ngôn thuộc trường diễn ngôn truyện ngắn 1945 – 1975 với nhau và với các diễn ngôn văn học khác cùng thời đại để có cái nhìn sáng rõ về đặc thù lịch sử của truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975. 4. Nhiệm vụ và ý nghĩa của luận án 4.1. Từ thực tế nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 như một trường diễn ngôn, luận án xác lập và làm rõ khái niệm trường diễn ngôn văn học, cụ thể ở đây là một trường diễn ngôn thể loại. 4 4.2. Chỉ ra tính chất phức tạp trong cấu trúc chỉnh thể của hiện thực truyện ngắn giai đoạn 1945 – 1975, những tác động của trường tri thức và quyền lực tới sự hình thành các thành phần tạo nên cấu trúc đó cũng như tác động trở lại của các thành phần đó tới đời sống văn hóa, xã hội, chính trị giai đoạn này. 4.3. Phân tích tổng thể các thẩm quyền, chiến lược thực thi các thẩm quyền của diễn ngôn khu vực trung tâm và khu vực ngoại biên trong trường diễn ngôn truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975, từ đó có cái nhìn toàn diện về truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975. 5. Bố cục của luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, Thư mục tham khảo và Phụ lục, phần Nội dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương: Chương 1. Tổng quan Chương 2. Truyện ngắn như một trường diễn ngôn Chương 3. Diễn ngôn trung tâm trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 Chương 4. Diễn ngôn ngoại biên trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 5 Chương 1. TỔNG QUAN Trong chương tổng quan, chúng tôi điểm lại những công trình nghiên cứu về truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 và vấn đề diễn ngôn trong nghiên cứu văn học. 1.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 Trong các thể loại văn học thuộc giai đoạn 1945 – 1975, truyện ngắn, cùng với thơ là đối tượng nhận được sự quan tâm, bình giá nhiều hơn cả, kể cả trong thời gian ba mươi năm chiến tranh cũng như ở giai đoạn sau 1975. Thời kì khoảng 10 năm đầu sau cách mạng tháng Tám, dù số lượng tác phẩm truyện ngắn chưa nhiều, cũng đã có những bài viết đánh giá, bàn luận về truyện ngắn cách mạng đương thời. Càng về sau càng có nhiều hơn những bài viết đánh giá, phê bình về các truyện ngắn giai đoạn 30 năm chiến tranh. Có thể nói khó đếm xuể những bài phê bình về các truyện ngắn/tập truyện ngắn/tác giả truyện ngắn cụ thể. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu chuyên sâu về toàn bộ nền truyện ngắn giai đoạn này chỉ xuất hiện từ sau năm 1975. Dưới đây chúng tôi sẽ điểm qua những công trình nghiên cứu tiêu biểu về đối tượng này. Trước hết, có thể kể tới công trình Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 (bộ phận văn học cách mạng) của Phùng Ngọc Kiếm. Chọn quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn 1945 – 1975 làm đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở xác định quan niệm về con người trong ý thức nghệ thuật của văn học giai đoạn này nói chung, tác giả đã tập trung làm rõ những cảm nhận về con người trong truyện ngắn, từ đó đưa ra kết luận: con người sử thi – con người mang vẻ đẹp lí tưởng của dân tộc và thời đại, sống hết mình với sự nghiệp chung của cộng đồng, xả thân vì nghĩa lớn … là kiểu nhân vật chủ yếu của truyện ngắn 1945 – 1975. Với loại nhân vật này, truyện ngắn 1945 – 1975 đã “góp phần khắc họa, khẳng định, cổ vũ sự hồi sinh, trưởng thành của dân tộc dưới ánh sáng của cách mạng và kháng chiến” [57;179]. Bên cạnh việc khẳng định vị trí trung tâm của kiểu hình tượng con người sử thi, với những dẫn chứng cụ thể và những phân tích thấu đáo, cuốn sách đã chỉ ra và khẳng định những thức nhận của các tác giả truyện ngắn 1945-1975 về con người cá nhân – con người tự khẳng định mình, có nhu cầu được hưởng hạnh phúc, đau đớn với những mất mát cá nhân… Tác giả khẳng định: “Các kiểu loại con 6 người sử thi cùng với những thức nhận về con người cá nhân trong nhiều tác phẩm đã chứng tỏ khát vọng, khả năng nắm bắt, những nỗ lực sáng tạo của nhà văn để miêu tả cuộc sống ngày càng phong phú và sâu sắc, để tạo ra những màu sắc thẩm mĩ ngày càng đa dạng, hấp dẫn” [57;179]. Người viết công trình này nhấn mạnh những thành công chủ yếu trong nghệ thuật truyện ngắn 1945 – 1975: nghệ thuật miêu tả nhân vật tập thể, xây dựng chân dung cá nhân điển hình của kiểu con người sử thi; nghệ thuật tạo tình huống xung đột, dựng bối cảnh (không gian – thời gian) và sắc vẻ đặc trưng trong giọng điệu, ngôn từ của truyện ngắn giai đoạn này. Những thành công ấy chứng tỏ: “thành tựu nghệ thuật của truyện ngắn 1945 – 1975 là phong phú và không thể phủ nhận” [57; 301]. Cũng lấy đối tượng nghiên cứu là truyện ngắn 30 năm sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Khắc Sính trong công trình Phong cách thời đại – nhìn từ một thể loại văn học đã phân tích các biểu hiện của phong cách thời đại trong thể loại ngắn gọn, năng động này. Theo tác giả, truyện ngắn là thể loại có thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, đã thể hiện độc đáo nổi bật phong cách thời đại, phân biệt với văn học sau 1975. Nhưng vấn đề này lại hầu như chưa được quan tâm xem xét thật sự. Từ nhận định đó, tác giả đã tập trung xem xét truyện ngắn 1945 – 1975 và kết luận: phong cách thời đại trong truyện ngắn giai đoạn này là sự kết hợp của bốn yếu tố hiện thực, sử thi, lãng mạn, trữ tình. Bốn yếu tố đặc trưng đó “làm thành diện mạo của văn học một thời với màu sắc riêng của nó mà giai đoạn trước đó chưa có và ở giai đoạn sau không lặp lại nữa” [133;362]. Không dừng lại ở việc nêu, trình bày những yếu tố làm nên phong cách thời đại của truyện ngắn 1945 – 1975, Nguyễn Khắc Sính còn chỉ ra sự vận động của nó: ở thời kì 1945 – 1954, yếu tố hiện thực chiếm ưu thế, sang thời kì 1955 – 1964, yếu tố trữ tình chiếm vị trí chủ đạo, đến thời kì 1965 – 1975, yếu tố sử thi trở thành nét trội. Theo tác giả: chính các tiền đề lịch sử, chính trị, đạo đức … đã tác động, chi phối tới sự vận động của phong cách thời đại trong truyện ngắn 1945 – 1975 như đã mô tả. Trong Truyện ngắn Việt Nam – công trình có sự hợp tác nghiên cứu của nhiều học giả do GS.VS. Phan Cự Đệ, PGS.TS. Lý Hoài Thu đồng chủ trì đề tài, mảng truyện ngắn 1945 – 1975 cũng được đặc biệt quan tâm. Trong công trình mang tính chất tổng kết về mặt lí luận và văn học sử, bao quát những thành tựu 7 của cả nền truyện ngắn Việt Nam xuyên suốt từ thời kì trung đại đến thời kì hiện đại, diện mạo truyện ngắn 1945 – 1975 được phác họa với những gương mặt truyện ngắn ấn tượng: Bùi Hiển, Kim Lân, Hồ Phương, Nguyễn Khải, Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu, Vũ Hạnh, Sơn Nam, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Đỗ Chu, Lê Minh Khuê. Các tác giả Truyện ngắn Việt Nam đã giới thiệu, phân tích, bình giá cái hay, cái đẹp và cả những hạn chế trong những tác phẩm tiêu biểu, từ đó xác lập những đặc điểm riêng của từng cây bút truyện ngắn. Có thể thấy, mặc dù chưa giới thiệu được tất cả những tác giả, tác phẩm truyện ngắn giai đoạn này, chưa chi tiết được trong phác họa diện mạo cả nền truyện ngắn với những nét đậm, nhạt, nổi, chìm, những tiếng nói đối thoại, đa thanh trong nền truyện ngắn ấy, nhưng qua việc giới thiệu các cây bút truyện ngắn như trên, độc giả cũng có thêm nhiều nhận thức bổ ích về sự phát triển, sức sống, vẻ hấp dẫn của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975. Với nhận định: “trong đội quân thể loại tạo nên lịch sử văn học 1945 – 1975, truyện ngắn được xem là thể loại để lại nhiều tác phẩm sáng giá” [121;19], Hỏa Thị Thúy, trong công trình Truyện ngắn Việt Nam – diện mạo lịch sử của thể loại đã chỉ ra sự vận động của thể loại truyện ngắn 1945 – 1975: ở thời kì 1945 – 1954, truyện ngắn Cách mạng có đặc điểm “già” kí, “non” truyện; thời kì 1955 – 1964, truyện ngắn giàu cảm hứng trữ tình cách mạng, tới thời kì 1965 – 1975, tất cả hạt nhân cấu trúc thể loại từ loại hình nội dung, hình tượng trung tâm đến nguyên tắc trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu tác phẩm đều mang tính sử thi. Và đúng như Hỏa Thị Thúy đã nêu trong Truyện ngắn Việt Nam – diện mạo lịch sử của thể loại, “một đối tượng nghệ thuật chân chính sẽ tham gia vào những cuộc đối thoại không bao giờ kết thúc” [121;207], sau những công trình dài hơi lấy truyện ngắn 1945 - 1975 làm đối tượng nghiên cứu, tiếp tục có luận án Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 (nhìn từ góc độ thi pháp thể loại) của Nguyễn Thị Bích Thu. Ở công trình này, tác giả đã xác định và làm rõ hai loại hình cơ bản của truyện ngắn 1945 – 1975: truyện ngắn trữ tình và truyện ngắn hiện thực. Về loại hình nhân vật, tác giả xác định có hai kiểu người cơ bản trong truyện ngắn 1945 – 1975: con người chính trị - con người công dân - con người sử thi (kiểu 1) và con người cá nhân (kiểu 2). Về con người cá nhân, tác giả xác 8 định đây là kiểu nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong một số truyện ngắn ra đời vào những năm sau 1954. “Kiểu người này đã phải chịu sự phê phán của dư luận vì đã đi chệch ra khỏi quỹ đạo của một nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa.Tuy nhiên, từ chỗ đứng của ngày hôm nay, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện của con người cá nhân là hợp quy luật, là sự tiếp nối của con người cá nhân trước Cách mạng. Sau 1975, không còn chịu sự chi phối của chiến tranh, con người cá nhân sẽ trở lại và giữ vị trí quan trọng trên văn đàn” [119;181]. Đồng thời với những ghi nhận về đóng góp của truyện ngắn 1945 – 1975, Nguyễn Thị Bích Thu cũng chỉ ra những hạn chế của truyện ngắn 1945 – 1975: kiểu nhân vật loại hình xuất hiện nhiều trong truyện ngắn 1945 – 1975 và chưa có những điển hình sắc nét, chứng tỏ các tác giả chưa nắm được bản chất của hiện thực, mới chỉ chú ý đến minh họa đơn thuần những chủ trương chính sách. Nhân vật loại hình kết hợp với tính cách đã xuất hiện nhưng chưa nhiều. Về giọng điệu, theo tác giả, tính chất đơn giọng là đặc điểm riêng của truyện ngắn thời kì này. “Do chú trọng đến chức năng tuyên truyền, cổ vũ công cuộc giữ nước mà truyện thường đi sâu khai thác mặt thuận chiều, khiến cho hiện thực được phản ánh rơi vào sơ lược, giản đơn. Cũng do yêu cầu của lịch sử mà nhân vật chỉ được khai thác ở phương diện xã hội, đời sống nội tâm chưa được quan tâm nhiều…”[119;182]. Bên cạnh những công trình nghiên cứu chuyên sâu nêu trên, còn có rất nhiều bài báo phân tích, nhận xét, đánh giá về truyện ngắn 30 năm sau Cách mạng. Trong số những bài viết được đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành nghiên cứu văn học, chúng tôi chú ý tới hai bài báo của các tác giả Vương Trí Nhàn và Lại Nguyên Ân về truyện ngắn 1945 – 1975. Trên Tạp chí văn học số 6 năm 1978, nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn công bố bài viết Về sự lựa chọn chủ đề và phát triển tính cách trong truyện ngắn sau cách mạng (sau này, tại trang mạng http://vuongtrinhan. wordpress.com/2010/01/09, nhan đề bài viết được đổi thành Về sự lựa chọn chủ đề và phát triển tính cách trong truyện ngắn 1945 – 1975). Ở phần mở đầu bài nghiên cứu, tác giả khẳng định: “So với văn chương tiền chiến, văn xuôi cách mạng Việt Nam có khá nhiều thay đổi, trước tiên là ở những nguyên tắc lựa chọn chủ đề, phát triển tính cách nhân vật – những khâu quan trọng bậc nhất trong việc hình thành tác 9 phẩm”. Qua những dẫn chứng cụ thể, nhà nghiên cứu chỉ ra những chủ đề được lặp đi lặp lại ở từng chặng và cách triển khai thể hiện chủ đề đó. Ở những năm đầu cách mạng (khoảng 1945-1948), truyện ngắn tập trung thể hiện chủ đề “dứt bỏ” - được hiểu là “vượt lên trên chết chóc, nhưng có khi đơn giản chỉ là vượt lên trên cuộc sống phù hoa và cả những thói quen cũ, cách đánh giá cũ”. Theo Vương Trí Nhàn, “chỉ trong hoàn cảnh có những thay đổi đột biến như cách mạng, chủ đề dứt bỏ mới được thực hiện”. Từ nửa sau cuộc kháng chiến chống Pháp, “thức tỉnh”, “giác ngộ” trở thành chủ đề thường gặp trong các truyện ngắn cách mạng. Để thể hiện chủ đề đó, có hai cách dựng truyện phổ biến: cách đi vào một vài phút giây đột biến; và cách nói tới những thay đổi dần dà chậm rãi, cho đến khi con người hoàn toàn “khác trước”. Mở rộng phạm vi khảo sát, tác giả kết luận: chủ đề “nhận thức” và chủ đề “ân nghĩa ân tình” là những chủ đề “có ý nghĩa bao trùm”, “làm nên hai mạch truyện chính của nền văn học sau Cách mạng”. “Hai mạch truyện này lại phát triển chồng chéo lên nhau ở nhiều mô-típ cốt truyện chung mà chúng ta thấy lặp đi lặp lại nhiều lần đến mức không thể coi là ngẫu nhiên”. Về chủ đề “nhận thức”, theo tác giả: “Những ngày đầu Cách mạng, để dứt bỏ với quá khứ, người ta phải nhận thức; trong những năm tháng chiến đấu, để giữ vững ý chí, người ta phải nhận thức; mà những khi đất nước có hoà bình, để bắt tay xây dựng và bảo vệ một cuộc sống mới, người ta càng phải nhận thức”. “Như là một điều mặc nhiên, đối với tác giả mà cũng là đối với nhân vật, muốn giải quyết việc gì, trước tiên phải dò lại con người của mình, phải sòng phẳng với mình đã. Trước khi bắt tay vào hành động, cả tác giả và nhân vật đều thấy cần thiết phải bước vào một cuộc “chỉnh huấn”, tự xác định, để rồi cứ thế mà làm. Còn mối quan hệ giữa tư tưởng và hành động không bao giờ được đặt ra, bởi bao giờ cũng được quan niệm là nhất trí”. Với chủ đề “ân nghĩa ân tình”, Vương Trí Nhàn xác định có hai cách dựng truyện phổ biến: cốt truyện “gặp gỡ” hoặc “đi vào cuộc sống thường ngày”. Và dù mạch truyện được triển khai theo kiểu nào chăng nữa thì đều để khẳng định: Cách mạng đã đem lại cuộc đời thật tốt đẹp, con người sống với nhau, trong mọi hoàn cảnh đều tràn đầy ân nghĩa ân tình. “Nếu so sánh với một chủ đề truyện thường thấy ở văn học phương Tây hiện đại, “sự bất tương thông”, sự xa lạ giữa người với người, thậm chí sự chia lìa ngay trong con người một nhân vật nào đó – thì truyện Việt Nam 1945 – 1975 là cả một đối 10 cực”. Trên cơ sở xác định, lí giải những chủ đề phổ biến trong truyện ngắn sau Cách mạng, tác giả khẳng định: “trong sáng giản dị” là một “đặc tính chủ yếu của con người thời đại” 1945 – 1975. Bài nghiên cứu trên của tác giả Vương Trí Nhàn tuy có dung lượng ngắn (hơn chục trang viết) nhưng đã thâu tóm được những vấn đề cơ bản và cách triển khai những vấn đề đó trong truyện ngắn 1945 – 1975. Đây chính là thao tác nghiên cứu theo tinh thần của lí thuyết diễn ngôn (mặc dù ở thời điểm viết – năm 1978, tác giả có thể chưa tiếp cận với lí thuyết này). Có thể khẳng định, cách diễn giải và giọng điệu của bài viết đã tạo nên một diễn ngôn riêng trong hệ thống công trình nghiên cứu về truyện ngắn 30 năm sau Cách mạng tháng Tám. Một bài viết khác, cũng rất đáng chú ý là Thử tìm hiểu loại hình các mô-tip chủ đề trong văn học Việt Nam hiện đại của Lại Nguyên Ân, đăng trên Tạp chí văn học số 6, năm 1987 (bạn đọc cũng có thể tìm bài viết trên tại địa chỉ mạng http://lainguyenan.free.fr/TheLoaiVanHoc/HeThong2.html). Theo Lại Nguyên Ân, những “chủ đề” mà Vương Trí Nhàn xác định trong bài viết Về sự lựa chọn chủ đề và phát triển tính cách trong truyện ngắn sau cách mạng “chính là những mô-típ chủ đề, những mô-típ nghĩa nghệ thuật đã được tạo ra trong nền văn học mới”. Trong khuôn khổ một bài báo, với chủ ý “chỉ nêu một số nét vắn tắt, gợi ra một hướng nghiên cứu phân tích”, tác giả Lại Nguyên Ân đã xác định những môtíp chủ đề cơ bản trong văn học mới Việt Nam từ sau Cách mạng. Đó là: mô-típ cách mạng − ngày hội – một mô-típ nghệ thuật được thể hiện khá tập trung ở những sáng tác thơ, văn, kịch ngay sau cách mạng và đầu cuộc kháng chiến thứ nhất; mô-típ thức tỉnh, giác ngộ − một mô-típ chủ đề khác khá tiêu biểu ở văn học thời kỳ đầu; mô-típ vươn mình, đổi đời hết sức phổ biến trong nền văn học mới; mô-típ nén tình riêng vì nghĩa lớn của cách mạng − mô-típ phổ biến trong nhiều sáng tác thơ và văn xuôi 1945 – 1975. Mô-típ "nén tình riêng…" lại là một trường hợp của một mô-típ chung hơn: mô-típ quyết tâm chiến đấu. Ở văn học cách mạng thời kì 1955 – 1964, mô-típ ân tình cách mạng - một trong những cách để cụ thể hóa mô-típ "niềm vui cách mạng" thể hiện đặc biệt rõ; mô-típ xả thân vì nghĩa lớn là mô-típ chủ đề phổ biến nhất trong văn học từ giữa những năm 1960 đến giữa những năm 1970. Cũng ở khoảng thời gian những năm 1960-1970, trình bày nội 11 dung ngày thường của đời sống cách mạng là một mô-típ nghệ thuật có phạm vi thể hiện khá rộng rãi trong sáng tác, nhất là ở văn xuôi. Mô-típ này được thể hiện ở hai dạng thường gặp nhất: truyện chiến đấu và truyện sản xuất, tương ứng với hai phạm vi được coi là hiện thực cách mạng quan trọng nhất trong đời sống chính trị đất nước đương thời. Trên cơ sở mô tả những mô-típ chủ đề chính đã được tạo ra trong nền văn học mới Việt Nam từ sau cách mạng (“nền văn học mới” được khảo sát ở đây kéo dài từ 1945 tới 1985), Lại Nguyên Ân đi tới kết luận: “Có thể thấy rõ là trong nền văn học mới của bốn chục năm qua, chủ yếu là văn học thời gian 1945-1975, những nhóm thể tài thế sự và đời tư tương đối ít phát triển. Chiếm vị trí chủ đạo là nhóm thể tài lịch sử dân tộc. Do vậy tính chất sử thi là đặc điểm nổi bật, quyết định của nền văn học này”. Tác giả chỉ ra: thể tài đời tư với tư cách là một thể tài độc lập rất ít phát triển trong nền văn học mới. Nó chỉ là một yếu tố chức năng để triển khai những chủ đề văn học bao quát hơn − những chủ đề gắn chặt với lợi ích dân tộc, với lịch sử dân tộc đương đại, với nội dung chính trị của thời đại. Thể tài thế sự trong nền văn học mới tương đối phát triển hơn so với thể tài đời tư. Tuy nhiên, về cơ bản, yếu tố thế sự vẫn ít phát triển và chủ yếu tồn tại trong quan hệ phối thuộc (trực tiếp hoặc gián tiếp) với thể tài lịch sử-dân tộc trong các sáng tác của văn học mới. Theo Lại Nguyên Ân, nếu có thể tìm được một ví dụ rõ nhất cho nhận định “thể tài thế sự ít phát triển” thì đó là sự vắng bóng của các thể châm biếm, trào phúng. Văn học của tiếng cười ở đây chủ yếu chỉ phát triển ở mảng "đánh địch", chĩa mũi nhọn đả kích vào kẻ thù dân tộc. Châm biếm nội bộ chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Do đó, có thể khẳng định, thể tài chiếm vị trí chủ đạo, quyết định toàn bộ diện mạo và hệ thống thể loại của nền văn học Việt Nam sau Cách mạng là nhóm thể tài lịch sử - dân tộc. Phạm vi của các tác phẩm thuộc thể tài lịch sử-dân tộc gần như trùm hết toàn bộ các sáng tác được thừa nhận của nền văn học này, tạo nên tính sử thi - tính chất chủ đạo, nét đặc trưng của toàn bộ văn học giai đoạn sau cách mạng tháng Tám. Có thể thấy, bài viết Thử tìm hiểu loại hình các mô-tip chủ đề trong văn học Việt Nam hiện đại của Lại Nguyên Ân đã xác định được những đặc điểm cơ bản về nội dung thể tài của văn học sau cách mạng nói chung, của truyện ngắn giai đoạn này nói riêng. Đi xa hơn Vương Trí Nhàn ở bài viết Về sự lựa chọn chủ đề 12 và phát triển tính cách trong truyện ngắn sau cách mạng, tác giả Lại Nguyên Ân mở rộng phạm vi khảo sát ở hầu khắp các thể loại của nền văn học mới, từ đó xác định được nhiều hơn những mô-típ chủ đề trong một thời kì, giai đoạn văn học. Tuy nhiên, có lẽ vì đi xa hơn, mở rộng phạm vi khảo sát ở nhiều thể loại hơn nên tác giả lại ít có thời gian đi sâu vào riêng thể loại truyện ngắn 1945 – 1975. Những chiến lược kiến tạo bức tranh thế giới để đạt được mục đích giao tiếp của truyện ngắn 30 năm sau Cách mạng – điều mà tác giả Vương Trí Nhàn đã khai phá bước đầu chưa được nghiên cứu tiếp nối. Dẫu sao, nhiều nhận định sắc sảo, tinh tế của Lại Nguyên Ân về văn học 1945 – 1975, trong đó có truyện ngắn là những tham khảo giá trị cho những ai tiếp tục muốn nghiên cứu về đối tượng truyện ngắn của giai đoạn này. Có thể nói, số lượng các công trình, bài viết về truyện ngắn 1945 – 1975 là rất lớn. Các vấn đề được nêu ra về truyện ngắn 1945 – 1975 “phong phú và đa dạng như chính đối tượng mà nó hướng tới” [121;4] (mà ở đây, chúng tôi chỉ điểm qua các công trình được xem là tiêu biểu cho những hướng nghiên cứu đã có về đối tượng này). Tuy nhiên, có thể thấy, cho đến nay, các công trình, bài báo về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 hầu như mới chỉ tập trung nói về những tác phẩm thể hiện đường lối tư tưởng của Đảng, những sáng tác “được thừa nhận” của nền văn học này. Những truyện ngắn chưa quán triệt đường lối, từng bị phê phán thì rất ít được nhắc đến. Khoan chưa bàn vấn đề đúng sai về tư tưởng của các tác phẩm từng bị phê phán đó, chúng tôi chỉ muốn nói rằng nếu chúng ta dành sự chú ý cho cả những tác phẩm từng bị xem là “lệch chuẩn” của truyện ngắn 1945 - 1975, chắc chắn cái nhìn, đánh giá về diện mạo, đặc điểm thể loại truyện ngắn giai đoạn này sẽ toàn diện và chính xác hơn. Bên cạnh đó, truyện ngắn 1945 – 1975, trong hầu hết các công trình đã có đều mới chủ yếu được xem xét trong phạm vi lời nói nghệ thuật. Nói cách khác, truyện ngắn 1945 – 1975 (cũng như văn học nói chung) hầu như mới được nghiên cứu như một đơn vị nghệ thuật chứ chưa được nghiên cứu như một đơn vị của giao tiếp – một loại diễn ngôn, một thể loại lời nói. Trong bài viết Vấn đề thể loại lời nói, M. Bakhtin nhận định: “Vấn đề thể loại lời nói chưa bao giờ được đặt ra một cách chính thức. Mới chỉ có các thể loại văn học được nghiên cứu nhiều nhất. Nhưng từ thời cổ đại tới 13 bây giờ, chúng chỉ được nghiên cứu trong phạm vi đặc trưng văn học – nghệ thuật, trong sự khác biệt giữa chúng với nhau (trong phạm vi văn học), chứ không được nghiên cứu như những loại hình phát ngôn cụ thể” [94;10]. Nhận định đó đúng với tình hình nghiên cứu văn học nói chung ở thời điểm mà M. Bakhtin viết tiểu luận Vấn đề thể loại lời nói (những năm 1952, 1953), và về cơ bản vẫn đúng với tình hình nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam 1945 – 1975 nói riêng tới nay. Vấn đề là tại sao cần nghiên cứu văn học như một diễn ngôn? Theo M.Bakhtin, mỗi phát ngôn có ba bình diện, gồm nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu. Ba bình diện ấy gắn bó chặt chẽ trong chỉnh thể phát ngôn và bị những đặc điểm của một phạm vi giao tiếp cụ thể chế định. Nếu coi văn học là một diễn ngôn, nghiên cứu nó như một đơn vị của giao tiếp, chúng ta sẽ có cái nhìn đa chiều, toàn diện hơn về các sinh thể lời nói, từ mục đích tạo lời tới chiến lược kiến tạo lời để đạt mục đích giao tiếp nhất định. Từ tinh thần lí thuyết của M.Bakhtin, theo chúng tôi, nếu xem truyện ngắn 1945 – 1975 như một trường diễn ngôn, ta sẽ nhìn thấy những bước vận động, những tiếng nói đa dạng, không thuần nhất trong thể loại này và lí giải được nguyên nhân sinh thành, tồn tại của chúng trong thời đại 30 năm chiến tranh đó. 1.2. Tình hình nghiên cứu diễn ngôn 1.2.1. Trên thế giới T.A. Vandijk, trong Handbook of Language and Social Psychology (Cẩm nang ngôn ngữ và tâm lí xã hội) cho rằng: “Mặc dù có nguồn gốc từ khoảng 2000 năm của thuật hùng biện, phân tích diễn ngôn như một ngành độc lập trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn đã nổi lên kể từ giữa những năm 1960” [157;164]. Thực tế, ngay từ thập kỉ thứ 3, thứ 4 của thế kỉ XX, M. Bakhtin, trong các công trình Ngôn từ sinh hoạt và ngôn từ nghệ thuật (1926), Phương pháp hình thức trong nghiên cứu văn học (1928), Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ (1929) (tác phẩm này có chương về lời nói của người khác), Ngôn từ tiểu thuyết (1934 – 1935), Mấy vấn đề về thi pháp Dostoievski (được viết, in năm 1929, bổ sung sửa chữa năm 1963) v.v… đã thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với các thể loại lời nói. Khi tìm hiểu các công trình này, các nhà nghiên cứu nhận thấy 14 M.Bakhtin tập trung phân tích các khái niệm như “tekst”, “vyskazyvania”, “rech” – chỉ phạm vi hoạt động viết, hoặc “slovo” – với nghĩa các thể loại lời nói, và dù gọi là ngôn từ, là lời nói, là văn bản hay phát ngôn, về thực chất M.Bakhtin đã nói về diễn ngôn (discourse). Theo sự diễn giải của J.Kristeva trong Một nền thi pháp học sụp đổ thì “Nghĩa trực tiếp thứ nhất và thông dụng của từ này là “lời” (mot – tiếng Pháp). Tuy nhiên, từ này còn có một nghĩa thứ hai, với một sự mở rộng nghĩa cổ và có tính ẩn dụ, đó là “diễn ngôn” (discourse). Và với nghĩa thứ hai, slovo – discourse là khái niệm chỉ ngôn ngữ được phát ra bởi một chủ thể và/hoặc cái mà một chủ thể thực hiện trong ngôn ngữ” [94;75]. Từ giữa thế kỉ XX trở đi, khái niệm diễn ngôn (discourse) với tư cách là một thuật ngữ xuất hiện và trở thành khái niệm trung tâm, được lưu hành rộng rãi trong khoa học xã hội nhân văn. Bằng chứng là từ thời điểm này, đã ra đời hàng loạt công trình nghiên cứu về diễn ngôn, trước hết dưới góc độ ngôn ngữ học và triết học ngôn ngữ, sau đó dưới góc độ ngữ văn học và triết học xã hội, tiêu biểu như: Nghiên cứu triết học (L.Wittgenstein, 1953), Vấn đề các thể loại lời nói (M.Bakhtin, 1953), Độ không của lối viết (1953), Những huyền thoại (1957) của R.Barthes, Trên đường đến với ngôn ngữ (M.Heidegger, 1959), Chân lý và phương pháp (G.Gadamer, 1960), Từ ngữ và các vật (M.Foucault, 1966), Ngữ pháp truyện Mười ngày (1969), Khảo cổ học tri thức (M.Foucault, 1969), S/Z (R.Barthes, 1970), Dẫn luận văn chương kì ảo (1970), Thi pháp văn xuôi (1971) của T.Todorov, Trật tự diễn ngôn (M.Foucault, 1971) Mĩ học sáng tạo ngôn từ (M.Bakhtin, 1979), Cẩm nang về diễn ngôn – phân tích của T.A.Van Dijk (1985), Diễn ngôn tự sự (G.Genette, 1988), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn (D.Nunan, 1990) .v.v, Thi pháp học: từ điển các thuật ngữ và khái niệm bức thiết (N.D.Tamarchenko chủ biên, 2008) v.v… Đến nay, nghiên cứu diễn ngôn đã có một lịch sử tương đối dài và vấn đề diễn ngôn ngày càng trở nên phức tạp, là cơ sở dẫn tới sự xuất hiện ngày càng nhiều những công trình giới thuyết, tổng thuật về nghiên cứu diễn ngôn, trong đó, Từ điển bách khoa thư về lí luận văn học hiện đại - mục từ Diễn ngôn của M. Christine (1993), Diễn ngôn của S.Mills (1997), Các lí thuyết diễn ngôn hiện đại: kinh nghiệm phân loại của O.F.Rusakova (2006) v.v... là những công trình giới 15 thuyết, tổng thuật về nghiên cứu diễn ngôn đáng chú ý. Chúng tôi đặc biệt quan tâm tới Các lí thuyết diễn ngôn hiện đại: kinh nghiệm phân loại của O.F.Rusakova (Lã Nguyên dịch, 2013) bởi công trình tổng quan về nghiên cứu diễn ngôn này mang tới hiểu biết khá bao quát về nguồn gốc, sự phát triển cũng như nội hàm phức tạp của khái niệm diễn ngôn. Trong Các lí thuyết diễn ngôn hiện đại: kinh nghiệm phân loại, O.F.Rusakova khẳng định: “Từ cuối những năm 1960, nhờ hệ thống thuật ngữ và tư tưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại và kí hiệu học được quảng bá rộng rãi trong giới học thuật, “bước ngoặt ngôn ngữ học” biến thành “bước ngoặt diễn ngôn” [112]. O.F.Rusakova cho rằng: “Trong các công trình nghiên cứu thời gian gần đây, thấy xuất hiện nhiều ý đồ phân loại và hệ thống hoá các lí thuyết diễn ngôn, diễn ngôn – phân tích theo những cách khác nhau. Nhìn từ khía cạnh phương pháp luận được đề xướng, có lẽ thú vị nhất là cách phân loại của T.A.Van Dijk, J.Torfing, M.Jorgensen và L.Phillips” [112]. Trên cơ sở trình bày cụ thể ba hướng phân loại lí thuyết diễn ngôn đã nêu, tác giả Các lí thuyết diễn ngôn hiện đại: kinh nghiệm phân loại kết luận: “Các lí thuyết diễn ngôn không chịu sự ràng buộc của bất kì bộ môn khoa học, hay đối tượng - tâm điểm nào. Cơ sở phương pháp luận của diễn ngôn – lí thuyết về nguyên tắc có tính chất tổng hợp, liên ngành, còn phạm vi đối tượng của các lí thuyết này bao giờ cũng rộng mở dành cho sự tiếp tục phát triển. Trong tổng thể, các lí thuyết diễn ngôn nhiều không kể xiết thể hiện rất rõ xu hướng phát triển ráo riết và rộng rãi, mang tính đa hệ hình, đa ngành của nghiên cứu khoa học hiện đại” [112]. Có thể khẳng định, Các lí thuyết diễn ngôn hiện đại: kinh nghiệm phân loại của O.F.Rusakova là một công trình tổng thuật khá chi tiết về tình hình phân loại lí thuyết diễn ngôn. Trên cơ sở điểm lại ba hướng phân loại lí thuyết diễn ngôn mà tác giả bài viết tâm đắc, quá trình phát triển của lí thuyết diễn ngôn trên thế giới với những quan niệm đa dạng về diễn ngôn đã được giới thuyết ngắn gọn, sáng rõ. Cũng ở công trình này, hầu hết các tên tuổi tiêu biểu thuộc nhiều cành nhánh của nghiên cứu diễn ngôn – từ ngôn ngữ học đến triết học xã hội học đã được nhắc đến. Tuy nhiên, qua tổng thuật của Rusakova, có thể thấy, ở cả ba hướng phân loại lí thuyết diễn ngôn của T.A.Van Dijk, J.Torfing, M.Jorgensen và L.Phillips đều chưa thấy nhắc tới tên tuổi M.Bakhtin và các học giả Nga như Tamachenko và 16 Chiupa cùng quan niệm đáng chú ý của họ về các thể loại lời nói – diễn ngôn, diễn ngôn văn học. Theo chúng tôi, khi tổng quan về lịch sử nghiên cứu lí thuyết diễn ngôn trên thế giới, không thể không nhắc tới nhánh nghiên cứu diễn ngôn theo hướng “siêu ngôn ngữ học” mà M.Bakhtin là người khởi đầu, được J.Kristeva, N.D.Tamachenko, V.I.Chiupa … vận dụng, phát triển. Thành tựu và quan niệm của các tác giả thuộc hướng nghiên cứu này sẽ được chúng tôi nhắc tới khi điểm lại một số công trình tổng thuật, lược thuật của các nhà nghiên cứu Việt Nam về sự phát triển của lí thuyết diễn ngôn cũng như khi vận dụng để xác lập cơ sở lý thuyết cho đề tài này. 1.2.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề diễn ngôn được giới thiệu sớm nhất trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Có thể kể tên các công trình như: Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm (1985), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản của Diệp Quang Ban (1998, 2009), Dụng học Việt ngữ của Nguyễn Thiện Giáp (2000), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 của Đỗ Hữu Châu (2001), Phân tích diễn ngôn – một số vấn đề lí luận và phương pháp của Nguyễn Hoà (2003), Từ điển tu từ – phong cách – thi pháp học của Nguyễn Thái Hoà (2005).v.v. Khi xem xét lịch sử sử dụng thuật ngữ diễn ngôn ở ta, không thể không nhắc tới một số công trình nghiên cứu về diễn ngôn của nước ngoài được dịch sang tiếng Việt, xuất hiện gần như đồng thời với những công trình biên soạn và nghiên cứu về diễn ngôn của các nhà ngôn ngữ học trong nước, như: Dụng học, một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ của George Yule (Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch, 1997); Dẫn nhập phân tích diễn ngôn của David Nunan (Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch, 1998); Phân tích diễn ngôn của Gillian Brown, George Yule (Trần Thuần dịch, 2002), Dẫn luận ngữ pháp chức năng của Mark Halliday (Hoàng Văn Vân dịch, 2004) .v.v. Có thể nói rằng, những bước phát triển về nghiên cứu diễn ngôn của ta có được chính là một phần dựa trên sự tham chiếu những công trình như trên. Trong nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu Việt Nam bắt đầu đến với lí thuyết diễn ngôn thông qua tìm hiểu những công trình của các nhà nghiên cứu văn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan