Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía bắc (qua các tác phẩm của cao duy sơ...

Tài liệu Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía bắc (qua các tác phẩm của cao duy sơn, đỗ bích thúy và nguyễn huy thiệp)

.PDF
90
9
138

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN -------  ------- NGUYỄN MINH TRƢỜNG TRUYỆN NGẮN VỀ ĐỀ TÀI DÂN TỘC MIỀN NÚI PHÍA BẮC (QUA CÁC TÁC PHẨM CỦA CAO DUY SƠN, ĐỖ BÍCH THÚY VÀ NGUYỄN HUY THIỆP) CHUYÊN NGÀNH: MÃ SỐ: LÝ LUẬN VĂN HỌC 60.22.32 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNG HÀ NỘI - 10/2009 1 Lời cảm ơn Để có được bản luận văn hoàn chỉnh này, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đối với sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tâm, chu đáo của thầy giáo hướng dẫn - PGS.TS Đoàn Đức Phương. Xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo, cán bộ của Khoa Văn học, Trường ĐHKHXH&NV đã nhiệt tình giảng dạy, công tâm tạo điều kiện giúp đỡ về thủ tục hành chính, giấy tờ để em có thể hoàn thành đúng hạn luận văn của mình. Xin tri ân đối với sự động viên, khích lệ của người thân, bạn bè, đồng nghiệp trong suốt thời gian tôi thực hiện nhiệm vụ học tập và làm luận văn. Hà Nội, tháng 10 năm 2009 Tác giả luận văn Nguyễn Minh Trƣờng 2 MỤC LỤC Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài……………………………………………................... 1 2. Lịch sử vấn đề ……………………………………………….................. 3 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ………………………………………… 7 4. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………….. 8 5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn ……………………………... 8 6. Cấu trúc luận văn ………………………………………………………. 9 Nội dung Chương 1: Truyện ngắn về để tài dân tộc miền núi phía Bắc trong bức tranh truyện ngắn đƣơng đại ………………………………………. 10 1.1. Truyện ngắn và những sự đổi mới trong điều kiện xã hội đương đại ... 10 1.1.1 - Những chuyển biến về nội dung, khuynh hướng phản ánh ……. 10 1.1.2. Khả năng mới trong việc thể hiện con người …………………… 16 1.1.3. Sự phong phú về hình thức nghệ thuật ………………………….. 18 1.2. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc - những bức tranh sinh động về không gian văn hóa và cuộc sống …………………………... 22 1.2.1. Khái quát về khu vực miền núi phía Bắc ……………………….. 22 1.2.2. Truyện ngắn về đề tài vùng núi phía Bắc và vấn đề truyền thống - hiện đại …………………………………………………………………... 25 1.2.3. Những nét chấm phá về bức tranh đời sống văn hóa vùng núi phía Bắc …………………………………………………………………… 36 Chương 2: Hình tƣợng cuộc sống và con ngƣời miền núi phía Bắc qua truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp ...... 40 2.1 - Thế giới thiên nhiên …………………………………………………. 42 2.1.1 - Thiên nhiên kỳ vĩ, nguyên sơ và bí hiểm ………………………. 42 2.1.2 - Thiên nhiên, “người bạn lớn” giao hòa với cuộc sống con người 45 3 2.2 - Thế giới nhân vật ……………………………………………………. 50 2.2.1 - Hình tượng những già làng, trưởng bản ………………………... 52 2.2.2 - Hình tượng tuổi trẻ và tình yêu ………………………………… 55 2.2.3 - Hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số …………………….. 57 2.3 - Những đặc trưng văn hóa, phong tục ………………………………... 59 2.3.1 - Sự tương tác giữa văn hóa - văn học …………………………… 59 2.3.2 - Bức tranh về môi trường sống …………………………………. 61 2.3.3 - Đặc trưng văn hóa của người vùng cao ………………………... 66 Chương 2: Hình thức thể hiện …………………………………………... 70 3.1 - Kết cấu ………………………………………………………………. 71 3.1.1- Nghệ thuật dùng chi tiết ………………………………………… 71 3.1.2 - Nghệ thuật tạo tình huống ……………………………………… 73 3.1.3 - Tính chất cốt truyện ……………………………………………. 75 3.2 - Nghệ thuật trần thuật ………………………………………………… 76 3.2.1 - Người kể chuyện ……………………………………………….. 76 3.2.2 - Nghệ thuật miêu tả nhân vật …………………………………… 76 3.3 - Ngôn ngữ và giọng điệu …………………………………………….. 77 3.3.1 - Ngôn ngữ dung dị, độc đáo …………………………………….. 77 3.3.2 - Giọng điệu trần thuật khách quan, đa diện về điểm nhìn ………. 77 Kết luận …………………………………………………………………. 79 Tài liệu tham khảo ……………………………………………………. 81 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học viết về đề tài dân tộc miền núi nói chung, khu vực miền núi phía Bắc nói riêng từ sau thời kỳ đổi mới đến nay đã có những bước phát triển mạnh mẽ, đáp ứng được phần nào nhu cầu thưởng thức của độc giả. Nhìn lại quá trình vận động và phát triển của văn học, ta thấy rằng đội ngũ các nhà văn tham gia sáng tác về đề tài dân tộc thiểu số miền núi nói chung, mảng đề tài về dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng xuất hiện ngày càng đông đảo. Nếu như trước đây chỉ có rải rác một số cây bút là người dân tộc như Hoàng Văn Thụ, Nông Minh Châu, Nông Quốc Chấn (dân tộc Tày), Bàn Tài Đoàn (dân tộc Dao), Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương Quy Nhân (dân tộc Thái) và một số cây bút người Kinh như Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trung Trung Đỉnh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp... thì hiện nay đã xuất hiện thêm hàng trăm nhà văn thuộc nhiều dân tộc khác nhau cùng khai thác mảng đề tài này. Đại diện cho thể loại văn xuôi có Cao Duy Sơn (dân tộc Tày - Cao Bằng), Sa Phong Ba (dân tộc Thái - Sơn La), Địch Ngọc Lân (dân tộc Nùng - Yên Bái), Hà Thị Cẩm Anh (Mường - Thanh Hóa), Đoàn Hữu Nam, Đỗ Bích Thúy (Kinh)... Những năm gần đây, trong hệ thống các giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam chúng ta thấy có khá nhiều tác phẩm văn học viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc đã giành được những giải thưởng cao, được dư luận xã hội đón nhận nồng nhiệt. Đơn cử như: tập thơ Đêm bên sông yên lặng, Chia trứng công của Dương Thuấn (giải B Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2005, 2006); tập thơ Ngược gió của Y Phương (giải B năm 2006); tiểu thuyết Đàn trời của Cao Duy Sơn (giải B năm 2006); tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy và Cơn mưa hoa mận trắng của Phạm Duy Nghĩa (đồng giải B năm 2006); tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn (giải B năm 5 2008)... Có thể nói, những tác phẩm văn học này đã thực sự góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân trên các làng bản vùng cao, trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng tài năng và những trải nghiệm của mình, đội ngũ những tác giả tâm huyết với đề tài dân tộc miền núi phía Bắc đã cho ra đời những tác phẩm hay, có nội dung lành mạnh, mang tư tưởng nhân văn cao. Thế nhưng, có một thực tế đáng trăn trở hiện nay là những tác phẩm văn học viết về đề tài văn học dân tộc miền núi nói chung, đề tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng dù được giới chuyên môn đánh giá cao nhưng lại có ít độc giả quan tâm, tìm đọc và hơn nữa hoạt động nghiên cứu về đối tượng này vẫn còn để ngỏ, có chăng chỉ là những bài viết phê bình nhỏ lẻ đăng trên các tờ báo chuyên ngành, thiếu hẳn tính toàn diện, hệ thống, chưa tương xứng với đóng góp của đội ngũ các nhà văn đối với nền văn học nước nhà. Từ những luận cứ đó, chúng tôi thấy rằng, việc dành thời gian nghiên cứu các tác phẩm viết về đề tài dân tộc miền núi là nhiệm vụ cấp thiết để làm sáng tỏ một số vấn đề lí luận về quan niệm nghệ thuật, cảm hứng sáng tác, đề tài, chủ đề... của các nhà văn. Hơn nữa, việc nghiên cứu hệ thống văn học nói chung, các tác phẩm truyện ngắn nói riêng về đề tài dân tộc miền núi còn mang ý nghĩa thời sự thực tiễn nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước đang dành rất nhiều quan tâm đến sự phát triển mọi mặt của các khu vực miền núi cả nước trong đó có khu vực miền núi phía Bắc. Với công trình nghiên cứu này, mong muốn lớn nhất của chúng tôi đó là góp phần gợi ra một cách nhìn đầy đủ hơn về bức tranh văn học đương đại nói chung, truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi nói riêng. Hơn nữa, thông qua việc phân tích, nhận xét về những truyện ngắn của cả 3 nhà văn, chúng tôi có thể đưa ra thêm một số kiến giải mới về sự vận động và phát triển của thể loại này giữa nhịp sống gấp gáp, hối hả của xã hội hôm nay. 6 2. Lịch sử vấn đề Từ trước tới nay, các công trình, bài viết về truyện ngắn đề tài dân tộc miền núi chưa nhiều, chưa phong phú, chưa đa dạng ở góc độ và phương diện đề cập. Chỉ có một vài công trình được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu như... Đó là những công trình thiên về tính chất tuyển chọn, bình, điểm những tác giả tiêu biểu viết về mảng đề tài khá “hóc” này với những nét tiểu sử, các tác phẩm chính và những truyện ngắn tiêu biểu. Bên cạnh đó cũng có một số công trình viết dành riêng cho văn học miền núi nói chung, truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng và đã có những Hội thảo về văn học dân tộc thiểu số và miền núi (như vào dịp tháng 4/2004 tại Sa Pa, Lào Cai...). Tuy nhiên, những nhận định, đánh giá đó chỉ dừng lại ở những thế hệ thứ nhất (trước Cách mạng tháng Tám), thứ hai (trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ) còn đến thế hệ thứ ba đương đại thì thực sự rất hạn chế. Chúng ta có thể kể kến một số công trình như: Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại do GS. Phong Lê chủ biên, NXB Văn hóa dân tộc, 1988 đã tập hợp 16 bài viết về 16 tác giả dân tộc thiểu số...; Hợp tuyển thơ văn các tác giả dân tộc thiểu số Việt Nam 1954 - 1980, NXB Văn hóa, 1981 đã tập hợp những tác phẩm tiêu biểu của 44 nhà thơ, 11 nhà văn và 5 tác giả kịch - sân khấu… Truyện viết về đề tài dân tộc miền núi ngay từ giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám (1945) đã được một số nhà nghiên cứu như Hoài Thanh, Trương Tửu, Lê Tràng Kiều, Vũ Ngọc Phan quan tâm, khảo sát ở một vài bình diện thuộc về nghệ thuật. Trong các công trình nghiên cứu cũng như trên các phương tiện báo chí, truyện về đề tài dân tộc miền núi của những tác giả như Lan Khai, Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư được gọi bằng tên “truyện đường rừng”. Trong tựa đề bài viết mang tên Ba nhà văn tả cảnh đăng trên báo Loa, số 5/2935, nhà phê bình Trương Tửu đã gọi các nhà văn viết “truyện đường rừng” là những “nhà văn mới mẻ” vì “đã cách mệnh lối tả cảnh trong 7 văn học Việt Nam hiện đại” ở nhiều bình diện và trước hết là thể tài “các ông cùng rung động ngũ quan, sống bằng cảm giác. Bởi vậy, các ông thích tả những cảnh cổ lỗ, những nhân vật thô sơ, man dã. Tài liệu viết của các ông là rừng núi âm u, là Mán, Thổ, Sơn Nhân”... Trên báo “Khuyến học” số 2 ngày 15 September 1935, trong bài viết Tiểu thuyết và những nhà tiểu thuyết hiện nay, nhà nghiên cứu Lê Tràng Kiều đã nhắc đến hàng loạt cây bút tiểu thuyết, trong đó đề cao “sự sáng tạo mãnh liệt” của Thế Lữ và Lưu Trọng Lư ở thể tài dân tộc miền núi. Tác giả đề cao tập “Vàng và máu” viết về miền núi “chứa chan thi vị” và rất tâm đắc với “trí tưởng tượng rất dồi dào... dám viết những cảnh thần tiên huyễn hoặc” của Lưu Trọng Lư. Tiếp đó, trong bộ sách Nhà văn hiện đại (1942), nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng dành nhiều trang viết cho các nhà văn viết về đề tài miền núi, ở đó chỉ ra cả những ưu điểm và hạn chế của các tác giả, tác phẩm. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, ngay từ trước năm 1945, một số cây bút lý luận, phê bình đã quan tâm tới mảng sáng tác về miền núi và có những phát hiện ban đầu về thành tựu của các nhà văn ở mảng hiện thực này, tuy vậy các nhà nghiên cứu chưa đi sâu khảo sát vào bức tranh toàn cảnh của truyện viết về miền núi mà chú ý nhiều hơn về những yếu tố kỳ ảo... Một thời kỳ dài khoảng 30 năm từ 1945 đến 1975 do hoàn cảnh của chiến tranh kéo dài nên mặc dù có khá nhiều các tác phẩm văn xuôi trong đó có truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi nói chung, khu vực miền núi phía Bắc nói riêng của các tác giả như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Ma Văn Kháng, Lương Quy Nhân, Hoàng Nó... nhưng việc nghiên cứu bị gián đoạn. Các bài phê bình xuất hiện trong thời kỳ này hầu hết có dung lượng ngắn để đăng trên các ấn phẩm báo chí dưới hình thức giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa, giá trị tư tưởng của truyện ngắn nhằm tuyên truyền phục vụ cho cuộc kháng chiến của dân tộc. 8 Từ khi đất nước thống nhất (năm 1975) và đặc biệt là sau công cuộc đổi mới (năm 1986), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn học dân tộc, nền lý luận, phê bình của nước ta cũng có nhiều khởi sắc. Cùng với chính sách quan tâm của Nhà nước đối với các vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới và hải đảo thì những tác phẩm truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc cũng được các nhà phê bình, lý luận dành thời gian và tâm sức nghiên cứu. Đặc biệt trong giai đoạn này, sự xuất hiện của tên tuổi nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã như một luồng gió mới khiến dư luận xôn xao một thời gian dài và từ đó trở đi số lượng những công trình nghiên cứu về các tác phẩm của ông cũng nhiều dần lên, có thể kể đến như: Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (NXB Văn hóa - Thông tin, H, 2001), Nguyễn Huy Thiệp - tác phẩm và dư luận (NXB Trẻ, TP.HCM, 1990), Những cuộc tranh luận xung quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp (khóa luận tốt nghiệp cử nhân Văn học), Hình tượng con người cô độc trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (luận văn thạc sĩ Ngữ văn), Hình tượng người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (luận văn thạc sĩ Ngữ văn)… Nếu chỉ tính riêng trong giới phê bình văn học, không kể đến những bài báo nhỏ lẻ, có lẽ Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng gây nhiều tranh cãi nhất trong suốt hai mươi năm cuối của thế kỷ XX. Ở tập sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta đã bắt gặp rất nhiều những tên tuổi uy tín như Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Greg Lockhart, Lại Nguyên Ân… hay những nhà văn, nhà thơ đứng đối chiều như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh... đều bình luận về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp dưới mọi góc độ từ ngôn ngữ, hình ảnh, nhân vật đến kết cấu cốt truyện, giá trị nội dung, tư tưởng. Ý kiến khen cũng nhiều, phản biện lại nhà văn cũng có nhưng xét về tổng quan, tất cả những khía cạnh được các nhà phê bình đưa ra đều góp phần khẳng định một phong cách truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp. Với những tác phẩm khác đặc biệt là các công trình khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ của sinh viên và học viên cao học thì truyện ngắn của Nguyễn Huy 9 Thiệp lại được tiếp cận một cách sâu sắc, tỉ mỉ hơn từ những điểm nhìn khác nhau về nghệ thuật lựa chọn, xây dựng tính cách nhân vật, cách thức sử dụng ngôn ngữ, biểu tượng, phương pháp điển hình hóa đối tượng, nhân vật người kể chuyện... Tuy nhiên có một khía cạnh mà tất cả những công trình, tác phẩm nghiên cứu về Nguyễn Huy Thiệp chưa đề cập, hoặc chỉ giới thiệu thoáng qua đó là đề tài về dân tộc miền núi phía Bắc trong các truyện ngắn của ông mà chúng tôi sẽ khai thác ở trong luận văn này. Với Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy là hai nhà văn thuộc hai thế hệ gần kề nhau và đều thành công nhờ những tác phẩm truyện ngắn viết về mảng đề tài dân tộc miền núi phía Bắc. Có thể nói rằng các tác phẩm của hai tác giả này đã giúp bạn đọc khám phá được rất nhiều về đặc trưng phong tục, tập quán, văn hóa, lối sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng núi phía Bắc. Tuy mới chỉ xuất hiện trên văn đàn trong khoảng 10 năm trở lại đây nhưng tên tuổi của hai nhà văn Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy đã được khẳng định và có vị trí trên văn đàn. Qua tìm hiểu, chúng tôi thầy rằng, đa phần những bài nghiên cứu, những ý kiến đánh giá tác phẩm của Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy là những bài đăng trên các báo, tạp chí cũng như các chương trình phát thanh, truyền hình mà chưa có một công trình quy mô hoặc một cuốn sách chuyên khảo riêng biệt. Chúng ta có thể kể đến các bài viết nổi bật như: Cao Duy Sơn - Đàn trời cất tiếng ca vang” (báo phát thanh VOV), Cao Duy Sơn - Bông hoa sen đang ngát (Báo điện tử Evan), Cao Duy Sơn - Viết văn là một cuộc viễn du về nguồn cội (Báo Thể thao Văn hóa)... hay Nhà văn Đỗ Bích Thúy - Sự mềm mại quyết liệt (Báo An ninh Thế giới cuối tháng), Nhà văn Đỗ Bích Thúy - Một người đã từng bị tước đi hạnh phúc sẽ biết gìn giữ nó một cách tận tụy (Báo Điện tử ĐCSVN)... Những bài báo phê bình này đều có dung lượng ngắn, đa phần là những bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn về vấn đề nhân vật, hoàn cảnh ra đời cũng như thông điệp mà tác giả gửi gắm qua tác phẩm. Cũng giống như trường hợp của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nghiên 10 cứu về truyện ngắn của Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy chưa có một công trình quy mô, đầu tư theo chiều sâu tập trung vào mảng đề tài chủ lực của hai tác giả này là đề tài về khu vực dân tộc miền núi phía Bắc. Tóm lại: Ba nhà văn Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy Thiệp bằng những tác phẩm cụ thể đã có những đóng góp không nhỏ cho nền văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung, mảng truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng. Tuy vậy trong thực tế, các công trình, bài viết của các tác giả trước đây mới chỉ dừng lại ở từng nhận xét về phương diện đề tài, cách thức triển khai từng tác phẩm trong môi trường xã hội đương đại mà chưa có những nghiên cứu sâu về phong cách, bút pháp nghệ thuật cũng như hệ thống các tác phẩm của các nhà văn. Bởi vậy chúng tôi xác định đây là công trình nghiên cứu đầu tiên theo hướng toàn diện các truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc của ba nhà văn này. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Để thực hiện công trình này chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, nghiên cứu toàn bộ những truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc của: Cao Duy Sơn là các tập truyện gồm: Người lang thang, Người săn gấu, Hoa mận đỏ, Cực lạc, Những chuyện ở Lũng Cô Sầu, Hoa bay cuối trời, Ngôi nhà xưa bên suối; Đỗ Bích Thúy là các tập truyện ngắn: Sau những mùa trăng; Những buổi chiều ngang qua cuộc đời; Ký ức đôi guốc đỏ; Tiếng đàn môi sau bờ rào đá và Nguyễn Huy Thiệp là 11 truyện trong Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ, Sống dễ lắm, Muối của rừng, Tội ác và trừng phạt, Truyện tình kể trong đêm mưa. Đồng thời khi cần thiết, chúng tôi có thể liên hệ với những tác phẩm viết cùng về đề tài này trước và sau đó. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Để có được cái nhìn tổng quan về các truyện ngắn của cả 3 tác giả, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê, phân loại tập hợp các truyện ngắn theo từng chủ đề khác nhau. 11 - Tiếp đó, chúng tôi dùng phương pháp phân tích, trích dẫn tác phẩm để chứng minh cho từng luận điểm thuộc phạm vi đề tài. Từ việc khảo sát truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc chúng tôi sẽ rút ra những thành công và hạn chế trong sáng tác của từng tác giả. - Phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại được chúng tôi sử dụng trong một số tình huống để tìm ra những đặc điểm riêng trong truyện ngắn cùng một phạm vi đề tài, thể loại của 3 nhà văn này so với các tác giả trước và sau đó. - Phương pháp tổng hợp sẽ hỗ trợ chúng tôi trong việc rút ra những đánh giá, nhận định chung nhất về thành tựu cũng như đóng góp của từng nhà văn cũng như của cả 3 nhà văn này về phương diện nội dung, nghệ thuật đối với mảng đề tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng, nền văn học nước nhà nói chung. Từ thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi sẽ rút ra một số vấn đề mang tính chất lý luận làm kinh nghiệm cho những công trình nghiên cứu sau. 5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn Từ việc nghiên cứu, khảo sát các truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc của 3 nhà văn: Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy Thiệp, tác giả công trình muốn tạo ra một góc nhìn đầy đủ hơn về văn xuôi nói chung, truyện ngắn đương đại Việt Nam nói riêng Công trình sẽ chỉ ra những thành tựu sáng tác của các nhà văn viết về mảng đề tài dân tộc miền núi phía Bắc, về thế giới thiên nhiên, phong tục tập quán, những hình tượng, số phận nhân vật tiêu biểu. Chỉ ra con đường khám phá nghệ thuật, xây dựng cốt truyện, kết cấu, cách xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật... của từng nhà văn. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn sẽ gồm 3 chương. * Chương 1. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc trong truyện ngắn đương đại 12 * Chương 2. Hình tượng cuộc sống và con người các dân tộc miền núi phía Bắc qua truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp * Chương 3. Phương thức biểu hiện 13 CHƢƠNG 1 TRUYỆN NGẮN VỀ ĐỀ TÀI DÂN TỘC MIỀN NÚI PHÍA BẮC TRONG BỨC TRANH TRUYỆN NGẮN ĐƢƠNG ĐẠI 1.1. Truyện ngắn và những sự đổi mới trong điều kiện xã hội đƣơng đại Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được không ít thành công trên nhiều phương diện... 1.1.1 - Những chuyển biến về nội dung, khuynh hướng phản ánh Chúng ta đều biết rằng khi xem xét quá trình đổi mới văn học phải đặt các tác phẩm trong tương quan giữa hình thức - nội dung, quá khứ - hiện tại, bản thân tác giả - các thế hệ cùng thời và đương đại. Sự chuyển biến theo hướng đổi mới để phát triển là một đòi hỏi tất yếu của bất kỳ một giai đoạn văn học nào và chính đội ngũ các nhà văn ở mỗi thế hệ, mỗi thời kỳ đều nhận diện cũng như ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ này. Chiến thắng hào hùng năm 1975 mở ra một chặng đường mới cho dân tộc Việt Nam, giai đoạn hòa bình, xây dựng, tái thiết đất nước. Chiến tranh đã lùi vào quá khứ, tiếng kèn và cờ hoa thắng trận bớt rực rỡ, ồn ào. Sau một quãng lùi lịch sử, một khoảng cách về thời gian, các truyện ngắn được sáng tác trong thời kỳ này đã nhạt dần chất sử thi, bớt đi khí vị anh hùng cao cả mà thay thế vào đó là giọng điệu thâm trầm, sâu lắng hơn với những sắc màu tình cảm, cung bậc thể hiện và bình diện mới. Ở mọi thời đại, bao giờ nhân vật của truyện ngắn cũng được đặt trong vô vàn các quan hệ và các bình diện như tập thể - cá nhân, lý tưởng - hiện thực, tiền tuyến - hậu phương, sống - chết, được - mất, cho - nhận, cống hiến - hưởng thụ, vì người - vì mình, lý tưởng chung số phận riêng, ra đi - trở về... Nếu trong chiến tranh, những con người ấy được 14 khai thác thiên về khía cạnh dân tộc, tập thể, lý tưởng, chiến trường, cống hiến... thì trong thời bình, khám phá của các nhà văn đã nghiêng về trục đối lập. Không gian trong các tác phẩm cũng được chuyển từ rộng sang hẹp, từ không gian lịch sử sang không gian đời tư, từ chiến trường về cuộc sống thường nhật. Cảm hứng của các cây bút cũng có bước thay đổi từ vĩ mô xuống vi mô, từ cao xuống thấp, từ số phận chung của đất nước, dân tộc đến số phận của những con người cụ thể. Trong các truyện ngắn đã xuất hiện với mật độ dày đặc hơn tâm thế đối thoại của các nhân vật, nó chứng tỏ sự xuất hiện của những quan niệm, tiêu chuẩn, thang bậc giá trị mới khác hoàn toàn trước đó. Chẳng hạn khi các nhà văn viết về chiến tranh và cái chết đã không còn là sự hồi sinh, thăng hoa mà là cả nỗi lạnh lẽo, cô đơn, một nỗi buồn chiến tranh đeo đẳng. Tư thế của người chiến sĩ không còn cao vời vợi để người đời ngưỡng vọng mà là chính bản thân của họ với ý thức cụ thể, rõ ràng về giá trị của mình, sẵn sàng chối bỏ mọi ánh hào quang, hư danh để tìm chỗ đứng, vị trí thật của mình... Trong rất nhiều truyện ngắn, ta bắt gặp phổ biến motip người lính trở về với cuộc sống đời thường bộn bề, phức tạp và rắc rối. Từ vị trí người anh hùng trong chiến trận trở thành người công dân, đối diện với sự chuyển đổi khắc nghiệt nhưng tất yếu này, họ sẽ suy nghĩ và ứng xử ra sao? Cái gì còn, cái gì mất, cái gì đã cho, cái gì sẽ nhận, điều gì sẽ xảy đến trong tâm hồn họ... Sau chiến tranh là một cuộc sống hoàn toàn khác, những nhân vật trong các truyện ngắn phải hiện diện với tư cách là những số phận cụ thể, phải tự mình đương đầu cùng những thử thách khắc nghiệt của hoàn cảnh sống thời hậu chiến với sự nghèo đói, rách rưới, thiếu thốn và cả những tàn dư của vết thương chưa lành. Nếu trong chiến tranh, nhu cầu cao nhất của tất cả mọi người là độc lập, tự do thì trong thời bình, khát vọng bức thiết nhất, quyết liệt nhất của họ lại là đòi dân chủ. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, xã hội có những đổi thay mạnh mẽ, con người hoang mang trước sự phức tạp của đời sống, sự đảo lộn của 15 những giá trị, những quan hệ chuẩn mực cũ. Càng ngày, các nhà văn càng phải va chạm với một đời sống hiện thực không lý tưởng hóa mà hoàn toàn trần trụi và điều đó được hiện lên rất rõ nét trong mỗi tác phẩm truyện ngắn. Đó là sự nhận thức về nỗi đau có thực với những mất mát về con người, về tinh thần luôn âm ỉ cháy. Đó còn là những cảm nhận về trạng thái xã hội đương đại với những khiếm khuyết, băng hoại về môi trường và nhân cách, chứa đầy những thông tin nhức nhối, xót xa về số phận của những con người cụ thể như người vợ, người mẹ, người cha, người em... và có khi là của một người dưng tình cờ gặp được. Truyện ngắn thời kỳ này đã phát triển khá mạnh mẽ và càng ngày càng khẳng định được vị thế của mình trong việc phơi bày một cách chi tiết về hiện thực xã hội thông qua những nỗi bất hạnh của nhân vật. Đó là sự thua thiệt, khổ sở, đói nghèo, mòn mỏi, bất công, trốn chạy quá khứ, xa lánh cội nguồn, suy thoái đạo đức, mơ ước lụi tàn, tài năng rơi rụng... Những vấn đề “nóng bỏng” tính thời sự ấy được truyện ngắn truyền tải thông các nghịch lý và các cặp mâu thuẫn như lý tưởng - hiện thực, chiến tranh - hòa bình, cũ mới, lừa dối - sự thật, hiện thực - mộng mơ, chân thực - giả dối, nhớ - quên, được - mất, cho - nhận, khát khao - thất vọng, quá khứ - hiện tại, hy sinh - đền đáp... Những quan hệ này tồn tại cùng trong một môi trường, một nhân vật, một sự kiện tạo nên những tác phẩm đậm chất bi kịch. Một điều đặc biệt đó là văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 lại phát triển theo hướng khác với xu thế chung. Nếu theo hướng phổ biến thì nó sẽ phát triển từ bút ký - truyện ngắn - tiểu thuyết còn văn học Việt Nam lại tiến theo chiều bút ký - tiểu thuyết - truyện ngắn. Giai đoạn bút ký gắn liền với không khí mới mẻ của cuộc sống những ngày đầu hòa bình có đầy đủ những mảng màu sáng, tối, đặc biệt là những vấn đề gai góc, những câu hỏi bức thiết, trăn trở. Chúng ta có thể kể tới chùm các tác phẩm như Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, Người đàn bà quỳ của Nguyễn Văn Ba, Thủ tục để làm người sống của Minh Chuyên... Từ bút 16 ký chuyển sang tiểu thuyết tuy không theo hướng đi chung nhưng lại khá liền mạch và phù hợp. Các nhà văn mới rời chiến trường chưa lâu, một cuộc sống mới mở ra nhưng dư âm của quá khứ bi tráng và hiện tại nghiệt ngã cứ đan xen, ám ảnh lẫn nhau. Chính hiện thực phong phú được phơi bày kết hợp với vốn sống ngồn ngộn, đầy ắp đã được truyền tải và dung chứa trong các tiểu thuyết như Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Thời xa vắng của Lê Lựu, Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh... Điều dễ nhận thấy là ở ngay những tiểu thuyết này chất bút ký báo chí vẫn còn khá “đậm đặc”. Các sự kiện, nhân vật gần như là có thật trong đời sống hàng ngày mà chưa được “gọt rũa” để nghệ thuật hóa một cách triệt để. Những hiện thực phản ánh trong các cuốn tiểu thuyết đã được độc giả và người đời biết đến khá rõ ràng, khi ấy nảy sinh nhu cầu muốn tìm đọc cái khác, cái chưa biết. Đó chính là lúc truyện ngắn đến thời được quan tâm, chú ý, nhiều truyện ngắn hay, nhiều tác giả mới xuất hiện. Có thể nói rằng, giai đoạn bút ký - tiểu thuyết là cả một quá trình dài chuẩn bị cho truyện ngắn nở rộ với những tác phẩm ngay khi mới xuất hiện đã tạo ra tiếng vang như Con thuyền ngoài xa, Bức tranh, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Có một đêm như thế của Nguyễn Thị Minh Thư, Anh Sức của Khuất Quang Thụy... và sau đó là một loạt các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp... Từ thời kỳ đổi mới trở đi được coi là giai đoạn cực thịnh của thể loại truyện ngắn trong nền văn học nước ta. “Những phẩm chất thẩm mĩ tươi mới chỉ có thể được nảy nở, phô sắc và kết đọng trong một môi trường văn hoá xã hội mới. Không ai còn có thể nghi ngờ gì nữa về vai trò của bối cảnh văn hoá - xã hội Việt Nam kể từ thời kì đổi mới đối với sự phát triển dồi dào của văn xuôi trong đó có truyện ngắn...” [3]. Bối cảnh mới thúc đẩy quá trình đổi thay bởi vì trong lòng nó một hệ giá trị khác trước đã hình thành. Hệ giá trị chuyển từ cao cả, đơn trị sang đời thường, đa trị. Không có căn cội này không 17 thể có quan niệm, cái nhìn mới về thế giới và tất yếu đã không có chuyển biến cơ bản như ta đã thấy. Những năm sau đổi mới đến nay, cùng với sự thay đổi lớn lao của đời sống văn học thể loại truyện ngắn gắn liền với các tên tuổi như Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Y Ban, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy... không chỉ tăng nhanh về số lượng mà còn đổi mới từ nội dung phản ánh đến hình thức thể hiện. “Truyện ngắn là một cách đặt vấn đề bằng nghệ thuật trước nhu cầu tinh thần của con người...” [53, tr.177]. Giữa thời đại bùng nổ thông tin hiện nay truyện ngắn với những đặc trưng và thế mạnh vốn có của mình đã phát triển một cách mạnh mẽ, giữ vững vai trò như “người lính xung kích” trên mặt trận văn học nghệ thuật. Và để có thể làm tròn vai trò đó, các tác giả viết truyện ngắn luôn có ý thức là phải làm thế nào để đến được với bạn đọc một cách nhanh chóng và ngắn gọn nhất. Trương Hiền Lượng, nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc đã nhận xét: “Thế giới bây giờ, nhịp điệu cuộc sống tăng nhanh, phương thức để người ta có thể nhận tin, vui chơi và tiêu khiển không chỉ là đọc sách đơn thuần... Điều này khiến những người viết tiểu thuyết chúng tôi, vô tình hay hữu ý phải suy nghĩ đến quy mô của tác phẩm mình viết, dài bao nhiêu mới dễ tiếp thu...”. Quan sát sự chuyển động của truyện ngắn Việt Nam hiện đại, chúng ta thấy có một xu hướng đã từng diễn ra đó là “tiểu thuyết hóa” thể loại này. Nếu trước đây, truyện ngắn hướng tới cái chốc lát, khoảnh khắc của đời sống thì nay nó làm nhiệm vụ đúc rút, tổng kết tức là truyện ngắn mang dung lượng của tiểu thuyết. Khi xã hội càng phát triển, các vấn đề nảy sinh càng phức tạp và đa dạng, trình độ cũng như nhu cầu thưởng thức của độc giả không ngừng được nâng cao đòi hỏi truyện ngắn phải tạo cho mình được sức chứa lớn hơn so với 18 đặc điểm vốn có của thể loại nhưng lại không được phá vỡ khuôn khổ, kéo dài văn bản, lấn sân tiểu thuyết. Tính năng mới này của truyện ngắn được tác giả Phạm Hoa phát hiện ra là: “Ngày nay thông tin được dồn nén nên truyện ngắn phải như một linh kiện vi mạch. Dung lượng và hàm chứa, tôi nghĩ những điều đó rất quan trọng trong văn xuôi. Tôi đã viết vài truyện ngắn mươi trang mà dung lượng là dung lượng của tiểu thuyết hai trăm trang...”. Sức chứa có liên quan trực tiếp đến vấn đề cấu trúc của tác phẩm chính bởi vậy một số nhà văn hiện đại đã sáng tạo cho truyện ngắn của mình một cấu trúc tự do, không bị cốt truyện quy định, không cần lối kết thúc có hậu và đến các chi tiết cũng được sử dụng mang tính tượng trưng hơn. Cấu trúc những truyện ngắn đó thường mở, uyển chuyển, linh hoạt và nhờ vậy nó chuyên chở một cách hiệu quả những tư tưởng nhân văn mới mẻ về cuộc sống, con người. Nếu theo dõi sự vận động của thể loại truyện ngắn từ những năm 1990 của thế kỷ XX đến nay, chúng ta thấy rằng đội ngũ các tác giả trẻ đang dần dần khẳng định vai trò, thương hiệu của mình. Họ cũng rất có ý thức về yếu tố thời đại nhưng ý thức thời đại của họ khác hẳn các thế hệ trước đây. Điều đó có nghĩa là họ nhập cuộc tỉnh táo hơn, họ dùng cái tôi như một thứ lăng kính và quan niệm văn chương luôn phải có độ lùi. Tuy nhiên với đội ngũ các tác giả trẻ này dường như họ ít hứng thú để viết về các mảng đề tài như chiến tranh, nông thôn - miền núi, đời sống đô thị, công nghiệp, công nghệ thông tin... Đương nhiên, việc chọn đề tài là quyền của người viết và không bị chi phối bởi các yếu tố khách quan, nhà văn có thể tự lựa chọn cho phù hợp với khả năng của mình. Tuy vậy có một vài lý giải được đưa ra, chẳng hạn về đề tài chiến tranh ngoài yếu tố tài năng ra, một số người cảm thấy đề tài này có rất nhiều người đã từng viết và chẳng ai vượt qua được những cây bút đi trước. Một số khác nhận thấy độc giả thờ ơ với đề tài này, vì họ cho rằng đó là "đề tài chính trị" khô khan và rất khó hay. Một số nhà văn thì cho rằng, đề tài chiến tranh cũng nên "nguội" đi, vì xã hội còn có quá nhiều việc bề bộn cần 19 quan tâm hơn. Hay mảng đề tài về nông thôn, do không ít nhà văn trẻ ra thành phố sống, làm việc. Họ tiếp cận thực tế mới, có nhân vật mới, cách nghĩ năng động hơn và môi trường thôn quê không còn hấp dẫn ngòi bút nữa. Vậy các nhà văn trẻ hiện nay đang hướng vào những mảng đề tài nào? Sự xuất hiện của hàng loạt tác phẩm trong những năm qua như Song song của Vũ Đình Giang, Không lạc loài của Thành Trung, Bóng của Nguyễn Văn Dũng, Nháp của Nguyễn Đình Tú, Đi tìm hình cuộc sống của Hà Thanh Phúc, Phải lấy người như anh, Nhật ký tình yêu của Trần Thu Trang, Khi nào anh thuộc về em của Cấn Vân Khánh... đã chứng tỏ một điều: Các nhà văn trẻ của chúng ta hiện nay đang quan tâm đến "cái tôi" của mình, cái ẩn ức của tuổi trẻ và chuyện tình yêu tay ba, tay tư nhiều hơn là những đề tài lớn, mang giá trị nhân văn... 1.1.2. Khả năng mới trong việc thể hiện con người “Truyện ngắn có nhiều khả năng trong việc thể hiện quan niệm về con người. Do dung lượng nhỏ, nắm bắt những nét bản chất nhất của cuộc sống nên truyện ngắn có khả năng chuyển tải những vấn đề của thời đại, con người một cách chính xác, nhạy bén. Cũng chính điều này đã khiến truyện ngắn trở thành thể loại cho phép nhà văn thử nghiệm và triển khai những khía cạnh mới mẻ, linh hoạt trong quan niệm nghệ thuật về con người...” [25]. Đọc các truyện ngắn hiện đại, chúng ta thấy có một đặc điểm khá rõ ràng đó là càng ngày chúng càng ít trực tiếp miêu tả những sự kiện, vấn đề lớn liên quan đến sự nghiệp chiến đấu và công cuộc sản xuất của dân tộc mà lại thiên về miêu tả những chuyện “đời thường” xoay quanh số phận của những con người cụ thể. Điều đó đã thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới của những người cầm bút trong việc khai thác nhân vật của mình, nhìn nhận con người bằng quan niệm biện chứng trong sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội, ở đó mọi diễn biến tâm lý, tình cảm đều được bộc lộ trong từng hoàn cảnh điển hình. “Nếu như văn xuôi luôn có lợi thế trong việc phát hiện ra bản chất của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan