TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO
HT.Minh Chiếu Sưu Tập
Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành 1992-1994
---o0o--Nguồn
http://thuvienhoasen.org
Chuyển sang ebook 08-08-2009
Người thực hiện :
Nam Thiên -
[email protected]
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục
Tập 1
Phần 01
Một ngƣời nghèo lạ
Hại ngƣời trở lại hại mình
Bố thí bất nghịch ý
Họa tùng khẩu xuất
Ngƣời Mẹ
Phần 02
Ðời Ngƣời Trong Một Câu ! ! !
Vua Cò Trắng
Nàng Ƣu Ðà Di
Tại Sao Phải Niệm Phật?
Tình Ân Ái Là Gốc Của Sự Sanh Tử
Phần 03
Nắm Hạt Trai
Xâu Ngọc… Nƣớc
Tiếng Ðàn Ai Oán
Kẻ Bỏn Xẻn Bị Phạt
1
Vàng Hay Rắn
Phần 04
Phƣớc Báo Hiện Tiền
Con Dao Trong Tâm
Ngƣời học trò bị thầy gạt đƣợc Phật độ
Công Chúa Thuần Nhẫn
Tỉnh Giấc Mơ Hoa
Phần 05
Cứu vật, vật trả ơn - Cứu nhân, nhân trả oán
Ðâu Nguồn Hạnh Phúc
Cặp Mắt Thái Tử Câu Na La
Một Câu Ðáng Giá Nghìn Vàng
Gƣơng Bố Thí
Phần 06
Tình Thƣơng và Thù Hận
Lòng Ngƣỡng Mộ Phật Pháp của Vua A Dục
Xá Tịnh Kỳ Hoàn
Hoàng Tử Hiếu Thảo
Công Ðức Sám Hối
Phần 07
Những Ngƣời Mù Rờ Voi
Hoàng hậu Vi Ðề với Pháp môn Tịnh độ
Nhân Nào Quả Nấy
Ðâu Là Sự Thật?
Tình Thƣơng
Phần 08
Cây đèn kỳ lạ
Quỉ La Sát
Mụt Ghẻ Nói Tiếng Ngƣời
Phƣớc Báo Của Sự Bảo Vệ Sanh Linh
Nan Ðà Tôn Giả
Phần 09
Nhận Lầm Con
Máu Sanh Linh Không Rửa Sạch Tội Lỗi Của Ngƣời
Công Ðức Trì Giới
Trọng Pháp
Lòng Hiếu của con chim Oanh Vũ
Phần 10
Một Lòng Vì Ðạo
Nai Hiền
2
Năm Giọt Mật
Ðức Phật với Con Voi dữ
Công Chúa Nhật Quang
Phần 11
Truyện Con Chó Ðói
Vua A Dục Trở Về Với Phật Giáo
Hoa Sen Trong Ngƣời
Vui Trong Ðau Khổ
Tập 2
Phần 01
Ngƣời đẹp gieo cầu
Con sƣ tử trọng pháp
Nên thận trọng lời nói
Bán nghèo
Lỗi không phải tại thầy thuốc
Phần 02
Ðiều đáng lo nhất
Nƣớc mắt mẹ hiền
Tai hại của tham ái
Vua Ƣu Ðiền với pháp ly dục
Sáu giác quan tranh công
Phần 03
Lòng ích kỉ quá độ
Của tuy đất cát lòng con kính thành
Gần Phật và xa Phật
Một cuộc chiến thắng vinh dự
Quả báo của lời nói, hành động đâm thọc ly gián
Phần 04
Nàng kỹ nữ Phệ Sa
Vàng ngọc phải chăng là hạnh phúc
Oanh Vũ cứu đàn
Tinh Tấn vì đạo hay là Tôn Giả Phú Lâu Na
Công chúa Ly Cấu
Phần 05
Giao du cần chọn bạn
Tiếng đàn vi diệu
Hy sinh
Bớ ngƣời ta! Ăn cƣớp!
Làm vua trong 7 ngày
Phần 06
3
Bốn Con rối
Hoàng tử A Xà Thế
Thầy nhƣờng đệ tử đi trƣớc
Bố thí thân mạng
Chuyện Dũng Mãnh
Phần 07
Nên kính trọng ngƣời già cả đức hạnh
Mê hoặc bị tai nạn
Bố thí vật thực
Lời thề nguyện
Cái đuôi chó xoắn ruột gà
Phần 08
Thử lòng
Hai con cọp tinh ở Hoành Sơn
Thọ trì ba giới
Món nợ truyền kiếp
Cứu ngƣời bị giặc cƣớp
Phần 09
Ðại vƣơng và khỉ chúa
Ðạo thầy trò
Ðộng mối từ tâm
Con khỉ nhân từ
Chết vì không chịu vâng lời
Phần 10
Ngƣời không tai, mắt, mũi, lƣỡi
Tai hại của sân hận
Tai hại của lòng tham
Trì giới thanh tịnh
Phật xử kiện
Phần 11
Phận đẹp duyên may
Câu chuyện Phật nhận con
Một chồng hai vợ
Lắt thịt để cứu con bồ câu khỏi chết
Liên Hoa tiểu thƣ
Phần 12
Lòng kiên nhẫn
Phóng rộng tình thƣơng
Mèo dạy con
Ấm trà phúc đức
4
Ngày gặp phụ vƣơng
Phần 13
Phật dạy vua Thắng Quang làm chính trị
Ðại Bi trì nghiệm
Ðức Phật với ngƣời nghèo khổ
Cò và cua
Nàng dâu giỏi
Phần 14
Dứt bỏ ảo tình
Chuyện bảy cái lọ vàng
Lễ cúng dƣờng cuối cùng của Thuần Ðà
Chiến công oanh liệt nhất
Sự tích bánh cốm
Phần 15
Niệm Phật
Mối tình thân hữu
Dắt nhau xuống giếng
Bồ Tát và mãng xà vƣơng
Tập 3
Phần 01
Hồn Ma Nhà Ðạo Sĩ
Chiếc Cầu Muôn Thuở
Tôn Giả Tí Hon
Không Ðau Ruột Bằng . .
Dạy Khỉ Nói
Phần 02
Mục Kiền Liên Tôn Giả
Bát Cơm Cúng Dƣờng
Vƣờn Nai
Duyên Xƣa Nghiệp Củ
Phần 03
Ca Lƣu Ðà Di
Phật Pháp Nan Văn
Tâm Nhìn
Nắm Tro Tàn
Sự Tích Chim Tu Hú
Phần 04
Ông Trƣởng Giả Keo Kiệt
La Hầu La Xuất Gia
Ðạo đức trở về
5
Không biết mình điên
Chuyện chàng 4 vợ
Phần 05
Chú tiểu hiền triết
Nhờ nghe Phật pháp khỏi phải tự thiêu
Ông sƣ Huyền Trân
Nguyễn Minh Không
Vọng phu
Phần 06
Hồ ly vƣợt bể mót vàng
Trƣ hòa thƣợng
Sự tích con muỗi
Phƣớc Huệ song tu
Phần 07
Vô duyên với Phật thì không đƣợc Phật độ
Bà lão kỳ dị
Voi Trung nghĩa
Nhà sƣ vƣớng lụy
Sự tích cây huyết dụ
Phần 08
Công đức xuất gia
Vị Sa Di giữ giới
Vạ mẹ
Hòa thƣợng cua
Hái hoa cúng Phật
Phần 09
Con trâu
Sƣ bác quản tƣợng
Cây táo núi Thiết Sơn
Chàng ngốc
Mãnh lực lời nguyền
Phần 10
Nụ cƣời em bé
Gƣơng mặt hoa mè
Ðoạn đƣờng phải đến
Ngƣời dốt giác ngộ
Một chút lửa địa ngục
Phần 11
Pothila ông sƣ rỗng
Dƣới gốc mai vàng
6
Ngọc báu trong túi áo
Tam nghiệp hằng thanh tịnh
Phần mƣời hai
Sự tích ông bình vôi
Oan nghiệt
Hoa vƣơng
Tham y hóa rận
Sự tích con nhái
Tôn giả A Nan
Ðộ đệ tử
Ðạo tràng của Bồ Tát
Tập 4
Phần 01
Tấm gƣơng đạo hạnh muôn đời còn ghi
Hƣơng Trinh công chúa
Tôn giả Bạt Ðà Lợi
Mở mắt chiêm bao
Ðại bố thí
Phần 02
Ngƣời làm mặt nạ
Ngƣời chăn bò Nanda
Chồn và sƣ tử
Chim bồ câu và chàng đặt bẫy
Quả cam oan nghiệt
Phần 03
Quan Âm Thị Kính
Nhân quả của sự bố thí
Túi tham không đáy
Chiếc gƣơng soi trong tráp báu
Ðức Phật vào xem một gánh hát xiệc
Phần 04
Mƣợn cớ xin sữa hàng phục ngoại đạo
Gieo gió gặt bão
Truyện chàng Lƣơng Cầu
Hạt cơm cúng Phật
Vakkali
Phần 05
Ði biển tìm vàng
Nan sƣ Nan đệ
Hẹn cùng sống chết
7
Nghệ thuật tuyệt vời
Giữ giới trong sạch đƣợc nhiều phƣớc báo
Phần 06
Vợ chồng đánh nhau
Ngƣời gieo mạ
Chuỗi Anh lạc
Giành làm lớn
Sự tích Cá He
Phần 07
Tôn giả Nan Ðà
Chuyện nàng Xơ Ri Ma Ti
Vua Quang Minh
Con nhền nhện
La Vân Châu
Phần 08
Phật ấn với Ðông Pha
Thiếp nguyện hai điều
Công đức cúng dƣờng Xá Lợi
Gọi Phật bằng bạn
Ðạo trời báo phục
Phần 09
Ngũ Xú Nƣơng
Có Niết Bàn không?
Niết bàn
Ân oán
Tôn giả Xá Lợi Phất
Phần 10
Phóng Túng
Ðừng Ôm Lòng Cừu Hận
Khi Công Tử Chê Tiền
Sợi Dây Bền Nhất
Chỉ Tụng Ðề Kinh Pháp Hoa mà mình và ngƣời thoát khổ
Phần 11
Giữ ý nhƣ giữ thành
Ðịnh nghiệp khó tránh
Sự tích cây nêu ngày tết
Một cách cho
Công Ðức thọ Bát quan trai
Phần 12
Những con ngựa dữ
8
Thế nào là Thƣợng Tọa?
Ngƣời đƣợc ca ngợi
Lại Tra Hòa La
Sự tích Cái mõ
Y Vƣơng
Con cọp dễ thƣơng
Tìm Thánh Tăng
Tập 5
Phần 01
Chuyện con ngỗng trời vàng
Ðƣờng lầy
Ô Sào Thiền sƣ
Năm con lừa
Hành động bất khả tƣ nghì của một bậc đã tu chứng
Phần 02
Cụ già tu mƣớn
Lạy Phật cầu chồng
Khang Hy tìm Phổ Hiền
Phật ở đâu?
Ðức Phật và Chiến Già
Phần 03
Chàng nhạc sĩ và ông vua Trời
Phật tích Chùa Hƣơng
Hai thằng đệ tử
Không ham sắc, đƣợc quyền cao
Ngƣời yêu muôn thuở
Phần 04
Con thằn lằn chọn nghiệp
Ánh mắt từ bi
La Hán mù
Bảy nàng công chúa
Một Ðạo Sĩ Chí Hiếu
Phần 05
Bất diệt trong sanh diệt
Bảy bƣớc thăng trầm
Chim Cú Mèo
Phất Già Sa Vƣơng với pháp vô thƣờng
Oán thù vay trả
Phần 06
Ðáng mặt cao tăng
9
Sƣ đệ
Lòng từ bi còn kém
Có khi gƣơng vỡ lại lành hơn xƣa
Thiền trong mọi phút
Phần 07
Kiếp luân hồi
Bát nê hồ
Phá táo đọa
Ryonen
Một lễ trai tăng lạ thƣờng
Phần 08
Vậy sao???
Vết thƣơng nặng nhất
Phục hổ thu đồ đệ
Đóa hoa vƣơng quốc
Pháp sƣ tàu hũ
Ảo ảnh
---o0o--Tập 1
Phần 01
Một người nghèo lạ
Chàng nghèo thật hết chỗ nói, cả sự nghiệp của chàng chỉ có một bà
mẹ già mà thôi.
Lâu lắm ngƣời ta mới biếu cho chàng một cái búa để đề ơn cứu sống một em
bé chết đuối.
Ðƣợc búa, chàng đƣa mẹ vào núi, tìm một hang đá, chàng lót rơm êm và có
gió mát để mẹ ăn ở; nhƣ thế chàng an tâm lắm. Ngày ngày đi kiếm củi rồi về
chợ đổi gạo, mặc dù ít tiền, chàng vẫn mua đƣợc thịt để mẹ xơi. Tu Lại tên
chàng chẳng những lan rộng với chữ hiếu, mà ngƣời ta còn gọi chàng là
tráng sĩ, vì chàng thƣờng giúp đỡ nhân dân trong vùng ấy, bất luận gặp
một tai nạn gì chàng thƣờng giúp đỡ họ tận lực.
10
Vì chàng ở núi, nên ngƣời ta đặt chàng những món tiền lớn để bắt các thú
rừng hiền lành nhƣ: nai, khỉ, chồn, thỏ v.v… Tu Lại từ chối vì chàng là một
Phật-tử chơn-chánh, không bao giờ giết một sinh vật nào dù nhỏ. Chẳng
những chàng không bắt chúng mà còn yêu mến chúng nữa, nên lâu ngày
chúng quen và thƣờng gần đến chỗ hai mẹ con chàng ở. Cái hang ấy bao giờ
thành vui, hoa lạ nở hai bên, những tổ chim làm gần gũi đó.
Có những đêm trăng sáng mẹ chàng mẹ Phật, chàng ngồi bên kết mấy thứ cỏ
khô thành áo để mặc mùa đông.
Nhƣng đã sáu ngày nay, trời mƣa luôn không ngớt, gạo trong hang đã hầu
cạn, chàng lo ngại, nếu mƣa cứ kéo dài. Hôm nay trời bừng sáng, Tu Lại
sung sƣớng quá, chàng chào mẹ rồi vác búa ra đi, đến chỗ thƣờng đốn củi,
thì xa xa có bóng ba thiếu nữ. Thấy có ngƣời, ba bóng kia bỏ đi nơi khác.
Chàng để bầu nƣớc xuống và sửa soạn vào việc thì ồ thật, một chiếc kim
thoa óng ánh “nằm ngã nghiêng bên tảng đá, không còn nghi vì nữa, chàng
vội nhặt lấy, rồi chạy theo ba thiếu nữ kia trả lại cho họ, ngƣời ta nhìn chàng
với cặp mắt cảm trọng. Nhƣng ngƣời tráng sĩ không trả ân bằng tiền gạo
đƣợc, vì ngƣời ta biết tiếng chàng nhiều lắm. Nhƣng, từ độ ấy về sau, nơi
hang mẹ chàng thỉnh thoảng có ngƣời đem biếu gạo trắng thịt ngon, trong
lúc chàng đi làm củi vắng, cứ thế, rồi một ngày kia…
Một sáng mai khi chàng còn mơ màng chƣa tỉnh hẳn thì có một nàng tiên
đến ngồi bên chàng, nàng tiên ấy trên trời sa xuống lâu hay mau không biết,
hồi nào không hay, nhƣng nàng là tiên thật, vì nàng đẹp quá. Một tấm
“voan” màu nƣớc biển phủ nhẹ toàn thân, trên mái tóc xanh là một tràng hoa
tƣơi. Chàng phải gƣợng với bộ áo sơ sài của mình. Tu Lại lại ngồi phắt dậy:
“Nàng là ai? Sao lại đến đây?”
Thiếp là sƣơng phụ đánh rơi chiếc kim thoa hôm nọ, đƣợc tráng sĩ cho lại,
về nhà thiếp suy nghĩ: “Ở đời giàu sang không phải chơn hạnh phúc, đƣợc
gần bậc hiền nhân mới chắc chắn sống một lối sống của con ngƣời biết sống!
Tiếng nay giàu có, của cải dƣ dật, cha mẹ không, chồng chết, chỉ có hai con
thơ, nay thiếp đến đây nguyện theo chàng, mong chàng đừng phụ, thiếp xin
thay chàng hầu hạ mẹ già, và giúp chàng học hành để thành danh đức, hầu
sau làm lợi ích cho đời, nếu chàng cố chấp không nghe, thiếp rất tiếc tài ba
đức độ của chàng vùi sâu trong hang thẳm”.
11
Tiếng nàng trong và êm quá, trong nhƣ tiếng suối chảy, êm nhƣ tiếng chim
kêu, nàng nói với một vẻ thiết tha thành thật. Câu chuyện mới cắc cớ làm
sao, mỗi lời nói của nàng nhƣ rót vào tai tráng sĩ.
Tu Lại mơ màng nhƣ ngƣời trong mộng. Chàng suy nghĩ: “Không biết ta
chiêm bao hay thật, mà nàng là ngƣời thật hay ma”. Bỗng chàng nghiêm nét
mặt và bảo: “Tôi xem nàng là ngƣời đoan chính lại giàu sang là do phƣớc
báu của đời trƣớc đã gây tốt nhiều, còn tôi chỉ là một kẻ nghèo khổ, làm sao
xứng đáng với nàng và, theo tôi, một ngƣời sƣơng phụ cần phải thờ chồng,
nuôi con, dạy vẽ cho con nên ngƣời, xứng với ý nghiã con ngƣời mới phải.
Thiết thật hơn, tôi nay còn mẹ già, nếu tôi lập gia đình, tình yêu mẹ sẽ san
sớt, nàng còn có con thơ, nếu nàng lập gia đình tình yêu con sẽ không còn
nguyên vẹn, mẹ tôi cần có tôi mới vui, con nàng cần có nàng mới sống. Vì
vậy tôi khuyên nàng trở về nuôi con và dứt bỏ câu chuyện này. Còn nàng sợ
đức độ tài ba của tôi sẽ mai một, nếu tôi quả có đức độ nhƣ nàng tặng, thì
trong rừng sâu các loài cầm thú cũng cần có đức độ để che chở cho chúng,
nhƣ thế có đức độ thì ở đâu mà lại không dùng đƣợc?
Nàng tiên ấy bay đi, trời đƣơng sáng bổng tối hẳn, ngƣời tráng sĩ cũng thấy
nao nao trong lòng, nhƣng rồi chàng lại vui lên nhiều, vì chàng đã chiến
thắng. Song không hiểu vì sao, những chuyện kỳ lạ lại hay đến với ngƣời
nghèo lạ ấy.
Một hôm, có một ngƣời lạ mặt hốt hoảng chạy đến lôi ra một thoi vàng
thắm, rồi thƣa với Tu Lại: “Thƣa tráng sĩ, tôi xin biếu chút quà mọn nầy,
nhờ tráng sĩ giúp cho tôi một lời nói. Ngày mai đây, nếu có ai hỏi: Có một
đoàn ngƣời đi qua đây không? Thì tráng sĩ nói cho một tiếng “có”, ở đây chỉ
có tráng sĩ và tôi, ngoài ra không còn ai hay chuyện này cả; vả lại tráng sĩ
chỉ nói cho một tiếng cũng không sao.”. Nói xong , ngƣời bỏ vàng lại đó, rồi
chạy mất, Tu Lại chƣa kịp suy nghĩ gì cả, nhƣng chàng vội lƣợm vàng rồi
chạy theo thật nhanh mới kịp. Tu Lại kéo tay ngƣời kia: “Không, không,
vàng ông hãy cầm lấy, tôi không thể theo lời ông đƣợc, tôi là một ngƣời Phật
tử không bao giờ làm việc ám muội, một lời nói của ngƣời quân tử trọng hơn
nghìn vàng, nhƣng một lời nói còn trọng hơn cả thân mạng, nếu ông đem
nghìn vàng hay dùng uy thế để hại mạng tôi, bảo tôi nói dối, thà chết chứ
không bao giờ phạm giới cấm của Phật”, nói xong Tu Lại bỏ vàng rồi chạy
thẳng.
Tiếng tốt của ngƣời tráng sĩ bay xa nhƣ ngọn gió mát vô tình thổi từ rừng
sâu vào đến thâm cung. A Dục Vƣơng là ngƣời hiếu kỳ, muốn thử chàng,
12
nên những chuyện bỏ rơi và ngƣời cơn gái đến tận hang chàng chính là cung
nhơn của vua A Dục Vƣơng. Sau mấy lần thử thách, nhà vua biết Tu Lại là
bậc hiền nhân nên đem lòng đố kỵ sai ngƣời đến hại chàng. “Tôi vâng lệnh
nhà vua đến giết tráng sĩ” ngƣời đao phủ cầm gƣơm sáng bảo thế.
- Ồ, thế thì tốt quá, tôi rất cám ơn Ngài đã vì tôi mà hủy giùm cái thân ô uế
đầy tội lỗi này. Song tôi còn chút mẹ già nhờ ngài chiếu cố cho… Tên đao
phủ ngạc nhiên trƣớc thái độ thản nhiên củaTu Lại.
- Ông là vô tội, nhà vua vì lòng đố kỵ sai tôi đến hại ông, vậy ông không
giận nhà vua sao?
- Không, tôi không giận mà còn thƣơng hại nhà vua đã gây nhiều nghiệp ác,
trƣớc khi chết tôi xin cầu Ðức Phật cho nhà vua phát Bồ Ðề tâm hồi hƣớng
thiện niệm.
Tên đao phủ mím môi, đỏ mặt đƣa gƣơm lên cao dán xuống đầu chàng…
nhƣng lƣỡi gƣơm kia xuống từ từ rồi chui thẳng vào vỏ kiếm…
Sáng hôm sau vua A Dục lên tận hang chàng ở, đến nơi, chàng đi làm củi
sớm, vua chờ trọn ngày mới gặp. Vua A Dục từ tốn bảo: “Trẩm làm vua,
trong nƣớc có hiền tài mà Trẩm biết chậm thật là đáng tiếc! Ngày nay nƣớc
nhà loạn lạc Trẫm mong tráng sĩ về triều cùng Trẫm chăm lo việc nƣớc,
đƣợc vậy thật là hạnh cho nhân dân”. Chàng từ chối năm bảy dạo, vua nài nỉ
đôi ba phen, cuối cùng chàng hẹn trong bảy ngày sẽ trả lời.
Trong bảy ngày, ba lần vua đến thăm ba lần vua cho ngƣời lên thăm hỏi. Tu
Lại hỏi ý kiến mẹ, mẹ chàng bảo:
“Hiện nay mẹ trong nƣớc, nhà vua thì lãng mạn, hoang hung, hà khắc dân
tình, nhân dân oán thán đến nổi họ đặt tên nhà vua là Chiên Ðà La A Dục
(ông vua hung tợn nhƣ ngƣời hàng thịt). Triều đình nịnh thần ô lại; ngoài thì
vua hung tàn, con ngỗ nghịch, vợ bất chánh, chồng bất lƣơng… đạo đức hầu
nhƣ mất hẳn tất cả tâm niệm xấu xa độc ác kết hợp lại do đó giặc cƣớp nổi
lung tung. Con nay chấp kinh cũng phải tùng quyền, vậy nhân cơ hội này
con có dịp đem giáo lý của Ðức Phật để cảm hóa quần sanh hầu mong cứu
vãn nhân tâm, đƣa lại sự an ninh cho nhân loại”.
Vâng lời mẹ Tu Lại về triều, vua A Dục lấy hai chữ Quốc Bửu (vật quí của
nƣớc) tặng chàng làm tên.
13
Trƣớc hết Quốc Bửu đem ba pháp quy y, năm điều cấm giới cảm hóa vua.
Vua A Dục từ khi biết quy đầu về Phật không bao lâu trở thành một vị minh
quân. Ông đổi hẳn chính sách, lấy đức độ trị dân, không dùng oai thế tàn bạo
nhƣ trƣớc nữa. Vì thế mà nhân dân trong nƣớc trở lại cảm phục vua, từ đó
đặt tên vua là Thích Ca A Dục (ông vua hay làm đìều nhân từ).
Trong nƣớc nhà vua trọng những ngƣời hiền hiếu, trừng trị kẻ hoang dâm,
cấm hẳn sự xa hoa cờ bạc, săn bắn, triệt để không rựợu chè đàng điếm,
ngƣời già cả bệnh hoạn đƣợc săn sóc chu đáo, nhà nhà đều thờ Phật, trọng
Tăng tu Pháp “Thập thiện”*. Nếu ai phạm một trong năm đìều răn phải bị
trục xuất ra khỏi nƣớc. Nhờ vậy, không bao lâu trong nƣớc trở lại thái bình
an lạc.
Thuật giả: Thể Quán
*Thập thiện: Mƣời điều lành. Thân không giết hại, không trộm cƣớp, không
tà dâm. Miệng không nói dối, không nói thêu dệt, không nói hai lƣỡi, không
nói độc ác. Ý không tham lam, không giận dữ và không si mê.
“Thắng lợi chân chánh là ở Phật-giáo chứ không phải vũ khí”
A Dục.
---o0o--Hại người trở lại hại mình
Thuở xƣa, trong hàng Bà La Môn có một ngƣời dâm phụ đƣơng lúc
tuổi còn xuân xanh, sắc duyên đằm thắm, mà trong lòng đã mang một khối
tình rất lai láng. Mặc dầu nàng đã có chồng, nhƣng thƣờng có tính lẳng lơ, vì
thế hằng ngày mơ tƣởng việc ngoại tình. Tuy cái ý tƣởng của nàng muốn
nhƣ vậy, nhƣng ngặt trong nhà còn mẹ chồng, nên nàng còn kiêng nể và phải
đè nén lòng dục vọng của mình.
Một hôm nàng bèn nghĩ ra một mƣu kế rất hiểm độc, bề ngoài thì nàng
thƣờng giả mƣợn điều hiếu thảo mà đối với mẹ chồng, nên hằng ngày
thƣờng lo sắm những thức ăn ngon vật lạ cho bà ăn uống, nhƣng trong lòng
chờ cơ hội để hại bà.
Ngƣời chồng của nàng thấy vậy, thì có ý mừng thầm mà nghĩ rằng: “Ngày
nay mẹ ta đã tuổi cao sức yếu, mà lại may mắn gặp đƣợc một ngƣời vợ hiền,
14
biết lo hết bổn phận làm dâu mà chăm sóc mẹ ta đƣợc ăn no ngủ khẻo trong
khi đầu bạc da nhăn nhƣ vậy, thật là một điều hết sức vui mừng.”
Ngƣời dâm phụ biết chồng đã lầm kế của mình rồi, bèn thừa cơ nói với
chồng rằng: “Thƣa chàng! Tuy thiếp đã hết lòng nuôi dƣỡng mẹ nhƣ thế,
nhƣng sự ấy chẳng qua là điếu ở thế gian mà thôi, nên sự hiếu dƣỡng cũng
chƣa lấy gì đáng gọi là mỹ mãn cho lắm!
Vậy chàng cũng nên tìm một phƣơng pháp chi khác, đặng hóa sanh độ tử
cho mẹ đƣợc siêu thoát linh hồn và đƣợc vãng sanh về cõi Trời mà hƣởng
những hạnh phúc thần tiên, thì chúng ta mới trọn đạo làm con; chớ những
vật chất ở đời này cũng chỉ là giả dối trong lúc còn sống mà thôi!”
Ngƣời chồng nghe vợ nói những lời tha thiết nhƣ thế, liền đáp rằng: “Nếu
chúng ta muốn cho mẹ đƣợc mau siêu thăng lên cõi Trời, thì chỉ một pháp
của đạo Bà La Môn, là phải dùng hầm chất củi mà đốt mẹ. Nhƣng ta không
nở làm nhƣ vậy.”
Ngƣời dâm phụ nghe chồng đáp thì biết đã trúng kế của mình nên nói thêm
rằng: “Phải lắm! Trong đạo hạnh của mình đã có pháp giải thoát siêu thăng
nhƣ vậy thì chúng ta cũng nên thi hành liền, đặng cho mẹ đƣợc lên chốn
thiên đƣờng hƣởng lộc Trời, mà chúng ta cũng đền đáp đƣợc ân sanh thành
nữa”.
Nghe qua mấy lời của vợ, ngƣời chồng liền tin, chớ chẳng ngờ vợ xúi đốc
làm nhƣ thế là có ý quyết hại mẹ mình, nên chàng ra ngoài đồng ruộng đào
một cái hầm rất lớn mà lại thật sâu, và chở củi đem chất dƣới hầm, rồi đốt
lửa hừng lên đỏ lòm.
Ðoạn chàng lại lập một tiệc ở gần cái hầm, rồi trở về nhà dẫn mẹ ra đó đứng
làm chủ tiệc và mời cả thảy những bà con tân khách cùng các chúng Bà La
Môn đến dự và uống rƣợu nghe đờn.
Sau khi yến tiệc vừa xong, các tân khách đều lui về nhà, hai vợ chồng ngƣời
dâm phụ bèn dẫn mẹ ra mé hầm xem, rồi thình lình xô mẹ xuống hầm.
Ngƣời vợ tƣởng chắc rằng xác thịt của mẹ chồng đã tiêu ra tro rồi, còn ngƣời
chồng lại tin rằng mẹ mình đã tiêu diêu tự tại nơi cõi Trời, nên dắt nhau trở
về nhà.
15
Ngờ đâu trong hầm ấy lại có một khoảng trống không có lửa, khiến bà sa
vào đó mà chẳng có điều gì hại đến tánh mạng, nên bà có thể tìm đƣờng chui
ra đƣợc.
Khi bà ra khỏi chốn hiểm nguy rồi, thì trời đã về khuya, bốn bề tĩnh mịch, bà
lần mò theo đƣờng cũ trở về nhà. Nhƣng vì đƣờng xa và trời lại tối đen nhƣ
mực nên bà mới gắng leo lên một nhành cây to và rậm để ẩn thân.
Trong khi bà ngồi trên cây, bổng đâu có một lũ ăn trộm vừa đến nghĩ tại
dƣới gốc. Bà liền tằng hắn một tiếng lớn, bọn trộm hoảng kinh lật đật bỏ
chạy tứ tán, để lại những đồ của chúng nó đã lấy của ngƣời.
Ðến khi trời vừa tảng sáng, bà liền leo xuống, thì thấy những đồ châu báu và
bạc tiền đầy dƣới gốc nên bà lựa nhũng món quý giá nhƣ: vàng, bạc, ngọc,
ngà, xuyến, bông tai…rồi lần lƣợt đem về nhà.
Con dâm phụ thấy mẹ chồng trở về, liền kinh hãi và tƣởng rằng bà đã hiện
hồn về nhà, nên nhắm mắt và lánh mặt cúi đầu, chẳng dám chào hỏi. Còn
chồng của nàng thì lại tƣởng mẹ của mình đã đƣợc siêu sanh nơi cõi Trời,
nay về thăm mình, nên lật đật chấp tay lại mẹ mà nói rằng: “Con nhờ vợ của
con khuyên bảo dùng phƣơng pháp “Hóa sanh độ tử, thoát kiếp siêu hồn”.
Nên nay mẹ đƣợc lên cõi Trời mà về thăm con, thì con rất vui mừng”.
Bà mẹ nghe con nói nhƣ vậy mới biết dâu mình đã muốn hại mình, nên bà
“nhân kế tựu kế”, nghĩa là bà dùng cái kế của ngƣời dâu đã hại bà đó mà trở
lại hại nó. Bà bèn nói lại rằng: “Mẹ nhờ hai vợ chồng con làm phép siêu
thăng cho mẹ, nên nay mẹ đƣợc giải thoát mà sanh về cõi Trời, hƣởng đƣợc
nhiều điều phƣớc báo. Hai vợ chồng con ăn ở nhƣ vậy mới đƣợc trọn phần
hiếu thảo”.
Bà lại day qua mặt ngƣời dâu, và đƣa mấy món báu cầm nơi tay mà nói
rằng: “Những món: ngọc, bông tay, vòng, vàng, xuyến nầy là vật của ông bà
con cậy mẹ đem về cho con. Nhƣng vì mẹ chân yếu gối đùn, thân gầy sức
mỏng, nên xách đem về chẳng đặng nhiều. Vả lại mấy ngƣời ấy nhắn với mẹ
bảo con cũng làm phép siêu thăng nhƣ con đã làm mẹ vậy, đặng con lên
Thiên đƣờng mà lãnh lấy những đồ châu báu ấy còn rất nhiều”.
Ngƣời dâm phụ nghe mẹ chồng mình nói nhƣ vậy, tƣởng là sự thật, nên vui
mừng mà nói với chồng rằng: “Ngày nay mẹ có duyên sa xuống hầm lửa mà
đƣợc lên cõi Trời hƣởng những vật lạ của báu; nhƣng tiếc vì thân mẹ già
yếu, nên chẳng đem hết của cải về đƣợc. Vậy nếu chàng bằng lòng cho phép
16
thiếp làm phép siêu thăng nhƣ mẹ vậy, thì chắc thiếp đem tất cả những đồ
châu báu ấy về hết, khi ấy chúng ta sẽ trở thành đại phú gia, mặc sức cùng
nhau hƣởng sự sung sƣớng!”
Ngƣời chồng nghe vợ tỏ ý nhƣ thế, thì cũng vui vẻ bằng lòng, liền đào một
cái hầm làm y theo cách đã thiêu mẹ mình ngày trƣớc.
Nhƣng than ôi! Khi hầm lửa vừa sắp đặt xong, con dâm phụ kia liền gieo
mình xuống, của cải châu báu đâu chẳng thấy trái lại phải bị ngọn lửa thiêu
đốt nóng không thể tƣởng tƣợng và kết quả tội lỗi tiêu tan thành tro bụi. Thật
là một quả báo rùng rợn đáng làm gƣơng cho những nàng dâu bất hiếu với
mẹ chồng.
Trích sách: Gƣơng nhân quả
Hại ngƣời sẽ bị ngƣời hại,
Oán ngƣời sẽ bị ngƣời oán,
Mắng ngƣời sẽ bị ngƣời mắng,
Ðánh ngƣời sẽ bị ngƣời đánh.
---o0o--Bố thí bất nghịch ý
Thuở xƣa, có một nƣớc hiệu là Diệp Ba, vua tên là Thi Tí, lấy phép
chơn chánh trị vì, chẳng hề làm tổn lê dân. Vua có 4.000 quan thƣợng thơ,
500 thớt voi bạch, cai quản 60 tiểu bang và 800 thôn xã. Vua tuy có hai
muôn vƣơng phi mỹ nữ, song không có bà nào có con. Ngài khẩn cầu chƣ
Thánh chúng, Thần núi, Thần nƣớc.
May thay! Một bà bỗng có thai.
Thiên tử bổn thân săn sóc chánh cung rất chu đáo. Ngài lại ra lệnh lo nào
nệm thúy gối loan cho bà an nghỉ, nào món ăn cho mỹ vị, thức uống cho tinh
khiết đặng bà dùng. Sau chín tháng đến ngày mãn nguyệt khai hoa, bà sanh
đặng một hoàng nam đặt tên là Tu Ðại Noa. Hay tin này, cả thảy quý phi
trong cung điện đều hớn hở vui mừng.
Thời gian qua, Thái tử Tu Ðại Noa đã đƣợc 16 tuổi. Ngoài văn võ kiêm toàn,
lại thêm lễ nhạc cung đàn cũng là tột chúng. Ngài phụng kính Hoàng-phụ và
17
Mẫu-hậu chẳng khác chi nhƣ thánh. Vua cha lại dựng riêng cho Hoàng-tử
một đài các nguy nga rực rỡ. Tuy trẻ tuổi, song Ðông cung lại quý sự phƣớc
thiện, bố thí cho nhân loại, thƣợng cầm hạ thú. Ý Ngài chỉ muốn cho tất cả
chúng sanh đƣợc an vui tự tại.
Khi đến tuổi trƣởng thành, vua cha đính hôn cho Ngài với nàng Mạn Trà,
con một vị Thiên tử. Công chúa sắc đẹp tuyệt trần và đức hạnh không ai
sánh kịp.
Ngày tháng qua, vợ Ðông cung sinh đƣợc một trai, gái. Thuở ấy Hoàng tử
nhớ pháp bố thí Ba La Mật. Ngài xin phép vua cha dạo chơi và xem cảnh
vật, Ngài thấy những ngƣời nghèo, đui, điếc, câm, đi dọc đƣờng, trong lòng
ƣu ái, không hân hoan chút nào. Vua cha hỏi, Ðông cung nói: “Tâu Hoàng
phụ, con ra thành thấy ngƣời nghèo, điếc, đui, câm; con động mối từ tâm,
xót lòng trắc ẩn. Con muốn tâu Hoàng phụ biết ý muốn của con, song con
còn ngần ngại e Hoàng phụ không nhận lời”.
Hoàng thƣợng nói: “Con muốn điều gì, cha cũng hoan hỷ ban cho nhƣ ý”.
Ðông cung nói: “Con muốn lấy tất cả trong kho tàng của Hoàng phụ, đem bố
thí cho mọi ngƣời, bất luận ai xin vật chi thì con cho vật ấy”, Hoàng phụ
đáp: “Hay thay con cứ thi hành theo bổn nguyện, cha không cấm cản”.
Ðông cung xin các quan hầu cận đem đồ châu báu ra bày biện nơi bốn cửa
thành và ngoài chợ đặng bố thí cho tất cả nhân loại. Tám phƣơng trời đất
đều hay việc lành của Hoàng tử. Bốn hƣớng xa xôi ngàn dặm, đua nhau lặn
suối trèo non, đến chịu thọ thí. Ngƣời đói rách, Hoàng tử cho ăn mặc, kẻ xin
bạc vàng châu báu, Hoàng tử lại cấp cho, ai ai cũng đƣợc lòng hả dạ.
Thời ấy có một ông vua nghịch sanh lòng nham hiểm, hay tin Hoàng tử bố
thí bất luận là ai cùng vật gì, mới hội các đình thần và các vị Bà La Môn
trong nƣớc bàn bạc rằng: “Ta nghe vua nƣớc Diệp Ba có một thớt tƣợng
bạch, tên là Tu Ðàn Diên chạy bay đƣợc trên liên hoa. Voi ấy đã dõng mãnh
lại mạo hiểm trong việc chiến tranh, trăm trận trăm thắng, chả biết chƣ
khanh có ai chịu đi xin voi ấy chăng?”. Các quan văn võ lắc đầu trƣơng mắt
nhìn nhau; song trong hàng Bà La Môn có tám ông tâu rằng: “Chúng tôi
nguyện làm nhƣ ý, cúi xin Hoàng thƣợng ban cho chúng tôi ít đồ hành lý”.
Vua dạy cấp đồ đi đƣờng và nói rằng: “Ta rất tin cậy các ngƣơi, nếu các
ngƣơi xin đƣợc voi ấy, ta sẽ trọng thƣởng”.
Tám ông Bà La Môn tay cầm tích trƣợng lên đƣờng, khi lên thác khi xuống
ghềnh, lần hồi đã tới nƣớc Diệp Ba. Chúng hỏi thăm đến trƣớc cửa đền
18
Hoàng tử, thảy đều chống gậy kim cƣơng, chân đứng chân treo, day mặt vô
cửa. Ngƣời giữ cửa vào báo cho Ðông cung, Ngài liền ra thi lễ một cách tôn
trọng, chẳng khác chi nghĩa cha con. Ðoạn thái tử hỏi: “Bạch quý Ngài, quý
Ngài ở đâu đến đây? Ði đƣờng sá xa xôi có cực khổ chăng? Cảm phiền quý
Ngài cho tôi biết có việc chi quan hệ mà phải chịu nhọc nhằn treo chân nhƣ
thế này?”. Tám vị Bà La Môn đáp: “Thƣa Hoàng tử Ðông cung, chúng tôi
mạn nghe Ðông cung mở đƣờng phƣớc thiện, bố thí bất luận là ai cùng bất
cứ của cải gì, nên danh thơm của Ngài truyền khắp tám phƣơng, công đức
của Ngài quả thật vô lƣợng vô biên, xa gần đều chúc tụng, không còn một ai
không biết. Chúng bần đạo lấy đó tin chắc chắn nhƣ lời. Thƣa Hoàng tử
Ðông cung, thật Ngài là con cõi thƣợng thiên, thế thì lời nói Ngài còn hơn
kim thạch. Vậy nếu Ngài thành tâm bố thí, chúng bần đạo xin Ngài hoan hỷ
cho chúng tôi bạch tƣợng bay trên liên hoa”.
Ðông cung liền đến chuồng ngựa dắt ra một con voi bạch song các vị Bà La
Môn lại nói: “Thƣa Hoàng tử Ðông cung, không phải thớt voi này, chúng tôi
xin đây là xin bạch tƣợng chạy đƣợc trên hoa sen, tên nó là Tu Ðà Diên”.
Hoàng tử đáp: “Cha tôi thƣơng mến voi ấy lắm, chẳng khác chi tôi, tôi
không thể tự quyền cho các Ngài. Nếu tôi cho thì cha tôi hết thƣơng tƣởng
tôi, lại còn đuổi tôi ra khỏi nƣớc nữa”. Nhƣng Ðông cung lại nghĩ rằng:
“Trƣớc kia ta đã lập trọng nguyện Bố Thí Bất Nghịch Ý, nếu ta từ chối thì ta
tự bác đại nguyện của ta, ta nên cho voi ấy mới có thể đạt đƣợc pháp Ba La
Mật”. Ðông cung không còn ngần ngại nói: “Bạch quý Ngài, tôi không dám
làm quý Ngài bận lòng vì một sự nhỏ nhen đó” Hoàng tử dạy tùy tùng thắng
bành vàng và dắt tƣợng ra tức tốc. tay trái Ngài bƣng nƣớc rửa tay cho các vị
Bà La Môn, tay mặt dắt voi trao cho quý khách. Vừa đƣợc voi bạch, tám ông
Bà La Môn liền ca tụng “Bồ đề tâm” và cảm tạ Ðông cung, lộ vẻ hân hoan,
và vội vã lên đƣờng. Ðông cung lại còn nói vói: “Xin quý Ngài hãy đi cho
chóng, kẻ Hoàng phụ tôi biết lại cho ngƣời theo bắt voi”. Trong nháy mắt,
tám ông Bà La Môn biệt dạng.
Vừa nghe Hoàng tử cho kẻ nghịch tƣợng báu, các quan văn võ đều sững sốt,
lo sợ rằng: “Nƣớc ta nhờ có voi ấy mà dẹp nạn can qua”.Quần thần liền vào
tâu với vua: “Muôn tâu bệ hạ, Ðông cung đã đem voi báu mà cho kẻ thù nhà,
Bệ hạ dựng nên bờ cõi cũng nhờ có voi ấy oai phong lẫm liệt, một mình có
thể chống cự 60 thớt voi khác nhƣ chơi; nay Ðông cung lại cho kẻ nghịch,
chúng hạ thần cho đó là điềm mất nƣớc. Chúng tôi tâm hồn rối loạn, cúi xin
Hoàng thƣợng định đoạt. Bố thí bất nghịch ý của Ðông cung theo thiên kiến
của chúng tôi thì chẳng kíp thì chầy, Hoàng tử chẳng những vét sạch cả của
19
cải trong kho tàng mà thôi, lại chúng tôi sợ e Ngài còn cho cả nƣớc và vợ
con Ngài nữa”.
Vua nghe tâu không bằng lòng, liền cho đòi một vị Ðại thƣợng thơ đến hỏi:
“Khanh cho Trẫm biết có phải Thái tử bắt bạch tƣợng cho kẻ nghịch
chăng?”.
Muôn tâu Bệ hạ quả thật nhƣ lời.
Vua hội nghị tất cả đình thần để thẩm án Ðông cung. Một quan thƣợng thơ
tâu: “Kẻ nào vào chuồng tƣợng thì chặt chân, kẻ nào dắt tƣợng thì cắt tay, kẻ
nào thấy dắt tƣợng thì móc mắt”. Một quan thƣợng thơ khác lại tâu: “Xin
Hoàng thƣợng cho công án tử hình cho cả thảy thủ phạm và đồng lõa”. Thấy
quần thần phân vân và ý kiến không đồng, Vua lại thêm tha thiết và phán với
triều đình: “Con Trẫm chẳng những ham tu tuệ mà thôi, lại còn mộ đƣờng
phƣớc thiện. Ðối với mấy điều ấy Trẫm không thể ngăn cản, huống chi nay
Trẫm nỡ đành bắt buộc hành hình cùng hạ ngục”. Một vị Ðại Thƣợng thơ
bác bẻ ý kiến cả thảy triều đình, rồi quỳ xuống tâu: “Theo thiển kiến của tôi,
Ngài nên đuổi Thái tử ra khỏi nƣớc và đày ngƣời ở chốn lâm sơn 12 năm
hòng ngƣời ăn năn hối ngộ”.
Vua theo ý kiến ấy, dạy đòi Ðông cung vào hỏi: “Có phải ngƣơi bắt bạch
tƣợng cho kẻ nghịch chăng?”
- Muôn tâu Hoàng phụ, quả thật vậy.
Vua lại hỏi: “Sao ngƣơi lại dám bắt bạch tƣợng cho kẻ nghịch mà không
trình cho ta hay trƣớc ?”
- Thƣa Hoàng phụ, trƣớc kia Hoàng phụ cho phép con bố thí nhƣ ý mà
không ngăn cấm một việc chi. Bởi thế nên con không tâu lại với Hoàng phụ
việc con làm phƣớc.
Thánh Hoàng nói: “Lệnh ta ban thuộc về ngọc ngà châu báu, chớ không can
hệ với tƣợng bạch”.
Thái tử đáp: “Muôn tâu Hoàng phụ, các vật ấy đều là của cải của Hoàng phụ
tất cả, con không ngờ phải ngoại trừ tƣợng bạch”. Hoàng thƣợng phán:
“Ngƣơi phải tức tốc ra khỏi nƣớc này, ta đày ngƣơi tại núi Ðàn Ðặc 12 năm.
20