VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------------
NGUYỄN THỊ MINH THU
TẬP HỢP CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
HÀ NỘI 2013
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Miền núi phía Bắc là khu vực định cƣ lâu đời và đông đúc của nhiều dân tộc
thiểu số. Cùng với dân tộc Việt, ngay từ những buổi đầu dựng nƣớc, các dân tộc
thiểu số đã tham gia tích cực vào việc xây dựng các truyền thống lịch sử, văn hóa lâu
đời của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong quá trình tạo lập, phát triển cuộc
sống, các dân tộc nơi đây đã sáng tạo ra nền văn hóa, văn học truyền thống có giá trị.
Văn học dân gian các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc có những đóng góp quan
trọng đối với văn học dân gian Việt Nam nói chung trong đó đặc biệt phải nói đến
truyện kể dân gian - bộ phận đã sớm đƣợc sƣu tầm và hiện còn lƣu giữ một nguồn
tác phẩm dày dặn. Truyện kể dân gian là sự phản chiếu chân thực cuộc sống lao
động, chiến đấu và sáng tạo của quần chúng nhân dân thông qua những câu chuyện
giàu sức tƣởng tƣợng, giàu yếu tố kỳ ảo. Truyện kể dân gian là bộ phận bao gồm
nhiều thể loại hơn cả trong các loại hình văn học dân gian. Đây cũng là bộ phận văn
học có khả năng phản ánh chân thực, đa dạng nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống
hiện thực, qua đó, phản ánh suy nghĩ, quan niệm và khát vọng của đồng bào các dân
tộc. Truyện kể dân gian còn là bộ phận văn học dân gian gắn bó máu thịt với văn hóa
dân gian, là nơi tích tụ nhiều tầng lớp lịch sử, văn hóa, bản sắc của các dân tộc thiểu
số. Có thể khẳng định, cùng với đồng bào dân tộc ở những nhóm ngôn ngữ, vùng
miền khác, các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đã sáng tạo nên những sản phẩm
văn hóa tinh thần đặc sắc, độc đáo phản ánh đời sống xã hội, quan niệm, tâm tƣ, tình
cảm, khát vọng cộng đồng.
Công tác sƣu tầm, biên soạn về văn học dân gian các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc trong đó có truyện kể dân gian đã đƣợc nhiều tác giả quan tâm từ những
năm 64 của thế kỷ XX. Từ đó đến nay, nhiều tuyển tập truyện cổ dân gian đã đƣợc
xuất bản gắn với tên tuổi các nhà sƣu tầm, biên soạn tiêu biểu nhƣ Lê Trung Vũ,
Hoàng Quyết, Hoàng Thao, Triều Ân, Cầm Cƣờng…và một số nhóm tác giả của các
viện nghiên cứu nhƣ Viện Văn học, Viện nghiên cứu văn hóa dân gian. Tuy vậy,
thực tế cũng cho thấy những thành tựu nghiên cứu về bộ phận văn học dân gian đặc
sắc này còn khiêm tốn, ít ỏi hơn rất nhiều so với sự tồn tại phong phú của chúng.
Nhất là việc xem xét khám phá các thể loại truyện kể trong mối quan hệ qua lại với
2
nhau, trong mối quan hệ với đời sống tín ngƣỡng, với lịch sử dân tộc và bản sắc văn
hóa tộc ngƣời vẫn còn bỏ ngỏ. Đây là khoảng đất trống gợi mở cho những ngƣời
nghiên cứu muốn tiếp tục góp sức nghiên cứu, tìm ra vẻ đẹp và giá trị trong những
câu chuyện lung linh nhiều sắc màu.
Bản thân những ngƣời nghiên cứu chúng tôi hiện đang sinh sống và làm việc
tại khu vực miền núi phía Bắc, có cơ hội đƣợc tiếp xúc và tiếp nhận một số giá trị
văn hóa của các dân tộc thiểu số, do đó, chúng tôi có những điều kiện thuận lợi nhất
định khi nghiên cứu vấn đề này. Đồng thời, chúng tôi cũng nhận thấy ý nghĩa sâu sắc
của công việc mà chúng tôi đã và đang tiến hành. Chúng tôi có điều kiện hiểu sâu
hơn về một bộ phận văn học dân gian các dân tộc thiểu số, có cơ sở chỉ ra và lý giải
một số nét đặc sắc trong truyện kể dân gian các dân tộc nơi đây, từ đó, góp phần giữ
gìn và phát huy vốn văn hóa, văn học quý báu vốn còn ẩn sâu chƣa đƣợc biết đến.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Khảo sát, thống kê, phân tích các thể loại, nhóm truyện, type truyện thuộc bộ
phận truyện kể dân gian các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc nhằm dựng lại diện
mạo của bộ phận đặc sắc này.
- Chỉ ra mối liên hệ giữa các thể loại truyện kể và một số nét đặc trƣng trong
truyện kể của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
- Tìm hiểu sâu và hệ thống hóa về mối quan hệ giữa đời sống tín ngƣỡng dân
gian, thế giới quan, nhân sinh quan và bản sắc văn hóa với quá trình sáng tạo, phản
ánh và lƣu truyền truyện kể dân gian các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở tìm hiểu khái quát về khu vực miền núi phía Bắc và các dân tộc
thiểu số cộng cƣ ở khu vực này, một số vấn đề lý thuyết nhƣ lý thuyết thể loại, một
số khái niệm công cụ nhƣ khái niệm truyện kể dân gian, type và motif, luận án tiến
hành khảo sát, phân tích ba thể loại truyện kể dân gian tiêu biểu của các dân tộc thiểu
số miền núi phía Bắc: thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích qua các nhóm truyện,
type truyện và hệ thống motif.
3
- So sánh và chỉ ra những tƣơng đồng, khác biệt trong mỗi thể loại giữa các
dân tộc trong khu vực, sự tƣơng đồng và khác biệt giữa truyện kể khu vực này với
dân tộc Việt và một số dân tộc thiểu số ở khu vực khác.
- Phân tích mối quan hệ giữa các thể loại truyện kể với đời sống tín ngƣỡng,
nghi lễ, giữa các thể loại truyện kể với nhau, chỉ ra nét đặc trƣng trong truyện kể của
các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận án là tập hợp truyện kể đƣợc khảo sát
chủ yếu trên những tổng tập, tuyển tập, hợp tuyển truyện kể, truyện cổ của các dân
tộc thiểu số miền núi phía Bắc, cập nhật những tập truyện đƣợc sƣu tầm và xuất bản
gần đây. Ngoài ra, chúng tôi sẽ sử dụng thêm nguồn tƣ liệu điền dã chƣa đƣợc xuất
bản của một số tác giả và nhóm tác giả công bố trong một số luận văn, luận án.
- Chúng tôi cũng hƣớng tới tìm hiểu một số hình thức sinh hoạt văn hóa, tín
ngƣỡng, phong tục trong đời sống có liên quan đến truyện kể dân gian các dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án khảo sát, nghiên cứu ba thể loại tiêu biểu của truyện kể dân gian các
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc là thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích. Chúng
tôi xác định giới hạn miền núi phía Bắc bao gồm hai tiểu vùng miền núi Đông Bắc
và miền núi Tây Bắc (không tính một số tỉnh trung du và đồng bằng Bắc Bộ), đồng
thời phân định với khu vực miền Trung và Nam Bộ.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp các phƣơng pháp sau:
+ Phƣơng pháp thống kê, phân loại: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong quá
trình khảo sát, thống kê, phân loại các thể loại, nhóm truyện, type truyện dân gian
các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc để có những số liệu, tỉ lệ làm cơ sở triển khai
các nội dung của luận án.
4
+ Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng trong
việc phân tích nội dung phản ánh, hình thức biểu hiện, các motif tiêu biểu của các
nhóm truyện, type truyện dân gian các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
+ Phƣơng pháp so sánh – loại hình: Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để
tiến hành so sánh một số nhóm truyện, type truyện, motif của các dân tộc khu vực
này với truyện kể dân tộc Việt và một số dân tộc thiểu số ở khu vực khác, qua đó,
phát hiện ra những tƣơng đồng cũng nhƣ những khác biệt giữa các dân tộc.
+ Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Chúng tôi kết hợp phƣơng pháp
nghiên cứu của các ngành dân tộc học, sử học, văn hóa học...để có những lý giải,
khám phá mới về các nhóm truyện, type truyện, motif đặc thù của các dân tộc, cũng
là thấy đƣợc giá trị ẩn sâu bên trong của kho tàng truyện kể các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc.
5. Đóng góp mới của luận án
Qua quá trình tập hợp, khảo sát, nghiên cứu nguồn tƣ liệu phong phú, luận án
sẽ có những đóng góp sau:
- Là công trình khảo sát một cách hệ thống diện mạo truyện kể dân gian các
dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc Việt Nam theo thể loại, type truyện và hệ thống
motif.
- Chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của truyện kể dân gian khu vực miền núi phía
Bắc trong cái nhìn đối sánh với truyện kể của các dân tộc khác ở các vùng miền
khác.
- Chỉ ra mối quan hệ giữa truyện kể dân gian các dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc với đời sống tín ngƣỡng và bản sắc văn hóa của các dân tộc.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, Phụ lục, Nội dung chính
của luận án đƣợc chia làm bốn chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về khu vực miền núi phía Bắc và việc nghiên cứu
truyện kể dân gian các dân tộc thiểu số
Chƣơng 2: Thần thoại và truyền thuyết các dân tộc thiểu số miền núi phía
Bắc
5
Chƣơng 3: Truyện cổ tích các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Chƣơng 4: Mối quan hệ và nét đặc trƣng của truyện kể dân gian các dân
tộc thiểu số miền núi phía Bắc
6
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC VÀ VIỆC NGHIÊN CỨU
TRUYỆN KỂ DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
Truyện kể dân gian nói chung là sản phẩm văn hóa tinh thần sớm đƣợc hình
thành từ trong đời sống lao động và sinh hoạt của các dân tộc. Truyện kể dân gian
đƣợc lƣu truyền từ đời này sang đời khác, từ vùng này sang vùng khác tạo nên sức
sống lâu dài, bền bỉ. Các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc là một bộ phận cƣ dân
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vì thế điều kiện sinh sống tự nhiên, đời sống
văn hóa, tín ngƣỡng, phong tục có những tƣơng đồng và không ít khác biệt so với các
dân tộc thiểu số ở khu vực khác. Chính những yếu tố này có tác động quan trọng và
góp phần tạo nên bản sắc cũng nhƣ sức sống, sức lƣu truyện của truyện kể dân gian
nói riêng, văn học dân gian nói chung. Do đó, trƣớc khi đi vào nghiên cứu cụ thể kho
truyện kể phong phú của đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, chúng tôi
thấy cần thiết phải trình bày khái lƣợc những nội dung có ý nghĩa cơ sở, nền tảng
liên quan nhƣ không gian địa - văn hóa khu vực miền núi phía Bắc trong đó các dân
tộc thiểu số là chủ nhân trung tâm, khái quát về văn học dân gian, diện mạo và tƣ liệu
truyện kể dân gian các dân tộc nơi đây cùng với khái niệm và phƣơng pháp nghiên
cứu truyện kể theo type và motif.
1.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội khu vực miền núi phía Bắc
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Theo các nhà địa lý tự nhiên, địa lý kinh tế, miền núi phía Bắc là khu vực có
địa hình chủ yếu là đồi núi cao, hiểm trở, đƣợc phân chia một cách tự nhiên thành hai
vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Đông Bắc là vùng có nhiều núi cao, cao nguyên xen với
những thung lũng- cánh đồng lòng chảo, những dòng sông dài và nhiều danh lam
thắng cảnh. Đông Bắc nổi tiếng với những ngọn núi cao nhƣ Tây Côn Lĩnh, Ngân
Sơn, Mẫu Sơn…với những cao nguyên nằm ở biên giới Việt - Trung nhƣ cao nguyên
Bắc Hà, Quản Bạ, Đồng Văn…Bên cạnh đó, vùng Đông Bắc còn chứa cả những
thung lũng với những cánh đồng bằng phẳng nhƣ Nƣớc Hai, Lộc Bình, Phủ
Thông…và khá nhiều con sông lớn nhỏ nhƣ sông Lô, sông Chảy, sông Bằng Giang,
sông Kỳ Cùng…Khí hậu Đông Bắc cơ bản thuộc về vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa.
7
Nhiệt độ trung bình trong năm là từ 20-22 độ C. Đáng chú ý là nhiệt độ giữa ban
ngày và ban đêm chênh lệch nhau khá nhiều. Cá biệt có những nơi vào mùa đông
nhiệt độ hạ thấp tạo ra những dải tuyết trắng phủ đầy trên các đỉnh núi. Có thể thấy,
về mặt địa lý tự nhiên, Đông Bắc là vùng có đủ các yếu tố mang tính đại diện cho cả
nƣớc. Ở đây, có núi cao, có sông dài, có vùng thấp vùng cao, có thung lũng, có cánh
đồng, có biển, có biên giới quốc gia. Đó cũng là vùng chuyển tiếp từ đồng bằng châu
thổ sông Hồng lên vùng biên giới Đông Bắc. Môi trƣờng tự nhiên cơ bản là điều kiện
thuận lợi và có nhiều ƣu đãi cho quá trình xây dựng và phát triển đời sống của cƣ dân
vùng Đông Bắc nói chung trong đó có các tộc ngƣời dân tộc thiểu số.
Cùng với Đông Bắc, Tây Bắc là vùng có điều kiện tự nhiên đặc biệt. Khu vực
này nổi tiếng với các cánh đồng rộng lớn màu mỡ là: nhất Thanh (Mƣờng ThanhĐiện Biên), nhì Lò (Mƣờng Lò- Văn Chấn- Yên Bái), tam Thanh (Mƣờng ThanhThan Uyên- Lai Châu) và tứ Tấc (Mƣờng Tấc- Phù Yên- Sơn La). Ngoài ra, địa bàn
sinh tụ của các nhóm Mƣờng còn nổi danh với bốn mƣờng: nhất Bi (Mƣờng Bi- Tân
Lạc), nhì Vang (Lạc Sơn), tam Thàng (Kỳ Sơn) và tứ Động (Chiềng Động- Kim Bôi)
thuộc tỉnh Hòa Bình. Tây Bắc cũng là khu vực có những ngọn núi cao vào loại nhất
nhì Việt Nam nhƣ đỉnh Phanxipăng, dãy Hoàng Liên Sơn…Khí hậu nơi đây là khí
hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi điển hình. Mùa đông lạnh, có sƣơng muối, ít mƣa,
mùa hè nóng, nhiều mƣa. So với vùng Đông Bắc, nhiệt độ mùa khô ở đây cao hơn từ
1-2 độ C. Nhƣ vậy, Tây Bắc cũng là vùng địa lý điển hình và độc đáo với núi non
hiểm trở, trùng điệp, nhiều dòng sông lớn, nhiều cao nguyên và những cánh đồng.
Đây cũng là vùng có đƣờng biên giới với hai nƣớc bạn Lào và Trung Hoa, đặc biệt,
nơi đây có các nhà máy thủy điện lớn cung cấp năng lƣợng cho cả nƣớc.
Điều kiện tự nhiên vừa có phần hùng vĩ, thơ mộng vừa có phần khắc nghiệt,
hiểm trở ấy đã chi phối đến đời sống xã hội, văn hóa và văn học dân gian các dân tộc
thiểu số trên nhiều phƣơng diện. Những núi, những sông, những cánh đồng rộng dài
bát ngát đã ghi dấu ấn trong nhiều truyện kể dân gian các dân tộc. Các loài động thực
vật phong phú đa dạng đã đƣợc đồng bào các dân tộc thể hiện sinh động trong các
truyện thần thoại và cổ tích. Đặc trƣng khí hậu rét vào mùa đông, mƣa nhiều vào
mùa hè và ấn tƣợng về những đại nạn trong tự nhiên nhƣ hạn hán, lũ lụt chính là cơ
8
sở cho sự hình dung và miêu tả về những chàng ngƣời khỏe, những nhân vật khổng
lồ ngăn nƣớc, đắp mƣơng trong truyện kể.
1.1.2. Đặc điểm xã hội
Miền núi phía Bắc là nơi trú cƣ lâu đời của rất nhiều dân tộc thiểu số nhƣ Tày,
Nùng, Thái, Mƣờng, Hmông, Dao, Giáy, Cao Lan, Sán Dìu, Hà Nhì, Lô Lô, Khơ
Mú, Xinh Mun, Pu Péo… thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau nhƣ: Việt- Mƣờng,
Tày- Thái, Hmông- Dao, Tạng- Miến, Môn- Khơme. Theo số liệu tổng điều tra dân
số năm 2009, các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 62% tổng dân số của cả khu vực
miền núi phía Bắc. Xét về mặt hành chính, miền núi phía Bắc bao gồm 15 tỉnh Hà
Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái
Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình.
Tuy nhiên, sự phân bố cƣ dân các dân tộc thiểu số ở các tỉnh này có sự chênh lệch rõ
rệt. Ví dụ ở tỉnh Cao Bằng, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới 95% nhƣng ở Quảng
Ninh đồng bào thiểu số chỉ chiếm khoảng 11% số dân. Những địa phƣơng có dân tộc
thiểu số cƣ trú đông tập trung ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên
Quang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Thái Nguyên. Vì
lẽ đó, trong luận án, chúng tôi tập trung khảo sát nghiên cứu truyện kể các dân tộc
thiểu số cƣ trú ở các tỉnh đã kể trên. Trong các dân tộc thiểu số khu vực miền núi
phía Bắc có những nhóm dân tộc di cƣ, du nhập và liên hệ rất mật thiết với một số
dân tộc miền Nam Trung Quốc và một số dân tộc Đông Nam Á. Tiêu biểu là các dân
tộc Hmông, Dao có nguồn gốc phƣơng Bắc, di cƣ vào nƣớc ta ở những thời kỳ lịch
sử khác nhau nhƣ dân tộc Dao là từ thế kỷ XIII, dân tộc Hmông là từ thế kỷ XIII đến
thế kỷ XIX. Đặc điểm lịch sử xã hội này tạo ra sự ảnh hƣởng qua lại giữa các dân tộc
miền núi phía Bắc Việt Nam và một số dân tộc phía Nam Trung Quốc, điều đó đƣợc
thể hiện khá rõ nét trong một số thể loại, type truyện dân gian mà chúng tôi sẽ chỉ ra
và phân tích ở những chƣơng sau.
Đối với các dân tộc thiểu số, bản làng, mƣờng là đơn vị cƣ trú quan trọng. Các
nóc nhà quần tụ với nhau, gắn bó và quan hệ chặt chẽ tạo thành bản. Các bản làng
cùng cƣ trú trong một thung lũng trở thành mƣờng. Các dân tộc cƣ trú ở vùng thấp có
thể xây dựng bản làng ở chân núi, thung lũng còn các dân tộc vùng cao chọn sƣờn
đồi hay sƣờn núi để tạo lập. Ngƣời Thái thƣờng lập bản ở ngay giữa các cánh đồng
9
nên bản của họ là những cụm dân cƣ khá đông đúc, có khi có tới hàng trăm nóc nhà.
Ngƣời Mƣờng lại thƣờng dựng bản thành từng cụm ven chân núi nên quy mô không
lớn nhƣ bản ngƣời Thái. Các dân tộc ở vùng Đông Bắc nhƣ Tày, Nùng, Hmông, Dao
thì hay chọn sƣờn đồi, sƣờn núi làm nơi dựng bản. Dù ở những vị trí khác nhau thì
đồng bào các dân tộc đều thống nhất tiêu chuẩn dựng bản mƣờng đó là gần nguồn
nƣớc để tiện cho lao động sản xuất và sinh hoạt. Riêng dân tộc Mƣờng còn dựng bản
nơi có gốc cây si hoặc cây đa. Nƣớc có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống, đặc biệt
với các cƣ dân vùng thấp. Ngƣời Tày, Nùng, Thái có hoạt động sản xuất cơ bản là
làm ruộng ở những thung lũng lúa nƣớc với hệ thống thủy lợi theo kiểu mương, phai,
lái, lịn và các loại cọn, guồng…Và có lẽ vì thế, nƣớc cùng với những yếu tố có liên
quan đã trở thành một trong những biểu tƣợng tiêu biểu thƣờng xuyên xuất hiện
trong truyện kể dân gian các dân tộc. Mỗi bản đều có địa giới rõ ràng, địa giới hoặc
là một con đƣờng, dòng suối hoặc là một gốc cây cổ thụ, một cái đèo, một con
dốc…Mỗi bản có nguồn tài nguyên riêng mà chỉ các thành viên trong bản đƣợc
quyền sử dụng. Mỗi bản thƣờng có nhiều dân tộc cùng sinh sống, lao động và có
quan hệ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Ngƣời cùng một bản thƣờng tổ chức các hoạt
động văn hóa cộng đồng ở nơi sinh hoạt chung nhƣ miếu, đình làng…
Về tổ chức quản lý xã hội, các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc chủ yếu
thực hiện theo thiết chế tự quản, mỗi bản, mƣờng đều có một ngƣời đứng đầu đƣợc
gọi là trƣởng bản. Một số dân tộc thiểu số tiêu biểu nhƣ Thái, Tày, Mƣờng do ảnh
hƣởng rõ rệt của chế độ phong kiến, do xã hội đã phát triển hơn và đạt đến trình độ
tiền giai cấp, tiền nhà nƣớc do vậy, thiết chế xã hội đã hình thành bộ máy bao gồm lý
trƣởng, chánh tổng, quan châu…một số dân tộc khác thực hiện thiết chế theo chế độ
quằng, thổ ty, phìa tạo, lang đạo. Chính vì thế, trong truyện kể dân gian các dân tộc
này, chúng ta thấy xuất hiện phổ biến hình ảnh thực của giai cấp thống trị với tên gọi,
đặc điểm tính cách xác định cụ thể.
Hầu hết gia đình các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đều thuộc loại gia
đình nhỏ phụ hệ bao gồm hai hình thức gia đình hạt nhân và gia đình hạt nhân mở
rộng, trong đó, ngƣời chồng, ngƣời cha làm chủ gia đình. Ngƣời chủ gia đình có vai
trò quyết định trong tổ chức sản xuất và điều hòa các mối quan hệ giữa con ngƣời với
con ngƣời trong gia đình cũng nhƣ ngoài xã hội. Trong gia đình, nề nếp phân công
10
lao động theo lứa tuổi và giới tính đã hình thành từ lâu đời. Ngƣời đàn ông trƣởng
thành thƣờng gánh vác những công việc nặng nhọc nhƣ cày, bừa, phát rẫy, săn bắn,
đánh bắt, dựng nhà cửa…Phụ nữ tham gia những công việc sản xuất ít nặng nhọc
hơn nhƣ gieo cấy, chăm sóc lúa và hoa màu, đặc biệt là đảm nhận công việc trong gia
đình nhƣ dệt may, khâu vá nấu nƣớng và chăm sóc con cái. Đặc điểm xã hội này đã
để lại những dấu ấn nhất định trong nhiều truyện kể.
1.2. Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Miền núi phía Bắc là khu vực định cƣ của rất nhiều dân tộc thiểu số, ngoài
một số tộc ngƣời bản địa còn có nhiều nhóm tộc ngƣời từ các khu vực, quốc gia khác
di cƣ đến và định cƣ sinh sống tại đây. Do đó, đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số
cƣ trú tại khu vực này vừa là sự tổng hợp một cách tự nhiên bởi mối giao lƣu, ảnh
hƣởng, tiếp biến các sắc thái văn hóa tộc ngƣời vừa là sự hiện hữu một số nét văn
hóa riêng của mỗi tộc ngƣời ấy. Trong luận án này, chúng tôi chủ yếu khái quát
những nét văn hóa mang tính chất tổng hợp, là điểm gặp gỡ, thống nhất giữa các dân
tộc coi đó nhƣ một phần điểm tựa để khám phá giá trị của bộ phận truyện kể phong
phú ấy. Bên cạnh đó, ở một số luận điểm chúng tôi cũng xem xét đến bản sắc văn
hóa mỗi tộc ngƣời có ảnh hƣởng và tạo ra những type, motif truyện độc đáo của từng
dân tộc. Tìm hiểu một số biểu hiện cụ thể trong đời sống văn hóa các dân tộc cũng có
nghĩa là chúng tôi muốn hƣớng tới việc khai thác và lý giải các thể loại truyện kể dân
gian từ góc độ văn hóa tộc ngƣời, văn hóa vùng lãnh thổ và trong mối liên hệ văn
hóa liên quốc gia ở một vài trƣờng hợp cụ thể. Với tinh thần đó, dƣới đây chúng tôi
xin trình bày khái quát một số vấn đề cơ bản về đời sống văn hóa của các dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc.
Cộng cƣ trong khung cảnh thiên nhiên vừa bí ẩn, khắc nghiệt vừa hùng vĩ, nên
thơ, ngƣời dân các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đã tạo dựng và lƣu giữ đƣợc
những nét văn hóa đặc trƣng thời cổ đại- văn hóa Nam Á. Đó là bức tranh văn hóa
phản ánh một nền sản xuất nông nghiệp miền núi vùng nhiệt đới gió mùa. Bức tranh
văn hóa ấy đƣợc biểu hiện ra thành các nét vẽ muôn màu muôn vẻ trong tất cả các
phƣơng diện văn hóa vật chất và tinh thần.
Sống ở miền núi, giữa môi trƣờng tự nhiên nhiều loại gỗ, tre, nứa lá, ngƣời
miền núi phía Bắc đã biết sử dụng các nguyên liệu tự nhiên có sẵn để làm nhà ở. Cƣ
11
dân thiểu số vùng thấp miền núi phía Bắc thƣờng làm nhà sàn. Những dân tộc sinh
sống ở vùng cao hơn nhƣ Hmông, Dao có thể kết hợp nhà sàn với nhà đất, nhà gỗ.
Nét chung trong tập quán làm nhà và sử dụng nhà ở của các dân tộc là sự phân chia
nhà thành các tầng, các gian với chức năng đƣợc phân định rõ ràng. Nhà gồm ba
tầng: tầng dƣới cùng là gầm sàn- nơi dành để công cụ sản xuất, gia súc, gia cầm; tầng
trên là nơi con ngƣời ở và các đồ dùng hàng ngày của con ngƣời và tầng gác là nơi
chứa lƣơng thực và cất giữ các đồ đạc bảo quản lâu ngày. Nhà cũng gồm ba gian:
gian giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, là nơi tiếp khách cũng là không gian sinh hoạt
chung của gia đình, một gian làm bếp và buồng ngủ cho phụ nữ, gian còn lại dành
chon nam giới.
Về trang phục, các dân tộc thiểu số trƣớc đây đều tự túc hoàn toàn từ khâu
trồng bông, trồng lanh, dệt vải đến công đoạn cắt, khâu thành quần áo. Trang phục
của các dân tộc miền núi cầu kỳ và tinh tế bao gồm mũ (khăn đội đầu), áo, quần
(váy), thắt lƣng, tạp dề, xà cạp, guốc hoặc dép. Các dân tộc thiểu số vùng thấp Đông
Bắc nhƣ Tày, Nùng ƣa dùng sắc màu chàm xanh để nhuộm quần áo. Đó là vẻ đẹp
thâm trầm không gây cảm giác choáng ngợp nhƣng lại mang nét độc đáo và duyên
dáng. Trong khi đó, các dân tộc Hmông, Dao ở vùng cao thƣờng gây cảm giác và ấn
tƣợng mạnh mẽ bởi vẻ đẹp rực rỡ của những tấm váy xòe nhiều màu sắc. Ngƣời Thái
hấp dẫn bởi áo cánh, váy cuốn bó sát thân với hai sắc màu trắng và thâm (đen) làm
chủ đạo, cùng khăn piêu nền nã, tinh tế và dải thắt lƣng xanh duyên dáng. Trang
phục của nữ giới thƣờng phức tạp, đa dạng và nhiều màu sắc hơn trang phục nam
giới. Thêm vào đó, đồng bào các dân tộc thiểu số thƣờng sử dụng kết hợp trang phục
với các loại trang sức để tăng sức hấp dẫn. Đó là các loại hoa tai, vòng tay, vòng cổ,
bộ xà tích…Các loại trang sức này thƣờng đƣợc làm từ bạc và đƣợc trạm khắc với
nhiều hoa văn đẹp mắt. Ngoài chức năng làm đồ trang điểm cho thêm duyên dáng,
một số loại trang sức còn đƣợc coi nhƣ bùa hộ mệnh, đồ chữa bệnh…Có thể nói,
trang phục các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc vừa đậm đà tính truyền thống, bản
sắc dân tộc vừa có yếu tố hiện đại tạo ra những ấn tƣợng riêng góp phần hoàn thiện
bức tranh văn hóa đặc sắc.
Nói đến văn hóa đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc không thể
không nói đến đời sống tín ngƣỡng, nghi lễ bởi đó là nhu cầu tất yếu trong cuộc sống
12
của tất cả các dân tộc. Đặc biệt, các cƣ dân vùng cao miền núi phía Bắc, sống gắn bó
thƣờng xuyên với môi trƣờng tự nhiên còn nhiều bí ẩn, nguy hiểm nên mặc nhiên ở
họ xuất hiện niềm tin vào số phận, vào lực lƣợng siêu nhiên và đó chính là cơ sở của
niềm tin tín ngƣỡng, tôn giáo. Tín ngƣỡng các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc trƣớc
hết là tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên, sau là tín ngƣỡng đa thần giáo, tín ngƣỡng vật tổ
dựa trên niềm tin “vạn vật hữu linh” và một số phƣơng diện chịu ảnh hƣởng của Phật
giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Trong gia đình, cƣ dân các dân tộc đều lập bàn thờ để
thờ cúng tổ tiên, thờ Bà Mụ. Ngoài ra họ còn thờ Phật, Khổng, Đạo, có khi thờ tổ sƣ
nghề thầy cúng, hoặc thờ vị thần đƣợc coi là thủy tổ của dân tộc mình. Một số dân
tộc và dòng họ trong các dân tộc do ảnh hƣởng của tín ngƣỡng vật tổ mà có tục kiêng
ăn thịt một số loài vật. Ví dụ, dân tộc Tày có nhiều dòng họ. Họ Bế kiêng ăn thịt chó
vì họ cho rằng xƣa kia tổ tiên dòng họ này đã đƣợc con chó chăm sóc và cho bú lúc
gặp hoạn nạn. Họ Hồ không ăn thịt rùa hay họ Vƣơng thì kiêng ăn thịt ếch. Đồng bào
Thái ở nhiều vùng lại kiêng ăn thịt rắn vì họ coi đó là vật tổ của mình. Đồng bào Dao
cũng kiêng ăn và giết chó vì trong tâm thức của họ, con chó thần Long khuyển chính
là tổ tiên đã sinh ra các dòng họ Dao. Điều này để lại dấu ấn trong truyện kể dân gian
của các dân tộc rất rõ từ những truyện thần thoại giải thích tục thờ thần, thờ vật tổ,
truyền thuyết về vị tổ sƣ đến sự xuất hiện nhân vật thần, phật trong truyện cổ tích. Ví
nhƣ trong quan niệm của các dân tộc Tày, Nùng, thần Nông là vị thần phụ trách việc
nông trang, thần định ra thời vụ và giữ nƣớc cho thời vụ. Thần có ý nghĩa rất quan
trọng đối với đời sống sản xuất gắn liền với nông nghiệp của các cƣ dân. Hàng năm,
các dân tộc đều tổ chức những nghi lễ trang trọng thờ cúng thần Nông để cầu mong
mƣa thuận gió hòa, bớt thiên tai đối với cuộc sống. Đồng bào các dân tộc cũng quan
niệm vạn vật đều có hồn, có ma, có thần. Tất cả các loại hồn đều đƣợc chia làm hai
loại: lành (thiện) và dữ (ác). Đây là quan niệm điển hình trong nhận thức nhân dân
các dân tộc chi phối mạnh mẽ đến đời sống văn hóa và các sáng tác văn học dân
gian. Đó là nguyên nhân, là cơ sở hình thành hàng loạt các miếu thờ thổ công, thổ
địa, thổ thần, đình làng thờ Thần hoàng, là nguyên cớ để đồng bào các dân tộc tổ
chức các lễ hội mang tính nghi lễ, cũng là cơ sở hình thành các thể loại sáng tác dân
gian nghi lễ tiêu biểu.
13
Đối với các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, tín ngƣỡng, tôn giáo chủ yếu mới
dừng lại ở các loại hình nguyên thủy. Đó là niềm tin về sự tồn tại của ba mƣờng (dân
tộc Thái), ba tầng- bốn thế giới (dân tộc Mƣờng). Với ngƣời Mƣờng, ba tầng đó là
tầng trên cao (tầng trời), tầng giữa (tầng mặt đất) và tầng thấp (tầng dƣới mặt đất).
Bốn thế giới bao gồm thế giới Mƣờng Trời (Phạ, Then hoặc Blơi, Klơi)- nơi ở của tổ
tiên và các vị thần linh trông coi mọi vật trên trái đất, thế giới Mƣờng Pƣa- thế giới
trần gian của ngƣời sống, thế giới Mƣờng Pƣa Tín (dƣới mặt đất) và thế giới Mƣờng
Vua Khú (mƣờng nƣớc). Trong các mƣờng đó, mƣờng Trời là nơi trú ngụ của các vị
thần có sức mạnh, uy quyền phi phàm nhất, có thể chia làm nhiều tầng, lớp khác
nhau với các địa vị, chức năng khác nhau. Niềm tin ấy đã tạo nên trong truyện kể dân
gian các dân tộc không khí huyền ảo với sự xuất hiện của không gian Mƣờng Trời và
nhân vật Vua Trời đầy uy quyền một cách rất phổ biến.
Lễ hội cũng là một nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng của đồng bào các dân tộc.
Lễ hội đƣợc tổ chức khá thƣờng xuyên và gắn liền với đời sống của nhân dân đặc
biệt là đời sống sản xuất, phản ánh niềm tin và mơ ƣớc về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lễ hội ở đây thƣờng đƣợc tổ chức theo mùa và theo mục đích của lễ hội nhƣ Tết
Nguyên Đán, lễ hội mùa xuân, lễ hội cầu mùa, lễ hội cầu an, lễ cầu tự. Ở mỗi dân
tộc, các lễ hội này có thể đƣợc gọi theo những cách khác nhau nhƣ lồng tồng (lùng
tùng), hội Hai (Tày), nào xồng, gầu tào (Hmông), dun pùn (Dao), sắc bùa, khuổng
mùa (Mƣờng), xên mường, xên bản (Thái) …Các lễ hội đƣợc tổ chức phổ biến vào
mùa xuân, tháng Giêng, ngoài ra có thể vào một số dịp khác nhƣ mùa hè, thu. Sau
những năm mùa màng thất bát, vào dịp xuân mới, ngƣời Tày ở Tràng Định (Lạng
Sơn) và Thạch An (Cao Bằng) thƣờng tổ chức Hội Hai để đón rƣớc nàng Hai (nàng
Trăng). Đồng bào quan niệm trên cung trăng có Mẹ Trăng và 12 cô gái đẹp chuyên
lo lắng và bảo vệ mùa màng cho dân ở trần gian. Tổ chức hội Trăng là để đón Mẹ
Trăng và các cô gái xuống tìm hiểu cõi ngƣời và đồng cảm với khát vọng của dân. Lễ
“xên mƣờng” của ngƣời Thái cũng là lễ hội mùa nông nghiệp đƣợc tổ chức đầu xuân
để cúng bái trời đất, thần linh, các tổ tiên, dòng họ chúa, các ma quỉ…cầu mong một
năm bản mƣờng đƣợc tốt đẹp, yên ấm.
Giống nhƣ dân tộc Kinh, đồng bào khu vực nơi đây cũng duy trì đƣợc một số
lễ hội gắn với các nhân vật anh hùng lịch sử nhƣ lễ hội Dƣơng Tự Minh ở Thái
14
Nguyên, lễ hội về anh hùng Nùng Trí Cao ở Cao Bằng, lễ hội nàng Han ở Sơn
La…Tuy hệ thống lễ hội này không thật phong phú nhƣ ở ngƣời Việt nhƣng chúng
đã góp phần tạo ra môi trƣờng lƣu giữ các giá trị văn hóa, văn học truyền thống quý
báu của các dân tộc. Lễ hội đƣợc coi nhƣ những “bảo tàng sống” phản ánh, bảo lƣu
và giữ gìn nhiều nét tín ngƣỡng, phong tục, tập quán truyền thống của các tộc ngƣời.
Trong lễ hội, đồng bào các dân tộc đặc biệt chú ý đến việc sử dụng các nhạc
cụ nhằm làm phong phú hấp dẫn cho các hoạt động và hơn hết góp phần giúp cho
các sáng tác văn học dân gian truyền miệng một cách sinh động và sâu sắc hơn.
Ngƣời Tày nổi tiếng với cây đàn tính, ngƣời Thái có cây sáo pí pặp còn với dân tộc
Hmông, cây khèn đƣợc coi là nhạc cụ đặc trƣng tiêu biểu. Đồng bào Hmông giãi bày
tâm sự với nhau bằng khèn, than thân bằng khèn, cúng lễ bằng khèn, nghĩa là diễn tả
mọi tâm tƣ, tình cảm, suy nghĩ của mình bằng khèn. Dƣới góc độ nhân học biểu tƣợng,
cây khèn là hiện thân của tâm hồn, tính cách, tài năng, phẩm chất của ngƣời đàn ông
Hmông và cũng là vật tƣợng trƣng cho tâm hồn, tình yêu, khát vọng tuổi trẻ của ngƣời
Hmông. Vì thế, trong truyện kể dân tộc này, biểu tƣợng này xuất hiện phổ biến gắn với
những chàng trai mồ côi nghèo khổ mà tài giỏi và đức hạnh. Tiếng khèn và tài thổi khèn
trở thành một trong những yếu tố khẳng định vẻ đẹp của nhân vật và giúp nhân vật tìm
đƣợc hạnh phúc trong cuộc sống.
Có thể khẳng định, trong quá trình cộng cƣ lâu dài, các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc tạo ra một nền văn hóa, văn học và truyện kể mang nhiều đặc điểm
chung do có sự giao lƣu, tiếp nhận và ảnh hƣởng lẫn nhau nhƣng đồng thời ở mỗi
dân tộc, mỗi nhóm dân tộc vẫn có những nét khác biệt nhất định phản ánh trình độ
phát triển khác nhau. Bên cạnh đó, trong đời sống, các dân tộc thiểu số miền núi phía
Bắc một mặt giữ gìn những nét văn hóa tộc ngƣời, mặt khác cũng có xu hƣớng tiếp
cận và hòa nhập cả với cuộc sống, văn hóa của dân tộc Kinh. Thành phần các dân tộc
thiểu số đa dạng, phong phú đã góp phần tạo nên bức tranh văn hóa nhiều màu sắc là
chứng tích cho sự hiện hữu và gắn bó với vùng đất này của đồng bào.
15
1.3. Khái quát về văn học dân gian các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
Văn học dân gian là một trong hai bộ phận cấu thành nền văn học dân tộc của
mỗi quốc gia. Đây là bộ phận văn học mang nhiều nét riêng biệt, tồn tại tƣơng đối
độc lập nhƣng luôn song hành và có những ảnh hƣởng qua lại nhất định với bộ phận
văn học thành văn. Trong văn học dân gian Việt Nam, bên cạnh kho tàng văn học
dân gian phong phú của dân tộc Việt, các dân tộc thiểu số trong đó có các dân tộc
khu vực miền núi phía Bắc cũng đã sáng tạo và lƣu giữ đƣợc một nguồn sống tinh
thần dồi dào vừa mang những nét chung vừa đậm đà nét riêng của các tộc ngƣời.
Miền núi phía Bắc là nơi hội tụ của nhiều dân tộc thiểu số nên điều đầu tiên có
thể khẳng định, văn học dân gian các dân tộc khu vực này rất phong phú và gắn bó
chặt chẽ với nhau cùng tồn tại, phát triển tạo nên sự đa dạng mà thống nhất với đầy
đủ các loại hình và thể loại. Mỗi dân tộc ở khu vực miền núi phía Bắc đều có một
kho tàng văn học dân gian của riêng mình đồng thời dấu ấn của sự giao lƣu, ảnh
hƣởng và thâm nhập vào nhau cũng xuất hiện rất phổ biến trong các sáng tác. Đồng
bào các dân tộc đã sớm sáng tạo và lƣu truyền từ những truyện kể về nguồn gốc loài
ngƣời, nguồn gốc các hiện tƣợng đến những câu chuyện phản ánh về số phận con
ngƣời, trong đó nổi bật là những hình tƣợng ngƣời mồ côi, ngƣời làm dâu…Họ cũng
truyền cho nhau những câu nói ngắn gọn phản ánh kinh nghiệm sống, đặc biệt họ vô
cùng yêu thích những làn điệu dân ca ngọt ngào, những bài hát nghi lễ linh thiêng,
huyền bí. Văn học dân gian các dân tộc thiểu số nơi đây chứa đựng trong nó không
khí miền núi đặc trƣng, tâm hồn con ngƣời miền núi dung dị, chất phác, cổ sơ. Hình
ảnh, ngôn ngữ, kết cấu trong các sáng tác văn học dân gian có những điểm tƣơng
đồng và cả nét riêng biệt độc đáo nhất định so với nguồn truyện kể của ngƣời Việt
cũng nhƣ các dân tộc thiểu số các vùng, miền khác.
Văn học dân gian các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc gắn liền với đời
sống. Đặc trƣng này đúng với văn học dân gian nói chung nhƣng nó càng đúng và rõ
hơn với văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam và văn học của đồng bào
miền núi phía Bắc. Nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật đã khẳng định: “Văn học dân
gian truyền thống của các dân tộc nảy sinh và phát triển trong các sinh hoạt cụ thể
của đời sống các dân tộc và là một bộ phận không thể tách rời của các hoạt động cụ
thể đó. Trong đám cưới, đám tang, trong việc giao tế, lời hát, lời nói vần không phải
16
chỉ để phản ánh để thúc đẩy các hoạt động này mà hơn nữa còn là một khâu quan
trọng không thể thiếu trong các sinh hoạt đó” [59, tr 14-15]
Văn học dân gian các dân tộc ở đây đƣợc hình thành từ trong chính cuộc sống
lao động, sinh hoạt văn hóa, tín ngƣỡng, phong tục của nhân dân, tồn tại trong các
hoạt động sinh hoạt văn hóa ấy và phục vụ cho chính cuộc sống ấy. Văn học dân
gian các dân tộc thiểu số chƣa phải là một bộ phận chuyên môn hóa tách hẳn khỏi
các hoạt động cụ thể của đời sống vật chất. Cho đến ngày nay, trong các hoạt động
sinh hoạt của đời sống, nhất là sinh hoạt văn hóa, một số loại hình văn học dân gian
vẫn còn đƣợc diễn xƣớng, biểu diễn hết sức chân thực và sinh động. Ví nhƣ các câu
chuyện thần thoại, sử thi thƣờng đƣợc kể trong những đám tang ma dƣới sự thể hiện
của các thầy mo, các bài dân ca quen thuộc vẫn đƣợc hát trong lễ hội sắc bùa của
ngƣời Mƣờng, lễ lồng tồng của ngƣời Tày, Nùng…
Văn học các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc có đầy đủ các loại, thể loại
giống nhƣ văn học dân gian Việt, thậm chí còn xuất hiện một số thể loại văn học
truyền miệng mà dân tộc Việt hiện chƣa thấy hoặc không có. Bộ phận trữ tình bao
gồm các loại dân ca nhƣ dân ca nghi lễ, dân ca lao động và dân ca sinh hoạt. Các loại
dân ca này đa dạng về tên gọi, nội dung và hình thức diễn xƣớng. Dân ca nghi lễ là
những bài hát thƣờng đƣợc diễn xƣớng trong các sinh hoạt tín ngƣỡng, nghi lễ nhƣ
đám ma, đám cƣới, lễ cầu mùa, cầu tự…Đặc biệt, các hình thức dân ca sinh hoạt
trong đó có dân ca giao duyên là mảng dân ca rất phong phú, độc đáo của các dân
tộc. Dân tộc Tày nổi tiếng với những điệu lượn, phuối pác làm say lòng ngƣời.
Ngƣời Thái lại hát khắp (khặp) trong hội hát trên sàn hoa Hạn khuống có khi quên
ngày đêm. Các dân tộc Nùng, Hmông cũng có những làn điệu sli, gầu tha thiết cho
các chàng trai cô gái cất lên mỗi dịp xuân về.
Các thể loại văn học dân gian mang tính chất luận lý (theo cách gọi của nhà
nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu), đúc kết kinh nghiệm (theo cách gọi của nhà nghiên cứu
Cao Huy Đỉnh) nhƣ tục ngữ, câu đố cũng đƣợc đồng bào các dân tộc lƣu giữ khá
phong phú và có những hình ảnh, phƣơng thức thể hiện riêng. Ví nhƣ ngƣời Thái nói
theo cách trực tiếp nhƣ sau: Hạt thóc ở dưới đất. Miếng ăn ở trên rừng. Ai khéo cuốc
thành ruộng. Ai khéo đắp thành làng Hoặc Hỏi đường hỏi người già. Xin cơm xin cô
gái. Ngƣời Tày lại đúc kết: Vằn diều thì mưa. Vằn chim thì hạn. Vằn cá thì mưa. Vằn
17
cáo thì nắng…Các dân tộc cũng có lối nói hình ảnh nhƣ Ở với vôi dính vôi. Ở với
mực dính mực (Thái), Núi ni đã tỏ, núi nọ còn cao. Dao ni sắc, dao khác sắc hơn
(Mường).
Đặc biệt, có một thể loại đƣợc coi là sản phẩm riêng trong văn học dân gian
các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, đó là truyện thơ. Đó là những tác phẩm
truyện có hình thức văn vần, đƣợc diễn xƣớng dƣới nhiều hình thức nhƣ kể, hát,
ngâm, đọc, có số lƣợng câu chữ lớn, nội dung thƣờng phản ánh về số phận nhƣng
con ngƣời bất hạnh và cuộc sống lứa đôi có nhiều trắc trở. Truyện thơ là thể loại có
sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình, mang đậm bản sắc văn hóa,
giàu phong tục tập quán, phản ánh nếp nghĩ, tƣ tƣởng, tình cảm của nhân dân các dân
tộc thiểu số miền núi phía Bắc. Có lẽ không ai không biết đến truyện thơ Tiễn dặn
người yêu, Chàng Lú- nàng Ủa…của dân tộc Thái, truyện thơ Út Lót- Hồ Liêu, Nàng
Ờm-chàng Bồng Hương…của dân tộc Mƣờng. Dân tộc Tày lại tự hào với hàng loạt
tác phẩm nhƣ: Nam Kim- Thị Đan, Lưu Đài- Hán Xuân, Nhân Lăng…Dân tộc
Hmông nổi tiếng với các tác phẩm: Tiếng hát làm dâu, Nàng Dợ- chàng Tăng…
Một thể loại nữa làm nên nét đặc sắc trong cơ cấu thể loại văn học dân gian
các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đó là sử thi. Nếu các dân tộc Tây Nguyên nổi
tiếng vì họ là chủ nhân của các bản sử thi anh hùng mang âm hƣởng anh hùng ca lẫm
liệt nhƣ Đam Săn, Xinh Nhã…thì sử thi thần thoại là đặc trƣng của các dân tộc ở
miền núi phía Bắc. Đó là tác phẩm Đẻ đất đẻ nước của ngƣời Mƣờng ở Hòa Bình,
Ẳm ệt luông, Ẳm ệt nọi của ngƣời Thái ở Tây Bắc. Đó là những tác phẩm mang hình
thức văn vần dài hơi kể về sự hình thành vũ trụ, con ngƣời, về quá trình sáng tạo văn
hóa đầu tiên của loài ngƣời. Thực chất đây là những tác phẩm tổng hợp nhiều nội
dung của nhiều thể loại nhƣ thần thoại, truyền thuyết, nhiều loại hình nghệ thuật dân
gian khác nhau nhƣ diễn kể, ca hát và âm nhạc, có giá trị nhƣ những trang sử cổ xƣa
phản ánh những sự kiện lớn ảnh hƣởng đến toàn cộng đồng.
Có thể khẳng định, văn học dân gian các dân tộc miền núi phía Bắc đa dạng,
phong phú và có nhiều giá trị đặc sắc, trong đó bộ phận truyện kể dân gian có một
diện mạo và vai trò đáng kể.
18
1.4. Lịch sử sƣu tầm và nghiên cứu truyện kể dân gian các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc
1.4.1. Lịch sử sưu tầm, biên soạn
Theo nhiều nhà nghiên cứu, tình hình sƣu tầm truyện kể dân gian các dân tộc
thiểu số nói chung, các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nói riêng có thể chia làm
hai giai đoạn chính là giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám và sau Cách mạng
tháng Tám. Trƣớc Cách mạng tháng Tám, việc sƣu tầm văn học dân gian trong đó có
truyện cổ tích các dân tộc thiểu số chƣa đƣợc quan tâm thích đáng. Phần lớn truyện
kể các dân tộc miền núi mới đƣợc giới thiệu qua các công trình địa chí nhƣ Cao
Bằng thực lục (1795) của Bế Hựu Cung đốc trấn Cao Bằng, Cao Bằng lục (1807) của
tiến sĩ Lê Phiên, Lịch triều hiến chương loại chí (1819) của nhà sử học Phan Huy
Chú…
Trên thực tế, những thành tựu sƣu tầm biên soạn về truyện kể chủ yếu để lại
dấu ấn ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám. Vì thế, trong phạm vi của đề tài,
chúng tôi sẽ điểm lại lịch sử sƣu tầm, biên soạn truyện kể các dân tộc miền núi phía
Bắc một cách khái quát qua những công trình có giá trị đƣợc công bố từ sau Cách
mạng tháng Tám. Đó cũng là nguồn tƣ liệu chính để chúng tôi tiến hành khảo sát,
thống kê, phân tích và triển khai đề tài. Để tiện theo dõi, chúng tôi tiếp tục chia giai
đoạn này thành hai thời kỳ sau:
1.4.1.1. Thời kỳ 1945-1980
Cuốn sách đƣợc coi là bộ sƣu tập đầu tiên về truyện kể dân gian các dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc là Truyện cổ tích miền núi [73] do tập thể thầy trò trƣờng
Sƣ phạm miền núi trung ƣơng thực hiện. Từ sau những năm 64, công tác sƣu tầm
truyện kể các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc đặc biệt đƣợc quan tâm chú ý hơn
với sự xuất hiện các công trình tiêu biểu nhƣ: Truyện cổ Việt Bắc [94], Truyện cổ
dân tộc Mèo [108], Truyện cổ Tày Nùng [95]. Thời kỳ này, truyện kể các dân tộc nơi
đây còn đƣợc sƣu tầm, biên soạn, tập hợp trong một số bộ tuyển tập dày dặn nhƣ
Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam (4 tập) (tái bản thành 2 tập năm 1999)
[136].
19
Những công trình sƣu tầm, biên soạn trên có ý nghĩa quan trọng vì nó đặt nền
móng, tiền đề cần thiết cho một công việc không dễ dàng. Tuy vậy, công việc đó ở
thời kỳ này cũng còn nhiều hạn chế. Đó là sự thiếu vắng rõ rệt kho truyện kể của
nhiều dân tộc, sự hạn chế trong thao tác sƣu tầm. Phần lớn các truyện cổ sƣu tầm
trong thời kỳ này là của các tác giả ngƣời Kinh. Vì thế, công việc sƣu tầm gặp phải
khó khăn do sự thiếu hụt về ngôn ngữ, tri thức bản địa về văn hóa và tâm lý dân tộc.
Hơn nữa, họ làm công tác sƣu tầm chủ yếu bởi lòng yêu thích và một phần ý thức
khôi phục vốn văn hóa quý báu của các dân tộc nên tính khoa học hầu nhƣ chƣa mấy
đƣợc chú ý.
1.4.1.2. Thời kỳ từ 1980 đến nay
Đây là thời kỳ này đánh dấu bƣớc phát triển đáng kể trong công tác sƣu tầm
truyện kể dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đặc biệt giai đoạn từ sau năm
1986, khi chính sách của Đảng và Nhà nƣớc rất chú trọng đến việc phát hiện, bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số thì công tác sƣu tầm
truyện kể dân gian đồng bào dân tộc đƣợc các nhà nghiên cứu, các Sở văn hóa thông
tin quan tâm và đầu tƣ đáng kể. Thành tựu sƣu tầm giai đoạn này đƣợc khẳng định cả
về mặt số lƣợng và chất lƣợng.
Thành tựu này thể hiện trƣớc hết ở chỗ truyện kể dân gian của một số dân tộc
nhƣ Thái, Mƣờng đƣợc sƣu tầm, giới thiệu bởi các tác giả ở nhiều địa phƣơng.
Truyện cổ Thái là ví dụ tiêu biểu với ba công trình: Truyện cổ dân tộc Thái [124],
Truyện cổ Thái [18], Truyện dân gian Thái [9]. Truyện cổ Mƣờng có hai quyển:
Truyện cổ Mường Hà Sơn Bình [108], Truyện cổ Mường [1].
Ngoài ra, trong giai đoạn này, truyện kể dân gian các dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc còn đƣợc công bố kết quả qua những tuyển tập truyện cổ đƣợc sƣu tầm
và xuất bản tại tỉnh, huyện. Các công trình tiêu biểu nhƣ Truyện cổ dân tộc Mèo Hà
Giang [135], Truyện cổ Bắc Thái [119], Chiếc sừng nai [82], Truyện cổ Hà Sơn Bình
[74], Truyện cổ xứ Lạng [4], Truyện cổ Bắc Kạn [64] ….
Đến khoảng cuối những năm 80 trở về sau, truyện kể các dân tộc thiểu số nói
chung, các dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng đã trở thành đối tƣợng đƣợc quan tâm
thực sự của nhiều nhà khoa học và các nhóm tác giả. Các bộ tổng tập về truyện kể
các dân tộc xuất hiện nhiều hơn và liên tục đƣợc bổ sung, điều chỉnh. Các bộ sách
20
- Xem thêm -