ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THANH TÚ
Trî gióp ph¸p lý cho ng-êi bÞ buéc téi
tõ ®ñ 16 tuæi ®Õn d-íi 18 tuæi
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THANH TÚ
Trî gióp ph¸p lý cho ng-êi bÞ buéc téi
tõ ®ñ 16 tuæi ®Õn d-íi 18 tuæi
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN MINH TUẤN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đỗ Thanh Tú
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
CHO ĐỐI TƯỢNG TỪ ĐỦ 16 TUỔI ĐẾN DƯỚI 18 TUỔI
BỊ BUỘC TỘI ..................................................................................... 7
1.1.
Khái niệm và pháp luật về trợ giúp pháp lý cho đối tượng từ
đủ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội ...................................................... 7
1.1.1. Khái niệm và pháp luật về Trợ giúp pháp lý cho đối tượng từ đủ
16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội ............................................................. 7
1.1.2. Khung trợ giúp pháp lý cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
bị buộc tội ........................................................................................... 12
1.1.3. Vai trò của trợ giúp pháp lý cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi bị buộc tội.................................................................................... 17
1.2.
Kinh nghiệm mô hình trợ giúp pháp lý cho người từ đủ 16 tuổi
đến 18 tuổi bị buộc tội một số quốc gia trên thế giới và gợi mở
cho Việt Nam ..................................................................................... 19
1.2.1. Kinh nghiệm về mô hình Trợ giúp cho người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi ở Nhật bản...................................................................... 20
1.2.2. Kinh nghiệm về trợ giúp pháp lý người từ đủ dưới 16 tuổi đến 18
tuổi bị buộc tội ở Pháp ....................................................................... 23
1.2.3. Kinh nghiệm về trợ giúp pháp lý người từ đủ dưới 16 tuổi đến 18
tuổi bị buộc tội ở Mỹ .......................................................................... 26
1.2.4. Gợi mở cho Việt Nam ........................................................................ 28
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP
LÝ CHO ĐỐI TƯỢNG TỪ ĐỦ 16 TUỔI ĐẾN DƯỚI 18 TUỔI
BỊ BUỘC TỘI ..............................................................................................32
2.1.
Thực trạng pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội ..................................................... 32
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật
cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ........................... 32
2.1.2. Thực trạng các quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và các đối tượng khác ở Việt Nam
hiện nay .............................................................................................. 42
2.2.
Thực tiễn về TGPL cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi
bị buộc tội tại Việt Nam hiện nay ................................................... 51
2.2.1. Thực trạng về chủ thể thực hiện TGPL .............................................. 51
2.2.2. Về thực trạng đối tượng được trợ giúp pháp lý là người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội ........................................................ 57
2.2.3. Về thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay .......... 59
2.3.
Đánh giá hiệu quả công tác TGPL người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi bị buộc tội ở Việt Nam hiện nay ................................ 65
2.3.1. Kết quả đạt được ................................................................................ 65
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế ............................................ 67
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ĐỐI TƯỢNG TỪ ĐỦ 16 TUỔI
ĐẾN 18 TUỔI BỊ BUỘC TỘI TRONG THỜI GIAN TỚI .......... 73
3.1.
Quan điểm hoàn thiện pháp luật về TGPL cho người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội ................................................ 73
3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về TGPL cho người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội ở nước ta hiện nay .......... 76
3.2.1. Nhóm các giải pháp hoàn thiện pháp luật về TGPL cho người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội .............................................. 77
3.2.2. Nhóm các giải pháp bảo đảm các điều kiện để pháp luật về
TGPL cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội đi
vào cuộc sống ..................................................................................... 86
KẾT LUẬN .................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 96
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết thông thường
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
LHQ
Liên hợp quốc
NCTN
Người Chưa thành niên
NCTNPT
Người chưa thành niên phạm tội
TGPL
Trợ giúp pháp lý
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 2.1
So sánh tỷ trọng giữa các đối tượng dưới 18 tuổi
phạm tội
58
Thống kê số lượng bị cáo giảm từ khi có Luật
TGPL 2017
59
Biểu đồ 2.2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong thời buổi hiện nay, mục tiêu của công cuộc đổi mới toàn diện về
kinh tế, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền là “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Tuyên truyền pháp luật và trợ giúp pháp lý là
nhiệm vụ rất quan trọng để giúp những người thuộc nhóm yếu thế hoặc không
có điều kiện kinh tế được tiếp xúc với dịch vụ pháp lý. Đối với thanh niên đặc
biệt nhóm đối tượng trong độ tuổi từ 16 tuổi đến 18 tuổi rất cần được trợ giúp
pháp lý. Vì đây là nhóm đối tượng, đang trong quá trình định hình tính cách
dễ bị tác động bởi các tác nhân bên ngoài làm ảnh hưởng đến hành vi của
chính mình (xúi giục người lớn, ảnh hưởng từ phim ảnh, truyện, …).
Những người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi phạm tội luôn cần đến sự trợ
giúp pháp lý từ nhà nước, cũng như các tổ chức khác. Tuy nhiên, nhiệm vụ
này chỉ mới dừng lại ở mức tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chưa có những
biện pháp trợ giúp pháp lý phù hợp đối với nhóm đối tượng này. Luật Trợ giúp
pháp lý năm 2017 đã chính thức được triển khai với rất nhiều những tiến bộ
trong đó trọng tâm là lấy người được trợ giúp làm trung tâm của việc trợ giúp
pháp lý. Hệ thống tổ chức TGPL đã được hình thành từ trung ương đến địa
phương, bao gồm Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp và Trung tâm TGPL ở 63 tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương với đội ngũ chuyên viên và cộng tác viên
TGPL đang ngày càng được bổ sung về số lượng và chất lượng. Các tổ chức
TGPL đã đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu giúp đỡ pháp lý
của những nhóm người yếu thế trong xã hội, và kém hiểu về pháp luật.
Hoạt động TGPL cho đối tượng là người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị
buộc tội, sẽ hạn chế những đối tượng này không bị sa ngã, hư hỏng, vi phạm
pháp luật do thiếu nhận thức đầy đủ về pháp luật, bảo đảm tính công bằng
1
trong xã hội mà Đảng và Nhà nước đang hướng đến, giúp các cơ quan tiến
hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác giải quyết các vụ việc một cách
khách quan, chính xác, đúng pháp luật, giải toả những vướng mắc pháp luật
cho lứa tuổi này, góp phần ổn định tình hình chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội; tạo lập cơ chế TGPL cho nhóm đối tượng này, mà từ trước đến nay
chưa được coi trọng.
Thực tiễn thực hiện pháp luật về TGPL cũng đã bộc lộ những hạn chế
bất cập cụ thể như: hệ thống tổ chức thực hiện TGPL vẫn chưa phù hợp và
hoạt động chưa hiệu quả, việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên trong thực
tế còn nhiều khó khăn, cơ chế thu hút các chủ thể TGPL cũng chỉ mới dừng
lại ở mức khuyến khích tham gia.Việc TGPL cho nhóm đối tượng trong lứa
tuổi từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi còn bỏ ngỏ, đặc biệt người thuộc lứa tuổi này
bị buộc tội. Mặc dù các cơ quan tố tụng, Trung tâm TGPL ở Sở tư pháp ở các
địa phương cũng đẩy mạnh việc tuyên truyền pháp luật nhưng hoạt động trợ
giúp pháp lý, thúc đẩy việc tiếp cận dịch vụ công của nhân dân vẫn còn khá
chậm, chưa đồng bộ.
Hiện nay, công trình nghiên cứu về “Trợ giúp pháp lý cho người bị
buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi” còn khá ít và mỏng, chưa có nhiều
luận văn chọn đề này để nghiên cứu. Vì vậy tác giả chọn đề tài này để nghiên
cứu phân tích tính ứng dụng của pháp luật trong việc TGPL cho người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội hiện nay từ đó đưa ra các giải pháp hỗ trợ cho
việc TGPL cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận văn là làm sáng tỏ các phương diện về lý
luận, pháp lý, thực trạng TGPL cho đối tượng từ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc
tội nhằm thúc đẩy phát triển việc TGPL cho đối tượng này.
2
2.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, Luận văn có những mục tiêu cụ thể dưới đây:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý về pháp luật TGPL
cho đối tượng từ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội.
Thứ hai, phân tích, đánh giá nhằm làm rõ thực trạng các quy định của
pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về TGPL cho đối tượng từ 16 tuổi đến
18 tuổi bị buộc tội ở Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó
khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện.
Thứ ba, đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
TGPL cho đối tượng từ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội ở Việt Nam hiện nay.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn góp phần chứng minh sự phát triển đúng đắn của hoạt động
TGPL, đánh giá sâu sát, toàn diện tình hình thực hiện các quy định pháp luật
về TGPL, phân tích các yêu cầu đặt ra về mặt pháp lý để phục vụ cho việc
phát triển bền vững hoạt động TGPL; đề xuất giải pháp có “tính mới” để hoàn
thiện pháp luật TGPL tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động
TGPL cho đối tượng từ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội trong thời gian tới.
Đồng thời, luận văn cũng góp phần vào việc phục vụ cho việc nghiên
cứu, tìm hiểu về pháp luật TGPL ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là cơ sở lý luận Trợ giúp pháp lý
cho đối tượng từ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội ở Việt Nam. Trên cơ sở đó có
các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả hoạt
động TGPL cho đối tượng từ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội.
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là các vấn đề về pháp luật về TGPL
cho đối tượng từ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội gồm: khái niệm TGPL, khung
pháp luật về TGPL ở Việt Nam và pháp luật về TGPL ở một số nước trên thế
3
giới; thực trạng các quy định về chủ thể, đối tượng, hình thức, phạm vi, lĩnh
vực; thực tiễn thực hiện pháp luật TGPL trong thời gian qua và đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật TGPL cho các đối tượng này.
Do giới hạn về nguồn lực, điều kiện, trong luận văn, tác giả chỉ tập
trung khảo sát, tìm hiểu thực trạng TGPL cho đối tượng từ 16 tuổi đến 18 tuổi
bị buộc tội từ khi có Luật TGPL năm 2017.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, qua tìm hiểu các công trình khoa học được công bố trong
nước về trợ giúp pháp lý cho các đối tượng trong luật TGPL năm 2017. Có
thể nêu ra các công trình sau đây:
Đề tài Thạc sĩ về “Hoạt động TGPL của Luật sư Việt Nam hiện nay”
của Tác giả Trần Thị Việt Hà bảo vệ tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia: Đề tài
nói lên những hoạt động của giới luật sư trong việc cung cấp dịch vụ TGPL,
lịch sử TGPl của luật sư Việt Nam, so sánh mô hình TGPL của các Luật sư
trên Thế giới.
Đề tài Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Bích Ngọc về “Các giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý” Luận văn nêu lên ý nghĩa thiết thực
từ phương diện lý luận, lẫn thực tiễn đưa thêm các giải pháp giúp việc TGPL
hiệu quả hơn.
Đề tài Thạc sĩ “Hoạt động trợ giúp pháp lý trong chương trình giảm
nghèo” của tác giả Lê Thị Thúy đã nêu lên tầm quan trọng của việc TGPL. Có
nắm được pháp luật thì đời sống của những người nghèo mới được nâng cao,
tránh mắc phải những vi phạm pháp luật do thiếu hiểu biết. Kết hợp với các
chính sách kinh tế phù hợp sẽ làm giảm tỉ lệ người nghèo.
Đề tài Thạc sĩ của tác giả Hoàng Thị Liên về “ Pháp luật về TGPL cho
người nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác” đề tài đánh giá sâu sát
về pháp luật TGPL cho người nghèo và các đối tượng chinh sách khác đồng
4
thời đề xuất các giải pháp để hoàn thiện pháp luật tạo cơ sở pháp lý nâng cao
hiệu quả hoạt động của TGPL.
Cũng như TGPL cho các đối tượng khác trong xã hội, việc TGPL cho
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được Đảng và Nhà nước hết sức quan
tâm, vì đây là những người đang được xã hội, đất nước quan tâm kì vọng. Tuy
nhiên, các đối tượng này đang trong độ tuổi dễ bị kích động và dễ thực hiện
hành vi phạm tội.
Các đề tài trên hầu hết chỉ tập trung vào các vấn đề TGPL mang tầm
phổ quát, vĩ mô chưa nêu lên những trường hợp riêng biệt cụ thể thì tiến hành
như thế nào. Trong đề tài: “TGPL cho người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi”. Tác giả của luận văn sẽ cố gắng đi vào những vấn đề riêng khi
TGPL cho nhóm đối tượng nêu trên, đồng thời nêu lên những thực trạng khó
khăn bất cập khi TGPL, cuối cùng đưa ra một số giải pháp để các nhà làm luật
xem xét áp dụng đưa ứng dụng vào thực tiễn nhất là khi tỉ lệ tội phạm tuổi
chưa thành niên đang gia tăng.
Chính vì bị buộc tội nên những đối tượng này cần phải có những cơ quan,
trợ giúp viên pháp lý có thể tư vấn, tranh tụng giúp những người bị buộc tội từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được, giúp họ hưởng được những dịch vụ pháp lý
công, đồng thời cũng giúp họ có được những tư vấn về pháp luật hữu ích.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu và hình thành trên cơ sở vận dụng các
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học
thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan
điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tác giả luận
văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng
hợp, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn… cụ thể như sau:
Đối với Chương 1 Tác giả sẽ sử dụng phương pháp Tổng hợp, nghiên
5
cứu, đối chiếu giữa lí luận và thực tiễn. Ngoài ra tại mục 1.3 tác giả sẽ tiến
hành so sánh, đánh giá các mô hình tiên tiến xem mô hình nào phù hợp với
Việt Nam ở thời điểm hiện tại
Đối với Chương 2 Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp số liệu, đánh
giá số liệu. Từ việc thu thập số liệu từ thực tế suy ra được kết quả đảm bảo
tính khách quan thực tiễn của luận văn
Đối với Chương 3: Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp
để hoàn thành luận văn
7. Kết cấu của Luận Văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được kết cấu thành 03 chương sau đây:
Chương 1: Những vấn đề chung TGPL cho đối tượng từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi.
Chương 2: Thực trạng về pháp luật TGPL cho đối tượng từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi bị buộc tội tính từ thời điểm có luật TGPL năm 2017
Chương 3: Quan điểm và các giải pháp hoàn thiện TGPL cho đối tượng
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội trong thời gian tới.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CHO
ĐỐI TƯỢNG TỪ ĐỦ 16 TUỔI ĐẾN DƯỚI 18 TUỔI BỊ BUỘC TỘI
1.1. Khái niệm và pháp luật về trợ giúp pháp lý cho đối tượng từ
đủ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội
1.1.1. Khái niệm và pháp luật về Trợ giúp pháp lý cho đối tượng từ
đủ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội
Bản chất của TGPL xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo
đảm quyền công dân, bảo đảm sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, đó
cũng chính là trách nhiệm của tổ chức chủ quán đối với thành viên của mình.
Chủ thể thực hiện việc TGPL ở đây có thể là: Cơ quan hành chính nhà
nước, Cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan thông tin, cơ sở nghiên cứu đào
tạo luật công lập, Các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, Luật sư và các
tổ chức hành nghề luật sư.
Tiêu chí để xác định được người được thụ hưởng TGPL ta có thể dựa
vào: Đặc điểm của đối tượng đó là những người nghèo, các đối tượng chính
sách, các đối tượng khác theo quy định của Luật TGPL 2017. Tính chất của
vụ việc ví dụ như các vụ án phải chỉ định người bào chữa. Tính chất nghề
nghiệp như: hoạt động công vụ, hoạt động xã hội, hoạt động luật sư, …
Việc TGPL có thể diễn ra ở rất nhiều các lĩnh vực pháp luật như: hình
sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động,… Nguồn kinh phí của việc
TGPL chủ yếu được lấy từ ngân sách nhà nước, còn lại phân bổ tại các Quỹ
của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp hoặc đến từ nguồn tài
chính từ các tổ chức, cá nhân khác ủng hộ. Người thụ hưởng việc TGPL hoàn
toàn không phải trả phí trợ giúp, tư vấn, tuy nhiên trong trường hợp có thoả
thuận họ vẫn phải tiến hành trả một phần khoản phí trợ giúp.
7
Các đối tượng được TGPL theo điều 07 luật TGPL 2017 bao gồm:
Người có công với cách mạng, Người thuộc hộ nghèo, Trẻ em, Người dân tộc
thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, Người bị
buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, Người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo,
Người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: Cha
đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ
còn nhỏ; Người nhiễm chất độc da cam; Người cao tuổi, Người khuyết tật;
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; Nạn nhân
trong vụ việc bạo lực gia đình; Nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy
định của Luật phòng, chống mua bán người; Người nhiễm HIV.
Bên cạnh đó, mọi chủ thể khi thực hiện hoạt động TGPL cần tuân thủ
những nguyên tắc mà Điều 03 Luật TGPL 2017 sau:
- Tuân thủ pháp luật và quy tắc nghề nghiệp trợ giúp pháp lý;
- Kịp thời, độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan;
- Bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý;
- Không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác từ người được trợ
giúp pháp lý;
- Ngoài ra, Luật này cũng quy định các chính sách của Nhà nước về trợ
giúp pháp lý gồm có: Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà
nước có chính sách để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội, Nhà nước có chính sách nâng cao chất lượng trợ giúp
pháp lý, thu hút các nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý, Nhà nước hỗ trợ,
khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia,
đóng góp cho hoạt động trợ giúp pháp lý.
Vậy TGPL cần được hiểu là việc nhà nước, các tổ chức xã hội và các cá
nhân thực hiện cung ứng các dịch vụ pháp lý miễn phí hoặc có chi phí nhưng
thấp hơn giá trị của dịch vụ qua các hình thức: đại diện, bào chữa, tư vấn pháp
luật và các loại hình giúp đỡ pháp lý khác cho những đối tượng nhất định.
8
Từ các thuộc tính nêu trên và những hình thức thể hiện cụ thể của
TGPL, khái niệm của TGPL cần được hiểu là:
Việc cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí hoặc giảm chi phí cho
những đối tượng nhất định hoặc trong những trường hợp cần thiết
nhằm bù đắp, bảo vệ quyền lợi cho người thụ hưởng, giúp họ có
điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp được hiến pháp và pháp luật quy định [16, tr.82].
Theo Luật trợ giúp pháp lý 2017 quy định như sau:
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của
Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong
tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật [27, Điều 2].
Trên cơ sở các quan điểm về TGPL và căn cứ theo điều 2 Luật trợ giúp
pháp lý năm 2017, có thể hiểu khái niệm TGPL cho người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi bị buộc tội như sau: TGPL cho người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí theo quy định của
luật TGPL dưới hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài
tố tụng, hoà giải,…. Nhằm giúp những người này tiếp cận với các dịch vụ
pháp lý, qua đó họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần
vào việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm
công bằng xã hội, phòng ngừa hạn chế việc vi phạm pháp luật ở người có độ
tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Khái niệm này đề cập đến mục đích và ý nghĩa của hoạt động TGPL
là sự giúp đỡ miễn phí tạo cho mọi công dân có quyền bình đẳng trước
pháp luật và thực hiện công bằng cho xã hội. Khái niệm bao hàm tương đối
đầy đủ về phạm vi, chủ thể, đối tượng của hoạt động TGPL và đã thực hiện
9
được một cách toàn diện những thuộc tính chung, bản chất của hoạt động
TGPL tại Việt Nam.
Theo Điều 40 Công ước quyền trẻ em đề cập đến NCTNPT là trẻ em có
hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Điều 37 còn đề cập đến khái niệm trẻ em
bị tước tự do. Khái niệm này có thể được hiểu là NCTNPT bị tước tự do.
Ngoài các khái niệm trên, một thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng bởi
một số cơ quan nhân quyền LHQ và tổ chức quốc tế khác, đó là trẻ em làm
trái pháp luật, NCTN vi phạm pháp luật. Theo UNICEF, NCTN làm trái với
pháp luật là những người dưới 18 tuổi phải làm việc với hệ thống tư pháp do
bị nghi ngờ hay bị cáo buộc là phạm tội.
Cũng có quan điểm cho rằng, NCTN vi phạm pháp luật hay làm trái
pháp luật được hiểu là “những người dưới 18 tuổi đã bị phát hiện hoặc bị tố
cáo là đã thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật (hành chính hoặc hình sự)”.
Như vậy, khái niệm NCTN vi phạm pháp luật có nội hàm rộng hơn
niệm
NCTNPT, do vi phạm pháp luật không có nghĩa chỉ bao gồm pháp luật hình
sự mà có thể là vi phạm hành chính, dân sự [28]. Tại Công ước về trẻ em của
UNICEF, thì lứa tuổi từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội rơi vào nhóm
những người chưa thành niên phạm tội. Mặc dù những người vi phạm pháp
luật trong lứa tuổi này có thể là hành vi vi phạm luật khác, nhưng trong giới
hạn luận văn chúng ta chỉ tìm hiểu các vấn đề liên quan đến việc vi phạm
pháp luật hình sự
Tại Việt Nam, đối tượng từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là đối tượng
chưa thành niên. Trong Luật Thanh niên năm 2020, tại điều 1 quy định:
“Thanh niên là công dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến 30tuổi”. Đây là đối
tượng được Nhà nước vô cùng quan tâm và chú ý đặc biệt do những đối tượng
này là nguồn lao động dự trữ có trình độ và quyết định đến định hướng phát
triển của đất nước, nên mỗi chính sách giáo dục, quyết định về pháp luật trong
10
lứa tuổi thanh niên phải được xem xét một cách kĩ lượng cẩn trọng. Chính vì
vậy, việc giáo dục thuyết phục đối tượng này khi họ phạm tội là hết sức cần
thiết và được ưu tiên, tránh áp dụng máy móc các biện pháp cưỡng chế trong
luật hình sự.
Trong luật TGPL năm 2017 quy định tại khoản 5 điều 7 đã ghi nhận
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội là một nhóm đối tượng yếu
thế cần được Nhà nước TGPL.
Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng thì NCTNPT là người
từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực TNHS chưa đầy đủ, hạn chế bởi
các đặc điểm tâm sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [7].
Sau khi làm rõ đối tượng từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi được quy định trong
luật, điều ước quốc tế, thì cần phải làm rõ từ khóa “bị buộc tội” để đưa ra một
khái niệm chi tiết và đầy đủ về “Người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc tội”.
Buộc tội là hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm.
Cùng với chức năng bào chữa, chức năng xét xử, buộc tội là một trong những
chức năng được thực hiện trong giải quyết vụ án hình sự. Việc buộc tội được
thực hiện trong suốt quá trình tố tụng hình sự từ khi khởi tố bị can cho đến khi
bản án buộc tội có hiệu lực pháp luật.
Từ những lí luận trên ta có thể đưa ra khái niệm về người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi bị buộc tội như sau: Người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi bị buộc
tội là những người trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi bị cơ quan tiến
hành tố tụng buộc tội do xâm phạm đến mối quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
11
1.1.2. Khung trợ giúp pháp lý cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi bị buộc tội
Căn cứ vào văn bản pháp luật về TGPL ở Việt Nam hiện nay, chủ yếu
là luật TGPL năm 2017 có thể đưa ra khái niệm về TGPL cho người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi như sau:
TGPL cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị buộc tội là việc
cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí hoặc có chi phí thấp theo quy
định của luật TGPL dưới hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố
tụng, đại diện ngoài tố tụng, hoà giải, … . Nhằm giúp những người
này tiếp cận với các dịch vụ pháp lý, qua đó họ có thể bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức
tôn trọng và chấp hành pháp luật, góp phần vào việc phổ biến,
tuyên truyền, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công
bằng xã hội, phòng ngừa hạn chế việc vi phạm pháp luật ở người có
độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi [27].
Xuất phát từ tính chất, nội dung và yêu cầu của TGPL, các quan hệ
pháp luật về TGPL, thì pháp luật TGPL cho người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi quy định đến các vấn đề liên quan trực tiếp đến TGPL và đối tượng được
TGPL để điều chỉnh hoạt động TGPL. Mọi quy phạm pháp luật có liên quan
đến quy định về TGPL tách riêng và lập thành hệ thống pháp luật và được
xem xét dưới một khung pháp luật về đối tượng này. Vì thế đây là đặc điểm
cơ bản nhất làm cho khung pháp luật đối với TGPL cho người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi bị buộc tội dễ nhận biết và phân biệt khung pháp lý với các
đối tượng khác.
Khung pháp lý đầu tiên cần phải nhắc đến đó là Luật TGPL năm 2017
đây chính là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng ghi nhận quyền được
TGPL đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Bên cạnh đó cũng có các
12
- Xem thêm -