Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế...

Tài liệu Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế

.DOCX
57
447
110

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA LUẬT ---oOo--- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NIÊN KHÓA 2004 - 2008 Đề tài: TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ Giáo viên hướng dẫn: Th.s Bùi Thị Mỹ Hương GV: Bộ môn Kinh doanh thương mại Cần Thơ, 5/2008 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I.Văn bản quy phạm pháp luật: 1. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại. 2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. 3. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. 4. Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. 5. Công ước New York về việc công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài năm 1958. 6. Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế (UNCITRAL) năm 1976. II. Tài liệu nghiên cứu lý luận: 1. Những điều cần biết về tố tụng trọng tài; Luật sư. Phan Thông Anh; Tạp chí Dân chủ và pháp luật; NXB Bộ tư pháp; Số chuyên đề trọng tài thương mại quốc tế, 2005. 2. Quyền lựa chọn pháp luật áp dụng của các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực tư pháp quốc tế; ThS. Nguyễn Bá Chiến; Tạp chí Nhà nước và pháp luật; NXB Viện Nhà nước và pháp luật, Số 02, 2006. 3. Bài giảng Tư pháp quốc tế, Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ, 2002. 4. Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam với luật mẫu về trọng tài thương mại của UNCITRAL, TS. Trần Thái Dương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 01, 2004. 5. Tranh chấp thương mại xử bằng trọng tài: Tại sao không?, Th. Dương, Báo kinh tế và đô thị, 2007. 6. Trọng tài thương mại Việt Nam trong tiến trình đổi mới, Dương Văn Hậu, NXB Chính trị quốc gia, 1999. 7. Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế, Phan Huy Hồng, Báo Pháp luật Việt Nam, Chuyên đề số 02, 2007. 8. Thủ tục giải quyết các yêu cầu liên quan đến hoạt động của trọng tài thương mại Việt Nam, TS. Phan Chí Hiếu, Tạp chí Luật học, Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự, 2005. 9. Về những điểm mới của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, Nguyễn Hồng Tuyến, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2003. 10. Pháp lệnh Trọng tài thương mại – những thử thách phía trước, LS Trần Hữu Huỳnh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Số 04, 2003. 11. Trọng tài thương mại – Phương thức mới giải quyết hiệu quả các tranh chấp thương mại, Khắc Kiên, Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 2007. 12. Về thẩm quyền của Trọng tài thương mại và những lưu ý trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thoả thuận trọng tài, ThS. Nguyễn Thị Hằng Nga, Tạp chí Luật học, Số 7, 2006. 13. Những điểm khác biệt về pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam so với các nước trên thế giới, ThS. Nguyễn Đình Thơ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 09, 2006. 14. Một số ý kiến về Pháp lệnh trọng tài thương mại, Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 02, 2003. 15. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài thương mại, ThS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 03, 2006. 16. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài thương mại, ThS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Số 03, 2006. 17. Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam, TS. Nguyễn Trung Tín, NXB Tư pháp, 2005. LỜI CẢM ƠN! Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Bùi Thị Mỹ Hương, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này. Đồng thời, tôi muốn gửi lời ảm ơn đến quý thầy cô trong Khoa Luật đã tạo nền tảng kiến thức cho tôi trong suốt khóa học. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện Khoa Luật Trường Đại học Cần Thơ, Thư viện Thành phố Cần Thơ đã giúp tôi có được những tài liệu tham khảo có giá trị trong quá trình thực hiện đề tài. Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành gia đình và bạn bè - những người đã động vên, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn! Cần Thơ, tháng 5 năm 2008 Sinh viên thực hiện Trương Văn Mạnh LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại quốc tế, quan hệ thương mại quốc tế ngày càng mở rộng, khả năng phát sinh tranh chấp càng lớn, không chỉ các dịch vụ pháp lý mà cả Nhà nước cũng phải bước vào những vấn đề pháp lý không quen thuộc. Việc giải quyết tốt những tranh chấp phát sinh là một trong những yếu tố thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và hội nhập, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh an toàn, bình đẳng, tạo tâm lý tốt cho các nhà kinh doanh và đầu tư. Thế nhưng, một dịch vụ pháp lý quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế là trọng tài thương mại vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu hội nhập nói trên. Hiện nay, vấn đề trọng tài thương mại nhất là trong lĩnh vực tư pháp quốc tế đang thiếu trầm trọng cả lượng và chất. Vấn đề cần đặt ra hiện nay là hoàn thiện hệ thống pháp lý của Việt Nam về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước1. Ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh, việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế thương mại bằng trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến. Với chủ trương phát triển kinh tế và hội nhập, yêu cầu đổi mới toàn diện và sâu sắc các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, trong đó có hình thức trọng tài, là vấn đề cấp bách. Tuy nhiên, nhìn chung, cho đến nay, các văn bản pháp luật hiện hành chưa thật sự tạo nên một khung pháp lý đầy đủ, thông thoáng và phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật trọng tài thương mại quốc tế. Đồng thời, các văn bản bản này còn chứa nhiều bất cập so với thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế được điều chỉnh chủ yếu bởi Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11, và một số văn bản khác có liên quan như: Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại, Bộ luật tố tụng dân sự 2004,… Có thể nói, Pháp lệnh về trọng tài thương mại đã được ban hành hơn bốn năm, đã trở nên lỗi thời không còn phù hợp với tình hình mới của đất nước. Một mặt, các quy định về trong tài thương mại trong tư pháp quốc tế chưa được quy định thành một luật riêng, các quy định còn tản mạn ở các văn bản pháp luật khác nhau nên không thống nhất; mặt khác, các quy định giữa pháp luật Việt Nam và quốc tế về trọng Giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế, Phan Huy Hồng, Báo Pháp luật Việt Nam, Chuyên đề số 02, 2007. tài thương mại còn nhiều vấn đề chưa tương thích, đã gây khó khăn cho hoạt động của trọng tài khi tham gia giải quyết các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Nhìn chung, pháp luật về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế hiện nay còn nhiều bất cập và trở thành rào cản đối với hoạt động của trọng tài. Do đó, việc nghiên cứu và phân tích những vướng mắc về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế là một vấn đề cấp bách nhằm góp phần tìm ra giải pháp cho vấn đề này. Đó chính là lí do người viết chọn nội dung này làm trọng tâm nghiên cứu của đề tài khóa luận: “Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế”. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu nhằm tìm hiểu một cách tổng quát các quy định hiện hành của Việt Nam về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế, đồng thời phân tích những điểm còn vướng mắc trong các quy định đó. Qua đề tài này, người viết hy vọng góp phần nhỏ trong việc tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề này từ việc phân tích các vấn đề tồn tại trong các quy định của pháp luật Việt Nam. 3. Nội dung nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản bao gồm những nội dung cụ thể sau: Lời nói đầu Chương 1: Tổng quan về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. Chương 2: Một số vấn đề về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế theo pháp luật Việt Nam. Chương 3: Một số vướng mắc trong quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. Kết luận. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, người viết vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích luật viết, so sánh, tổng hợp khi xem xét những mặt còn hạn chế của pháp luật Việt Nam so với các quy định của quốc tế về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. 5. Phạm vi nghiên cứu Do hạn chế về kiến thức pháp luật, nguồn tài liệu thực tiễn về các lĩnh vực liên quan cũng như trong khuôn khổ của đề tài khóa luận nên người viết chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản mang tính chất gợi mở cũng như những hạn chế trong các quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. Do đó, sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận đượ sự phê bình góp ý của quý thầy cô, các bạn sinh viên và những người quan tâm đến đề tài, để tôi rút kinh nghiệm và hiểu rõ hơn về vấn đề này. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ 1.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1. Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế Trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế khác với trọng tài thương mại quốc gia. Trọng tài thương mại của quốc gia được thành lập theo pháp luật quốc gia đó nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp trong phạm vi quốc gia. Trong khi đó, trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế là trọng tài do các bên lựa chọn hoặc thành lập nhằm giải quyết một tranh chấp nhất định nào đó trong thương mại quốc tế. Tranh chấp này có thể có một bên hoặc các bên là người nước ngoài; hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan ở nước ngoài. Các bên trong quan hệ phát sinh tranh chấp có thể thỏa thuận chọn trọng tài của quốc gia mà một trong các bên mang quốc tịch hoặc của quốc gia thứ ba để giải quyết. Theo pháp luật Việt Nam, việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài được quy định như sau: Vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài theo thoả thuận của các bên, có thể giải quyết tại Hội đồng Trọng tài do Trung tâm Trọng tài tổ chức hoặc tại Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập theo quy định của Pháp lệnh trọng tài. 1.1.1.2. Thỏa thuận trọng tài Về lý thuyết, thuật ngữ thỏa thuận trọng tài có thể đề cập tới hai loại thỏa thuận là: điều khoản trọng tài, có trong hợp đồng ký kết giữa các bên; và thỏa thuận trọng tài, các bên có thể lập vào thời điểm tranh chấp phát sinh và trong trường hợp các bên không quy định điều khoản trọng tài trong hợp đồng. Theo khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại: “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại” 2. Trong khi đó, ở những nước theo luật châu Âu lục địa, cả hai khái niệm trên đều được định nghĩa rõ ràng. Ví dụ: Ở Pháp, điều khoản trọng tài được gọi là “la clause compromissoire” trong khi thoả thuận trọng tài thì gọi là “le compromis d'arbitrage”. Khoản 2, Điều 2, Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 về trọng tài thương mại. Hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài đặc biệt quan trọng. Nhìn chung, các nguyên tắc pháp lý được áp dụng để xác định hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là những nguyên tắc được sử dụng trong việc xác định hiệu lực của một hợp đồng thương mại thông thường; bởi thực tế thỏa thuận trọng tài thường dưới dạng một điều khoản của hợp đồng thương mại. Điều khoản trọng tài thường được điều chỉnh bởi luật điều chỉnh những điều khoản còn lại của hợp đồng và hiệu lực của điều khoản trọng tài sẽ được xem xét theo luật đó. Tuy nhiên, có thể điều khoản trọng tài được điều chỉnh bởi một luật trong khi phần còn lại của hợp đồng được điều chỉnh bởi một luật khác. Thông thường, vấn đề về hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài được một trong các bên nêu ra vào một giai đoạn nào đó trong quá trình tố tụng trọng tài. Khi bắt đầu tố tụng trọng tài, một bên có thể tìm kiếm khước từ thỏa thuận trọng tài với lý do thỏa thuận đó không có hiệu lực. Bên bị tố tụng trọng tài chống lại sẽ là bên đưa ra khước từ. Sự khước từ có thể đưa ra chính ủy ban trọng tài hoặc một toà án có thẩm quyền xem xét quyết định. 1.1.2. Đặc điểm 1.1.2.1. Phát sinh khi có thỏa thuận Một điều khoản trọng tài soạn thảo không rõ ràng, hoặc không đầy đủ sẽ đi ngược lại sự mong đợi của các bên, những người phải nhờ đến trọng tài. Giống như tòa án quốc gia, trọng tài cũng là một phương thức tài phán giải quyết tranh chấp thương mại. Nhưng trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp riêng tư và bí mật, dựa trên thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”. Trừ một số ngoại lệ, các bên phải thỏa thuận trong hợp đồng là sử dụng phương thức này, và xác định chi tiết các quy tắc điều chỉnh tố tụng (chỉ định trọng tài viên, v.v...) hoặc dựa vào các quy tắc tố tụng trọng tài của một tổ chức trọng tài thường trực. Ngoài việc thỏa thuận giải quyết tranh chấp phát sinh bằng trọng tài, các bên còn có thể thỏa thuận về các vấn đề như: luật áp dụng, thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, ngôn ngữ dùng trong xét xử,… 1.1.2.2. Thủ tục giải quyết đơn giản Nhìn chung, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thủ tục giải quyết đơn giản, đảm bảo giải quyết nhanh chóng các tranh chấp, tiết kiệm thời gian của các bên. Tố tụng trọng tài được đánh giá là linh hoạt, đảm bảo tốt hơn quyền định đoạt của các bên trong vụ tranh chấp, cụ thể là: tự quyết định chọn hình thức trọng tài là ad-hoc hay thể chế, tổ chức trọng tài cũng như trọng tài viên mà mình tin tưởng, thời gian, địa điểm giải quyết,… Trong tố tụng trọng tài, các bên có thể tự do thay đổi thủ tục theo mong muốn và yêu cầu của mình trong giới hạn của luật áp dụng liên quan. Thông thường, ủy ban trọng tài sẽ phải tính đến mong muốn và nguyện vọng của các bên khi tiến hành tố tụng. Trong trọng tài quốc tế, tính độc lập của các bên được thể hiện rất rõ. Các bên tự do thiết lập thủ tục tố tụng bằng cách dẫn chiếu quy tắc tố tụng trọng tài sẵn có hoặc soạn thảo quy tắc của riêng họ. Các bên có thể chọn trọng tài viên, ấn định thời hạn hoặc để bên thứ ba ấn định thời hạn. Các bên tự do thỏa thuận về luật áp dụng cho nội dung và luật áp dụng cho thủ tục trọng tài. Các bên cũng tự do xác định ngôn ngữ dùng trong xét xử trọng tài và trong tài liệu đệ trình, phương pháp thu thập chứng cứ và lịch trình tố tụng. Tuỳ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên, cách tiến hành tố tụng trọng tài có thể khác hoặc không khác cách tiến hành tố tụng tại một toà án quốc gia. Có thể nhận thấy rằng, các quy tắc tố tụng trọng tài thường linh hoạt hơn và ít thủ tục hơn các quy tắc của pháp luật quốc gia. Hơn nữa, do phán quyết của trọng tài là chung thẩm và bên thua kiện không được chống án, vì trọng tài thương mại chỉ đứng ra xét xử khi cả hai bên đương sự chấp nhận và thành lập ra để xét xử 3. Việc chấp nhận và thành lập ra trọng tài thể hiện hai bên đương sự tự nguyện và tin tưởng vào sự công bằng của trọng tài thể hiện ở phán quyết của cơ quan xét xử này. Vì vậy, khi trọng tài ra phán quyết cuối cùng, nó có giá trị chung thẩm và bắt buộc thi hành, trừ trường hợp quyết định trọng tài bị tòa án quốc gia hủy theo quy định của pháp luật. Các bên đương sự không phải đối mặt với những thủ tục chống án kéo dài tốn nhiều thời gian, công sức như trong tố tụng tòa án. Giải quyết nhanh chóng các tranh chấp phát sinh luôn được sự ưa chuộng của các doanh nghiệp trong nến kinh tế thị trường hiện nay. 1.1.2.3. Trọng tài không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị Bên cạnh những ưu điểm trên, trọng tài thương mại còn được lựa chọn bởi tính độc lập của nó với các yếu tố chính trị. Trọng tài không đại diện cho quyền lực nhà nước do vậy rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp mà các bên có quốc tịch khác nhau (toà án nói là được độc lập nhưng cũng dễ bị chi phối bởi quyền lợi dân tộc, do đó các bên tranh chấp có quốc tịch khác nhau thường không thích Bài giảng Tư pháp quốc tế, Diệp Ngọc Dũng – Cao Nhất Linh, Khoa Luật, Trường Đại học Cần Thơ, 2002. chọn toà án của nhau). Họ thường thích chọn trọng tài, nhất là trọng tài của nước thứ ba để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại có thể áp dụng luật của một quốc gia nào đó do các bên thỏa thuận hoặc không áp dụng luật của bất kỳ quốc gia nào, trọng tài có thể đưa ra phán quyết dựa trên tập quán thương mại quốc tế. Vì vậy, các bên trong vụ tranh chấp có thể yên tâm khi phán quyết đưa ra dựa trên những căn cứ mà họ cho rằng có lợi nhất cho mình. 1.1.2.4. Xét xử không công khai Có thể thấy, tính bí mật áp dụng cho trọng tài thường bảo đảm sự tĩnh lặng hơn trong tố tụng so với một toà án quốc gia, nơi mà những phiên xét xử là công khai. Nguyên tắc xét xử không công khai, tức là không ai có quyền tham dự phiên họp xét xử nếu không được sự đồng ý của các bên, đồng thời, phán quyết trọng tài cũng không được công bố rộng rãi. Cơ chế này đảm bảo bí mật kinh doanh và uy tín nghề nghiệp cho các thương nhân có liên quan tới vụ tranh chấp. Có thể nói đây là một trong những đặc điểm thu hút ngày càng nhiều doanh nhân lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động của mình. Thông thường, các doanh nghiệp không muốn cho các đối tác khác biết về tình hình kinh doanh của họ nhất là khi đang xảy ra tranh chấp. Điều đó sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến việc kinh doanh cũng như uy tín của doanh nghiệp. Việc xét xử công khai, một mặt có thể tiết lộ bí mật kinh doanh của doanh nghiệp; mặt khác việc đưa tin về vụ tranh chấp của báo chí đôi khi không khách quan. Vì vậy, khi xảy ra tranh chấp họ luôn mong muốn giải quyết nhanh chóng và hạn chế đến mức thấp nhất việc đồn thổi những thông tin đó ra bên ngoài. Đáp ứng được yêu cầu đó, trọng tài trở thành phương thức giải quyết được lựa chọn. 1.1.2.5. Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm Về nguyên tắc, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và bên thua kiện không được chống án. Cơ hội để bác phán quyết trọng tài thường bị giới hạn bởi các thiếu sót thủ tục căn bản. Phán quyết chung thẩm là phán quyết cuối cùng, giải quyết chung thẩm mọi vấn đề được chuyển cho ủy ban trọng tài. Phán quyết có tác dụng phân xử giữa các bên, đồng thời phán quyết cuối cùng sẽ chấm dứt tranh chấp giữa các bên. Một khi phán quyết được ban hành, ủy ban trọng tài sẽ hết trách nhiệm bởi ủy ban trọng tài đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Các phán quyết của trọng tài sẽ đương nhiên có hiệu lực thi hành nếu như bên thua kiện không yêu cầu tòa án xem xét hủy phán quyết trọng tài. Cần lưu ý là tòa án chỉ có quyền hủy phán quyết trọng tài theo thủ tục hủy phán quyết trọng tài, trong đó tòa án không xem xét lại sự việc mà chỉ xem xét việc tuân thủ các điều kiện và thủ tục tố tụng. Một khi phán quyết của trọng tài có hiệu lực, nó có giá trị bắt buộc thi hành như một bản án. Nếu, bên thua kiện không tự nguyện thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm thi hành án của quốc gia đảm bảo việc thi hành. 1.2. Cơ sở lý luận về vấn đề trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế 1.2.1. Lược khảo về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế các nước trên thế giới Trên thế giới, nhất là ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài là hình thức được các doanh nghiệp ưa chuộng nhất. Vì vậy, hình thức tố tụng trọng tài đã được hình thành và phát triển từ rất sớm ở các quốc gia này. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu các quy định pháp lý về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế ở một số nước trên thế giới, cụ thể là luật trọng tài Mỹ và luật trọng tài Pháp. 1.2.1.1. Luật trọng tài Mỹ Vào khoảng nửa thế kỉ XIX, việc phân xử thông qua Trọng tài đã ra đời ở Mỹ. Hiện nay, việc phân xử bằng trọng tài càng trở nên phổ biến đặc biệt là trong các tranh chấp quốc tế. Nhìn chung, việc phân xử bằng trọng tài ở Liên bang Hoa kỳ được điều chỉnh bởi Luật trọng tài Hoa kỳ (FAA). FAA là nền tảng cho các luật về hàng hải, ngoại thương, và luật áp dụng cho các tiểu bang. FAA gồm có ba chương, trong đó chương III được dành riêng cho các quy định về thương mại quốc tế. Ngoài Luật liên bang, hầu hết các tiểu bang đều có quy chế trọng tài riêng. Ở hầu hết các tiểu bang Hoa Kỳ đều có sự tiếp nhận Luật Mẫu UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế với mục đích tạo ra một luật trọng tài quốc tế hấp dẫn cho các tranh chấp quốc tế. Khi có sự xung đột luật giữa luật tiểu bang với liên bang, theo Hiến pháp Hoa Kỳ, các luật tiểu bang không được xung đột với luật Liên bang và được xem như theo đuổi cùng một chính sách với Luật liên bang. Sự xung đột này được giải quyết bởi các quyết định của tòa án, các hiệp ước và các điều lệ. Các quyết định của tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích và trình bày các luật trọng tài, đặc biệt là trọng tài thương mại quốc tế. Hoa Kỳ là thành viên của Công ước NewYork 1958 về công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn tham gia các công ước khác như: Công ước 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa Nhà nước và công dân của quốc gia khác, Công ước liên bang Hoa Kỳ 1975 về trọng tài thương mại quốc tế. Tổ chức trọng tài hàng đầu ở Hoa Kỳ là Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA), được thành lập vào năm 1926. Luật trọng tài quốc tế của AAA được thông qua ngày 1/3/1991 và được sử dụng phổ biến cho các vụ kiện quốc tế. Nhìn chung, luật trọng tài quốc tế của AAA cũng có sự tiếp nhận Luật mẫu UNCITRAL ở việc ủy quyền và cung cấp các dịch vụ hành chính cho phân xử trọng tài. Ngoài AAA, Hoa Kỳ còn rất nhiều tổ chức thương mại và tổ chức chuyên môn, các trung tâm giải quyết tranh chấp thực hiện và thúc đẩy sự phát triển của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Chúng ta có thể xem xét một số quy định của pháp luật Hoa Kỳ về trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế. Trước tiên, về thỏa thuận trọng tài, theo luật của FAA, các tranh chấp về lao động không giải quyết bằng trọng tài. Năm 1974, tòa án tối cao Hoa Kỳ đã mở rộng giới hạn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài qua lĩnh vực giao dịch quốc tế. Kế đến, mặc dù các quy định của pháp luật không chú ý đến quyền lực của trọng tài viên trong việc yêu cầu các biện pháp bảo vệ tạm thời, nhưng thực tế người ta thường làm thế. Theo Luật của Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ (AAA) quy định, cho phép các trọng tài viên bảo tồn tài sản, không làm thiệt hại đến quyền của các bên tranh chấp và quyết định cuối cùng của sự tranh chấp. Việc thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài ở Mỹ, nhìn chung, được điều chỉnh bởi các hiệp ước mà phổ biến nhất là Công ước 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Sự thực thi phán quyết của trọng tài được FAA quy định từ điều 201 đến điều 208. Theo quy định của Điều 207, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi hành phán quyết theo tinh thần của công ước trong thời hạn ba năm, kể từ ngày phán quyết chính thức được đưa ra. Phán quyết này được công nhận, ngoại trừ tòa án tìm thấy một trong những căn cứ từ chối việc thực hiện theo công ước. Tòa án có thể bắt buộc thi hành phân xử trọng tài phù hợp với thỏa thuận trọng tài, ở bất kỳ nơi nào mà thỏa ước được ký, ngay cả bên ngoài Hoa Kỳ (Điều 206). Những điều khoản của FAA chỉ được áp dụng khi những điều khoản này không trái với những quy định của công ước (Điều 208). Thông thường, những phán quyết của tòa án làm tăng tính hiệu lực thi hành của phán quyết trọng tài và duy trì tinh thần của công ước. Trong trường hợp thiếu một công ước đa phương, việc thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài có thể được thực hiện theo một hiệp ước song phương trong tình hữu nghị mà Hoa kỳ là thành viên. 1.2.1.2. Luật trọng tài Pháp Trước năm 1980, luật trọng tài Pháp được đặt trong Bộ luật dân sự, về cơ bản giống như từ thời nó được ban hành vào năm 1806. Năm 1980 và 1981, luật mới về trọng tài được ban hành với mục đích cải tiến những quy định về vấn đề này. Luật trọng tài Pháp quy định riêng rẻ hai chế độ trọng tài trong nước và trọng tài quốc tế, không đặt ra sự cản trở nào cho trọng tài quốc tế, ngoại trừ sự khẩn cấp của chính sách quốc tế chung. Pháp là thành viên của nhiều công ước đa phương như: Nghị định thư Giơnevơ về điều khoản trọng tài năm 1923; Công ước Giơnevơ về thi hành phán quyết trọng tài năm 1927; Công ước New York về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài năm 1958;… Ngoài ra, Pháp còn là thành viên của nhiều hiệp ước song phương với điều kiện nhờ đến phân xử bằng trọng tài và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp, xét xử trọng tài mang tính quốc tế khi tranh chấp có sự giao dịch thương mại quốc tế. Trong khi đó không có một nguyên tắc nào đưa ra để giải thích điều khoản này. Có những đòi hỏi không theo quy định của luật cho một thỏa thuận trọng tài quốc tế. Những điều khoản riêng đưa ra cho các bên tranh chấp có thể xác định những hình thức bề ngoài của những điều khoản trọng tài trong thỏa ước của họ. Những yêu cầu về điều khoản thi hành phán quyết của trọng tài quốc tế như là một sự tồn tại của chứng cứ và giá trị pháp lý của một phán quyết, một bên tranh chấp có thể yêu cầu thi hành nguyên bản phán quyết được đưa ra. Về phạm vi của phân xử trọng tài bao gồm các vấn đề thương mại. Một thỏa ước trọng tài quốc tế có thể chỉ định trọng tài viên hoặc ghi rõ phương pháp chỉ định trọng tài. Nếu như phân xử trọng tài ở Pháp hoặc đưa ra xét xử theo luật của Pháp, các bên tranh chấp có thể nhờ đến tòa án của Pháp chỉ định trọng tài viên căn cứ vào Điều 1493, Bộ luật dân sự. Trong phân xử các tranh chấp quốc tế, các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Các bên có thể lựa chọn luật của bất kỳ quốc gia nào, thậm chí cả tập quán thương mại và những nguyên tắc pháp lý chung. Nếu các bên không có thỏa thuận thì trọng tài viên sẽ quyết định. Trong phân xử trọng tài quốc tế tại Pháp hoặc áp dụng luật của Pháp, các bên tranh chấp có thể nhờ đến tòa án tối cao ở Paris xét xử (Điều 1493). Không có một điều khoản nào quy định về kháng cáo hoặc hủy bỏ những phán quyết được đưa ra ở bên ngoài nước Pháp. Trong trường hợp phán quyết được đưa ra ở Pháp trong một vụ phân xử trọng tài quốc tế có thể đặt bên ngoài nền tảng của phân xử trong nước (phán quyết trọng tài trong nước có thể bị kháng cáo lên Tòa án tối cao, nơi những người có thẩm quyền ra phán quyết cuối cùng). Để đạt được sự cho phép thi hành một phán quyết của trọng tài nước ngoài, bảng sao chép của phán quyết và thỏa ước trọng tài phải được đặt cùng với tòa án có thẩm quyền (Điều 1477). Trong trường hợp từ chối thi hành phán quyết thì tòa án phải đưa ra những lý do quy định tại Điều1478. Một quyết định từ chối công nhận, thi hành phán quyết sẽ bị kháng cáo trong khoảng thời gian một tháng, kể từ ngày phán quyết được đưa ra (Điều 1489). Một phán quyết trọng tài nước ngoài sẽ được công nhận ở Pháp nếu sự tồn tại của nó là được thiết lập trên những nguyên tắc cơ bản. 1.2.2. Sự cần thiết của trọng tài thương mại trong tư pháp quốc tế Trong nền kinh tế thị trường hiện nay và trong bối cảnh Việt Nam đã hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tranh chấp kinh tế được xem là một thuộc tính mang tính quy luật. Vì vậy, Việt Nam rất cần có những cơ quan tài phán, không chỉ toà án mà cả trọng tài quốc tế, có đầy đủ năng lực để giải quyết những tranh chấp về kinh doanh thương mại ngày một gia tăng và phức tạp. Vì vậy, vấn đề phát triển các dịch vụ pháp lý để giải quyết hiệu quả các tranh chấp là nhu cầu hết sức bức thiết. Một trong những dịch vụ pháp lý được ưa chuộng, giải quyết nhanh chóng và hiệu quả các tranh chấp, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, là trọng tài thương mại. Tuy nhiên, trước sự phát triển và nhu cầu hội nhập của đất nước, tổ chức trọng tài thương mại Việt Nam vẫn còn thiếu và yếu về nhiều mặt. Trọng tài thương mại Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho quá trình hội nhập là do, thứ nhất, Việt Nam chưa có một khung pháp lý hoàn chỉnh về trọng tài; thứ hai, đội ngũ trọng tài viên Việt Nam còn yếu kém về trình độ chuyên môn, nhất là khi tham gia giải quyết các tranh chấp có yếu tố nước ngoài;… Để đảm bảo cho quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và giải quyết hiệu quả các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, sự cần thiết của trọng tài thương mại là không thể phủ nhận. 1.2.2.1. Đảm bảo quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam Đặc điểm được xem là tất yếu của nền kinh tế thị trường là thúc đẩy quá trình mua bán trao đổi hàng hóa phát triển ngày càng mạnh. Trong khung cảnh toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động thương mại luôn có xu hướng vượt ra khỏi phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Các hoạt động thương mại xuyên quốc gia thực sự tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài và giữa các doanh nghiệp nước ngoài với nhau trong quá trình tìm kiếm thị phần. Bên cạnh sự tìm kiếm thị trường, lôi kéo khách hàng, các doanh nghiệp còn đảm bảo cho mục đích lợi nhuận của mình. Vì vậy, bên cạnh sự cạnh tranh, các doanh nghiệp phải hợp tác với nhau để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Tuy nhiên, với mục đích theo đuổi lợi nhuận, giữa các doanh nghiệp luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tranh chấp. Thực tế, các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng gia tăng và càng phức tạp. Vì vậy, các doanh nghiệp luôn cần những biện pháp tài phán hiệu quả, nhanh chóng để giải quyết kịp thời khi có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, tranh chấp thương mại có thể giải quyết theo một trong hai cách sau: thông qua các phương thức mang tính tài phán hoặc thông qua các phương thức không mang tính tài phán. Các phương thức mang tính tài phán đơn thuần đề cập đến tranh tụng tại toà án quốc gia và trọng tài. Cả toà án và ủy ban trọng tài đều có quyền ban hành phán quyết không chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên trong vụ tranh chấp mà còn buộc bên thua kiện phải thi hành. Các phương thức không mang tính tài phán đề cập đến các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn như hoà giải hoặc trung gian. Không giống như phán quyết của toà án quốc gia hay ủy ban trọng tài, biện pháp giải quyết, nếu có, của phương thức trung gian hoặc hoà giải không có giá trị ràng buộc đối với các bên. Khả năng các bên không tuân theo biện pháp giải quyết đó, tuỳ thuộc vào ý chí của mình, là rất cao. Tuy nhiên, khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên nên căn cứ vào từng loại hợp đồng vì nhìn chung mỗi phương thức điều có những ưu điểm riêng. Ví dụ, đối với những hợp đồng nợ vay đơn giản thì nhờ tòa án giải quyết là cách tốt nhất; còn đối với những hợp đồng thương mại phức tạp, đòi hỏi chuyên môn cao thì nên chọn trọng tài. Để có thể lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu nhất, chúng ta sẽ cùng phân tích những ưu nhược điểm của từng loại theo quy định của pháp luật hiện hành cũng như về mặt lí luận.  Đầu tiên, là biện pháp hòa giải. Có thể nói, thủ tục hoà giải nhằm đưa các bên cùng hướng tới người thứ ba được chính các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp. Nếu hòa giải thành công, thỏa thuận giải quyết được ghi thành biên bản hòa giải có chữ ký của các bên và hòa giải viên. Trong quá trình hòa giải, hòa giải viên luôn cố gắng, với thỏa thuận trước giữa các bên, để trình bày cho các bên thấy những cái gì được coi là triển vọng tốt đẹp nhất và từ đó hòa giải các quan điểm khác nhau, và vì vậy, chuyển một tình huống từ tranh chấp thành sự hòa giải. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ có thể tiến hành và đạt được hiệu quả trong trường hợp các bên đương sự đều có thiện chí mong muốn hòa giải. Trong trường hợp, một bên không tỏ ra có thiện chí, giải pháp này sẽ không đạt được kết quả.  Tiếp theo, cũng là một phương thức không mang tính tài phán, đó là trung gian. Trung gian có thể định nghĩa như một biến thể của hòa giải khi cố gắng dàn xếp tranh chấp được thực hiện bởi bên thứ ba - nhà trung gian người xem xét khiếu kiện của các bên và giúp các bên đàm phán để giải quyết tranh chấp. Nhìn chung, vai trò của hòa giải viên là đưa ra những lời khuyên bằng lời nói hoặc bằng văn bản để các bên tự đi đến sự thỏa thuận, trong khi đó, vai trò của nhà trung gian thiên về thuyết phục các bên tìm ra một phương pháp giải quyết tranh chấp thân thiện. Nhà trung gian cũng có thể đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết tranh chấp cho các bên lựa chọn. Có thể thấy vai trò của người trung gian thể hiện đậm nét hơn trong sự thỏa thuận của các bên. Nhưng cũng giống như hòa giải, trung gian chỉ có thể đạt được kết quả khi có sự hợp tác của các bên trong vụ tranh chấp.  Đối với biện pháp tố tụng tại tòa án quốc gia, nhất là trong hoạt động thương mại quốc tế, thường ít được lựa chọn vì những lí do sau: - Thứ nhất, vì một lý do rất dễ thấy là không bên nào mong muốn đưa tranh chấp ra giải quyết tại toà án quốc gia của bên kia, vì vậy thông thường các loại điều khoản “tòa án” trong hợp đồng không được sử dụng phổ biến. Khi tranh chấp xảy ra, vấn đề là phải xác định tòa án nào có thẩm quyền giải quyết bằng cách áp dụng các quy tắc xung đột luật về thẩm quyền pháp lý có liên quan hoặc bằng cách xem xét các hiệp định song phương hoặc đa phương có thể áp dụng. Khi đó, một tòa án quốc gia có thể khước từ thẩm quyền và trên cơ sở các quy tắc xung đột luật của quốc gia đó, chuyển vụ việc cho tòa án của một quốc gia khác sau khi bị đơn kiện về việc thiếu thẩm quyền của tòa án đầu tiên. Việc này sẽ không chỉ trì hoãn một cách đáng kể thủ tục tố tụng mà còn gây ra chi phí tốn kém do liên tiếp tiến hành kiện tụng tại các tòa án của các quốc gia khác nhau. Nhìn chung, các bên cũng không muốn giải quyết tranh chấp tại tòa án của nước thứ ba vì nhiều lý do. Ví dụ: sự không phù hợp khi đưa tranh chấp được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật cho các thẩm phán mà trình độ chuyên môn và giáo dục của họ lại thuộc một hệ thống luật pháp khác; hợp đồng và các thư từ liên quan tới tranh chấp phải dịch sang ngôn ngữ của thẩm phán quốc gia được chọn - tương tự, các cuộc thảo luận phải tiến hành bằng ngôn ngữ này - các bên và những người tham gia tố tụng sẽ gặp một số bất tiện; nếu tòa án có thẩm quyền của một quốc gia không tham gia vào hiệp định song phương hoặc đa phương về công nhận và thi hành các quyết định pháp lý, các bên có thể rất khó khăn để thực hiện phán quyết đã ban hành,… - Thứ hai, nhìn chung thủ tục tố tụng tại tòa án tốn nhiều thời gian và phức tạp. Phần lớn các doanh nghiệp đều có tâm lý ngại phải đối mặt với những thủ tục tố tụng phức tạp tốn nhiều thời gian, chi phí và công sức đi lại vì ngoài hợp đồng phát sinh tranh chấp, họ còn rất nhiều hợp đồng khác để giải quyết. Vì vậy, họ cần có một thủ tục đơn giản giải quyết nhanh chóng và có hiệu quả những tranh chấp phát sinh. Hơn nữa, thậm chí khi tòa án đã đưa ra phán quyết, bên thắng kiện vẫn phải đối mặt với các thủ tục chống án sau đó của bên thua kiện. Vì vậy, để theo đuổi một vụ kiện cho đến khi có phán quyết cuối cùng, đôi khi doanh nghiệp phải tốn kém chi phí cao hơn rất nhiều so với số tiền được bồi thường. - Cuối cùng, là nguyên tắc xét xử công khai của tòa án đã khiến các doanh nghiệp phải suy nghĩ khi lựa chọn phương thức này. Các doanh nghiệp luôn mong muốn giữ gìn bí mật kinh doanh cũng như uy tín trên thương trường. Việc phát sinh tranh chấp, mặc dù ngoài mong muốn của doanh nghiệp, nhưng ít nhiều khiến cho các đối tác khác có tâm lý thận trọng hoặc nghi ngờ về tính trung thực của doanh nghiệp. Với những lý do trên, tòa án thường là sự lựa chọn sau cùng khi mà những giải pháp khác không thể giải quyết các tranh chấp như mong muốn của các doanh nghiệp.  Cuối cùng là phương thức tố tụng trọng tài. Như đã phân tích ở những phần trên, tố tụng trọng tài là phương thức giải quyết tối ưu nhất vì nó là tập hợp những ưu điểm mà các doanh nghiệp ưa chuộng như: thủ tục tố
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất