Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Trò chơi vận động và ném bóng nhỏ và phương pháp giảng dạy dành cho đại học giáo...

Tài liệu Trò chơi vận động và ném bóng nhỏ và phương pháp giảng dạy dành cho đại học giáo dục thể chất

.PDF
43
267
73

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT & QUỐC PHÒNG GIÁO TRÌNH (Lƣu hành nội bộ) “TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG, NÉM BÓNG NHỎ VÀ PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY” (Dành cho Đại học Giáo dục thể chất) Tác giả: Nguyễn Quang Hòa Năm 2017 1 MỤC LỤC Lời nói đầu 3 CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT 4 1.1. Trò chơi vận động 4 1.1.1. Lịch sử phát triển của trò chơi vận động 4 1.1.2. Phƣơng pháp biên soạn và sáng tác trò chơi vận động 7 1.2. Ném bóng nhỏ 9 1.2.1. Kỹ thuật ném bóng nhỏ có chạy đà 9 1.2.2. Phƣơng pháp giảng dạy kỹ thuật ném bóng nhỏ 14 1.2.3. Luật và phƣơng pháp trọng tài môn ném bóng nhỏ 15 CHƢƠNG 2. THỰC HÀNH 17 2.1. Trò chơi vận động và phƣơng pháp giảng dạy 17 2.1.1. Thực hành các trò chơi dân gian và PP giảng dạy 17 2.1.2. Thực hành các trò chơi hiện đại và PP giảng dạy 22 2.1.3. Thực hành các trò chơi trong chƣơng trình THCS và PP giảng dạy 26 2.1.4. Tổ chức hội thi trò chơi vận động 31 2.2. Ném bóng nhỏ và phƣơng pháp giảng dạy 31 2.2.1. Xây dựng khái niệm (tập các động tác bổ trợ làm quen với bóng) 31 2.2.2. Tập các động tác bổ trợ kỹ thuật và kỹ thuật giai đoạn RSCC ném bóng 36 (không và có bóng) 38 2.2.3. Ném bóng trúng đích 2.2.4. Giảng dạy kỹ thuật 4 bƣớc cuối cùng 38 2.2.5. Giảng dạy toàn bộ kỹ thuật chạy đà 41 2.2.6. Làm quen với cách tổ chức thi đấu, trọng tài ném bóng 42 TÀI LIỆU THAM KHẢO 43 2 Lời nói đầu Mục đích của tài liệu nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức khoa học cơ bản và cần thiết về phương pháp dạy học thực hành về trò chơi vận động và ném bóng nhỏ. Góp phần tăng cường cũng cố, bồi dưỡng sức khoẻ và thể lực cho sinh viên, mở rộng nhận thức và hiểu biết, phát triển năng lực để chuẩn bị cho việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục thể chất ở trường tiểu học, trung học cơ sở. Trên cơ sở đó sinh viên có thể vận dụng vào hoạt động thực tiễn dạy học và học tập nhằm nâng cao kiến thức và năng lực thực hành các trò chơi cũng như thi đấu môn ném bóng nhỏ trong các hội thi. Thực hiện khá chính xác các kĩ thuật cơ bản động tác môn ném bóng nhỏ, tổ chức các trò chơi dân gian và hiện đại. Có khả năng hỗ trợ cho học sinh trong quá trình thực hiện kĩ thuật động tác ở các nội dung thể dục và phương pháp vận dụng linh hoạt vào thực tiễn giảng dạy cấp học.. Thể hiện ý thức tích cực, tự giác, yêu thích trong học tập môn trò chơi vận động và ném bóng nhỏ. Có thể áp dụng các kĩ thuật động tác vào các hoạt động giáo dục thể chất để duy trì lối sống lành mạnh, có tinh thần trách nhiệm với cấp học. Trong quá trình biên soạn giáo trình chúng tôi đã cô đọng, cập nhật một cách đầy đủ nhất những nội dung kiến thức cơ bản về giảng dạy môn bóng chuyền. Mặc dù đã rất cố gắng song chắc khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Trân trọng cảm ơn! 3 CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT 1.1. Trò chơi vận động 1.1.1. Lịch sử phát triển của trò chơi vận động 1.1.1.1. Nguồn gốc ra đời của trò chơi Trong quá trình phát triển của xã hội loài ngƣời, con ngƣời đã trải qua cả một thời kỳ triền miên sinh sống chủ yếu bằng săn bắn và hái lƣợm. Để tồn tại và phát triển con ngƣời đã phải lao động, tự đấu tranh chống lại những khắc nghiệt của thiên nhiên và thú dữ, chống lại bệnh tật tấn công từ mọi phía. Để duy trì sự sống của mình con ngƣời đã trải qua biết bao gian khổ đôi khi phải trả giá bằng cả sinh mạng của mình. Tuy nhiên cũng từ thực tế nghiệt ngã ấy con ngƣời đã vƣơn lên, tự cải tạo chính mình, với sức mạnh và tài trí con ngƣời đã lần lƣợt chinh phục đƣợc tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ chính mình. Từ các hoạt động có tính chất bản năng ban đầu con ngƣời đã tìm ra lửa, tìm ra tiếng nói và chữ viết, các hoạt động dần dần có ý thức nhờ vậy loài ngƣời cho đến nay ngày càng khẳng định đƣợc sự tồn tại và phát triển của mình. Trong những buổi ban đầu của xã hội loài ngƣời, bằng săn bắn và hái lƣợm, con ngƣời đã vƣợt lên mọi hiểm nguy, đạt đƣợc những hiệu quả nhất định trong lao động để duy trì sự sống. Sau những ngày làm việc con ngƣời lại tụ tập nhau bày tỏ niềm hân hoan giành đƣợc thắng lợi, ngƣời ta kể cho nhau nghe và diễn lại những chiến tích của mình qua săn bắn và hái lƣợm. Những ngƣời khác cũng tập bắt chƣớc các bậc đàn anh nhƣ phóng lao, đuổi bắt, leo trèo sao cho có hiệu quả hơn. Sự bắt chƣớc các thao tác đó đã dần dần biến thành trò chơi đó là các trò chơi với hình thức diễn lại các thao tác đơn giản trong lao động thƣờng ngày. Có nhiều quan điểm giải thích sự phát sinh và phát triển của trò chơi. Quan điểm duy tâm cho rằng mọi vật sinh ra tồn tại trên thế gian này đều do đấng tối cao sắp đặt. Ngƣời ta cho rằng ý thức có trƣớc vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất. Do vậy việc trò chơi ra đời cũng đƣợc xem nhƣ việc con ông biết múa, con cá 4 biết bơi, con chim biết hót... chỉ là sự tồn tại một cách khách quan không gì phủ nhận đƣợc. Từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, việc giải thích sự phát sinh của trò chơi đƣợc hiểu một cách toàn diện hơn. Nhƣ chúng ta đã nghiên cứu, sự xuất hiện trò chơi gắn liền một cách hữu cơ với sự tồn tại và phát triển loài ngƣời. Lao động sáng tạo là nguyên nhân sâu xa làm cho con ngƣời thoát khỏi cuộc sống bản năng của các loài vật và tồn tại cho tới ngày nay. Sự cần thiết của việc con ngƣời phải truyền lại cho nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác về kinh nghiệm sống để chinh phục thế giới tự nhiên, bắt nó phục vụ lợi ích cho con ngƣời. Con ngƣời đã tìm ra lửa, tiếng nói, chữ viết, hoạt động ý thức chỉ có ở con ngƣời đã làm cho con ngƣời trở thành chủ thể cao nhất trong xã hội. Việc ra đời của trò chơi chính là sự thoả mãn tất yếu nhu cầu về mặt tinh thần của con ngƣời. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định "vật chất có trƣớc, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức". Trong xã hội phát triển trò chơi không chỉ thoả mãn cho con ngƣời nhu cầu về tinh thần mà thực chất nó đã là một trong những phƣơng tiện để giáo dục và giáo dƣỡng thể chất. Ngày nay trò chơi đƣợc phân loại và sử dụng trong giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, rèn luyện và năng cao sức khoẻ cho con ngƣời và các trò chơi vận động đƣợc những ngƣời làm công tác giáo dục hết sức quan tâm. Trò chơi vận động là một trong những phƣơng tiện giáo dục thể chất, hoạt động xã hội của nó bao hàm tính quy tắc và diễn ra trong một không gian và thời gian đƣợc xác lập. 1.1.1.2. Vị trí, tính chất, ý nghĩa, tác dụng của trò chơi a. Vị trí, tính chất Các hình thức giáo dục thể chất có sự quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy trong việc giáo dục thể chất, trò chơi là một phƣơng pháp tập luyện, hoạt động phối hợp một cách hữu cơ với việc rèn luyện thân thể. Căn cứ vào đặc điểm phát triển cơ thể, tâm lý và sinh lý khác nhau của học sinh từng cấp học, lớp học cụ thể mà trò 5 chơi có vị trí quan trọng. Trong mỗi nội dung chƣơng trình cấp học, trò chơi có nội dung và chƣơng trình khác nhau. Trò chơi là một hình thức giáo dục thể chất đƣợc vận dụng trong gia đình, vƣờn trẻ, trong các trƣờng phổ thông các cấp, các trƣờng chuyên nghiệp, trung cao cấp trong quân đội v.v… Trong các trƣờng phổ thông tiểu học, trò chơi chiếm vị trí quan trọng trong chƣơng trình giảng dạy thể dục, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lớp tuổi góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh sự phát triển toàn diện cơ thể học sinh.Các hoạt động ngoại khoá và nội khoá, trong trƣờng phổ thông tiểu học ở mức độ nào đó trò chơi là biện pháp giáo dục thể lực chính, các môn thể dục khác chỉ là biện pháp bổ trợ. b. ý nghĩa và tác dụng của trò chơi Đối với học sinh tiểu học đƣợc sở dụng tích cực để giảng dạy những động tác, kỹ năng vận động cơ bản nhƣ đi, chạy, nhảy, ném, vƣợt chƣơng ngại vật …Nội dung trò chơi ở các lứa tuổi có sự khác nhau. ở các lớp đầu cấp tiểu học trò chơi theo xu hƣớng nhằm hình thành các thói quen vận động, khả năng giao tiếp, các mối quan hệ cá nhân với tập thể, tạo cho học sinh môi trƣờng hoạt động tự nhiên, qua đó góp phần nâng cao sức khoẻ cho học sinh. Trò chơi còn là một phƣơng tiện vui chơi giải trí, giải toả tâm lý tạo nên sự lạc quan yêu đời, vui tƣơi thoả mái, góp phần giảm cảm giác căng thẳng thần kinh, giảm và chống đỡ đƣợc một số bệnh tật. Ở trong phạm vi tài liệu này chúng tôi chủ yếu đặt vấn đề nghiên cứu trò chơi vận động, một lĩnh vực vui chơi tƣơng đối toàn diện nhằm đặt đƣợc mục đích của ngƣời giáo dục nhất là trong lĩnh vực giáo dục thể chất. Việc phân loại trò chơi vận động cũng có rất nhiều quan điểm của các tác giả khác nhau, kế thừa các quan điểm đó chúng tôi phân loại trò chơi vận động trên cơ sở một số căn cứ sau: 6 - Căn cứ vào đặc điểm thao tác của hoạt động ta phân trò chơi thành các loại: Đi bộ, chạy, nhảy, ném, leo trèo, mang vác... cách phân loại này nhằm phát triển những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. - Căn cứ vào mục đích giáo dƣỡng các tố chất thể lực nhƣ: sức nhanh, sức mạnh, mềm dẻo, sức bền và tính khéo léo. Cách phân loại này nhằm cũng cố và phát triển những tố chất cần thiết riêng biệt tuỳ vào mục đích của ngƣời hƣớng dẫn vui chơi, góp phần hoàn thiện những kỹ năng kỹ xảo cần thiết cho cuộc sống. - Căn cứ vào nghề nghiệp mà ta có các trò chơi bổ trợ cho một nghề nghiệp hay một môn thể thao nào đó nhƣ: Trò chơi bổ trợ bóng chuyền, bóng rổ, điền kinh..., trò chơi xây dựng, trò chơi quân sự. - Căn cứ vào môi trƣờng hoạt động mà ta có các trò chơi dƣới nƣớc, các trò chơi trên cạn... Có nhiều tác giả lại căn cứ vào khối lƣợng vận động để phân chia các nhóm trò chơi tĩnh, trò chơi vận động hoặc phân theo các nhóm chính, phụ... Nói tóm lại sự phân loại trong trò chơi vận động là rất đa dạng và tƣơng đối phức tạp bởi tính mục đích và tác dụng rất rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau. Do vậy chúng tôi đƣa ra một số cách phân loại nhƣ trên cũng chỉ là tƣơng đối, trong thực tế tuỳ thuộc vào các khuynh hƣớng vận dụng mà ngƣời điều khiển làm sao cho trò chơi vận động đạt đƣợc mục đích ý nghĩa của nó nhƣ một phƣơng tiện để giáo dục thể chất và giải trí cho con ngƣời. 1.1.2. Phƣơng pháp biên soạn và sáng tác trò chơi vận động Xác định căn cứ khi biên soạn và sáng tác một trò chơi vận động - Căn cứ vào mục đích và tác dụng khi sáng tác một trò chơi vận động, khi ấy trò chơi vận động mới đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời hƣớng dẫn vui chơi - Căn cứ vào đối tƣợng, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp của ngƣời chơi để sáng tác trò chơi phù hợp với mục đích của đối tƣợng tập luyện. 7 - Căn cứ vào điều kiện cơ sở vật chất. Đó chính là địa điểm, dụng cụ, sân bãi, và các điều kiện tập luyện khác. Khi sáng tác một trò chơi phải thỏa mãn các điều kiện đảm bảo để trò chơi có thể thực hiện một cách triệt để. Các bước tiến hành khi biên soạn và sáng tác một trò chơi vận động a. Đặt tên cho trò chơi: Tên trò chơi phải ngắn gọn thể hiện đƣợc trò chơi mà chúng ta sẽ tiến hành, đôi khi tên trò chơi rất ngộ nghĩnh và gây cƣời. b. Mục đích tác dụng: Nêu mục đích tác dụng cụ thể của trò chơi nhằm giáo dục tố chất hay bổ trợ chuyên môn cho một môn thể thao nào chẳng hạn... c. Chuẩn bị: Nêu rõ trò chơi cần phải chuẩn bị những điều kiện vật chất nhƣ thế nào: Sân bãi , kích thƣớc, dụng cụ: bóng, lƣới, khăn, còi... để trò chơi có thể tiến hành đƣợc. d. Phƣơng pháp tiến hành một trò chơi: tuần tự thực hiện các bƣớc: chia đội, phƣơng hƣớng di chuyển, thao tác, thực hiện các yêu cầu của giáo viên đề ra. Kết thúc một lần chơi ra sao? e. Luật chơi: Là những quy ƣớc của ngƣời điều khiển vui chơi, bắt buộc ngƣời chơi phải thực hiện một cách nghiêm ngặt. Luật đôi khi là một biện pháp để giáo dục, cũng có đôi khi là một hình phạt mang tính chất vui vẻ bắt buộc ngƣời tập phải chấp hành nhƣ một cuộc đấu thể thao thực sự. f. Đánh giá kết quả cuộc chơi Sau mỗi lần hoặc một số lần cho học sinh chơi cần nhận xét, đánh giá cuộc chơi. Để đánh giá thực chất của cuộc chơi, giáo viên phải thống kê những ƣu điểm, khuyết điểm của từng đội. Cụ thể về thời gian đội nào hoàn thành trƣớc, ít vi phạm luật lệ, đội hình đội ngũ có vi phạm kỹ luật không... Dựa vào yêu cầu nội quy chơi, kết quả cuộc chơi giáo viên phân loại thắng thua thật công bằng. Giáo viên phải hết sức lƣu ý vấn đề này vì đôi khi giáo viên nêu yêu cầu và luật lệ chơi quá khắt khe, nhƣng khi đánh giá cuộc chơi lại quá đại khái, không chính xác hoặc không công bằng, do đó làm cho học sinh mất hứng 8 thú, đôi khi học sinh biểu lộ sự phản đối với sự đánh giá đó và không chấp nhận kết luận của sự điều khiển. Có thể nói điều khiển tiến trình một cuộc chơi nhất là đối với học sinh tiểu học luôn hiếu động và mức độ hiểu biết còn hạn chế sao cho sôi nổi, sinh động và hấp dẫn, lôi cuốn đƣợc học sinh tham gia chơi một cách thích thú là nghệ thuật của nhà sƣ phạm. 1.2. Ném bóng nhỏ 1.2.1. Kỹ thuật ném bóng nhỏ có chạy đà 1.2.1.1. Cách cầm bóng và tư thế chuẩn bị a. Cách cầm bóng: Cầm bóng bằng tay thuận. Bàn tay cầm bóng không để bóng lên gan bàn tay (hõm giữa của lòng bàn tay), mà để bóng tỳ lên các chai tay (phần nối tiếp giữa lòng bàn tay và các ngón tay) chủ yếu ở chai tay các ngón trỏ, giữa và ngón áp út (ngón nhẫn), năm ngón tay chia đều ra giữ lấy bóng. Tay cầm bóng co, giơ cao khuỷu tay hƣớng chếch xuống dƣới - về trƣớc - ra ngoài sao cho độ cao của bóng cao tƣơng đƣơng độ cao của tai, cách tai khoảng 5cm và cách ngực (bờn tay thuận) khoảng 10 - 20cm. Nhƣ vậy khuỷu tay không hƣớng thẳng xuống đất để trọng tâm của bóng cách xa đƣờng trọng tâm của cơ thể. Lòng bàn tay cầm bóng hƣớng về trƣớc hoặc hƣớng vào thân. Bàn tay cầm bóng cần giữ bóng cho chắc, không để bóng di động trong lòng bàn tay, nhƣng lại không ôm chặt quá vào quả bóng và lên gân cứng bàn tay, và nhƣ vậy sẽ mất tự nhiên, tốn sức không cần thiết, khi ném khó điều khiển bóng và nhanh mỏi. b. Tư thế đứng chuẩn bị: Cú 2 kiểu đứng chuẩn bị: Đứng chân trƣớc chõn sau và đứng hai chân song song. Ngoài hai cách đứng chuẩn bị cơ bản nhƣ trên, có một số ngƣời có thói quen cầm búng đi bộ hoặc chạy nhẹ nhàng vài bƣớc trƣớc khi đến vạch xuất phát. Trong trƣờng hợp này, tƣ thế đứng chuẩn bị của vận động viên thƣờng rất tuỳ tiện, chính 9 vì vậy khi đến vạch xuất phát để chính thức chạy xuất phát thì không xác định rõ chân nào trƣớc, chân nào sau, từ đó dễ dẫn đến nhầm đà ở chỗ định chạy các bƣớc đà chéo. 1.2.1.2. Chạy đà Giai đoạn chạy đà gồm có hai phần: Xuất phát và chạy tăng tốc, chạy các bƣớc đà chéo. a. Xuất phát và chạy tăng tốc Khi chuẩn bị xuất phát, thân ngƣời ngã về phía trƣớc, sau đó bƣớc chân sau về trƣớc, tiếp đến chân trƣớc và chạy tăng dần tốc độ, các bƣớc chạy kế tiếp cần bƣớc dài dần ra. Muốn vậy phải tích cực đạp chân sau và chủ động nâng đùi vƣơn cẳng chân về phía trƣớc, chạm đất bằng nữa bàn chân trên. Tay cầm bóng vẫn giữ bóng ở trên cao nhƣ khi đứng chuẩn bị, tay không cầm búng co ở khuỷu tay và đánh tay tự nhiên để giữ thăng bằng. Nếu đứng chuẩn bị ở tƣ thế hai chân đứng song song, thì bƣớc chân đối chiều với tay cầm bóng về trƣớc (nếu cầm bóng tay phải thì bƣớc chân trái về trƣớc). Muốn vậy đầu tiển hơi dồn trọng tâm cơ thể sang chân cùng phía với tay cầm bóng và hơi co gối để ngả thân trên về trƣớc rồi mới bƣớc chân về phiaa trƣớc. Sau khi xuất phát, tốc độ chạy tăng dần cho đến khi đạt đƣợc tốc độ hợp lý, thì duy trì tốc độ đó cho đến khi thực hiện các bƣớc đà chéo. Chú ý, tốc độ hợp lý ở đây có nghĩa là tốc độ không nên nhanh quá, bởi vì nếu nhanh quá thì việc thực hiện các bƣớc đà chéo sẽ gặp khó khăn và sẽ xảy ra tình trạng cơ thể không kịp thực hiện các bƣớc đà chéo hoặc thực hiện các bƣớc đà chéo trong tình trạng tốc độ giảm dần nhƣ vậy hiệu quả ném sẽ không cao. Ngƣợc lại nếu chạy chậm quá, thì khi thực hiện các bƣớc đà chéo sẽ dể hơn, nhƣng do tốc độ chạy đà chậm nên không tạo đƣợc đà trƣớc khi ném ở mức độ hợp lý, nên hiệu quả ném sẽ không cao. Tốc độ chạy đà hợp lý và cự li cần chạy để tăng tốc trƣớc khi chạy các bƣớc đà chéo phụ thuộc vào khả năng và trình độ tập luyện của từng ngƣời. Khi tập luyện nhiều, trình độ kỹ thuật và thể lực đƣợc nâng dần lên thì tốc độ chạy đà cũng đƣợc 10 nâng lên. Do đó chăm chỉ, kiên trì tập luyện là điều cần thiết và chắc chắn hiệu quả đạt đƣợc sẽ đƣợc nâng cao. Phần chạy tăng tốc độ với học sinh lớp 6 - 7 khoảng 8 - 12m, với học sinh lớp 8 - 9 cú thể 15 - 20m hoặc hơn một chút, đối với sinh viên có thể chạy 18 - 25m. b. Chạy các bước đà chéo Cần xác định đoạn chạy các bƣớc đà chéo và đánh dấu điểm bắt đầu chạy bƣớc đầu tiên, cần điều chỉnh sao cho tìm ra đƣợc đoạn đƣờng chạy bƣớc chéo hợp lý nhất. Sau khi chạy tăng tốc đạt đƣợc tốc độ cao hợp lý, thì duy trì tốc độ đó cho đến khi thực hiện các bƣớc đà chéo bằng cách duy trì tần số và cự li của mỗi bƣớc chạy. Khi đến điểm bắt đầu thực hiện các bƣớc đà chéo, thì thứ tự thực hiện nhƣ sau: - Bước thứ nhất: Bƣớc chân cùng bên với tay cầm bóng về trƣớc, khi bàn chân chạm đất để cả bàn chân chạm đất và mũi bàn chân hơi chếch ra ngoài so với hƣớng chạy đà để chuẩn bị cho bƣớc thứ hai thực hiện đƣợc dễ dàng. Khi bƣớc chân về trƣớc, tay cầm búng đồng thời duỗi ra về trƣớc vòng xuống dƣới. - Bước thứ hai: Bƣớc chân không cùng bên với tay cầm bóng về trƣớc bằng cách đƣa vùng hông cùng bên và má ngoài bàn chân theo hƣớng chạy, sau đó đặt bàn chân chạm đất, mũi bàn chân hơi chếch sang phía tay cầm bóng. Đồng thời với bƣớc chân về trƣớc là động tác xoay ngực từ ngực hƣớng theo hƣớng ném (hƣớng chạy đà) thành vai hơi chếch theo hƣớng ném. Tay cầm bóng tiếp tục đƣa xuống thấp ra sau, tay không cầm bóng đƣa về trƣớc. - Bước thứ ba: Bƣớc chân cùng bên với tay cầm bóng về trƣớc bằng cách vƣơn nhanh cẳng chân và má trong bàn chân về trƣớc. Khi bàn chõn chạm đất, thì cả bàn chân chạm đất nhƣng phần má ngoài tì xuống đất mạnh hơn và mũi bàn chân hƣớng chếch ra ngoài khoảng 45 - 500. Tay cầm bóng tiếp tục đƣa ra sau lên cao, tay không cầm búng tiếp tục đƣa về phía trƣớc. Bƣớc thứ ba thƣờng ngắn, nhƣng phải rất nhanh, chính do động tác vƣơn nhanh bàn chân và cẳng chân về 11 trƣớc chạm đất, mà không vƣơn hông về trƣớc, nên trọng tâm cơ thể lúc này còn ở phía sau, thân trên ngã ra sau theo chiều lƣờn hƣớng về hƣớng ném, nên lúc này thân ngƣời và chân trƣớc (chân cùng bên với tay cầm bóng) tạo thành một đƣờng chếch nghiêng ra sau, mặt quay về hƣớng ném. Cần chú ý là thân trên ngã ra sau chủ yếu do bƣớc nhanh chân cùng bên về trƣớc nhƣng không vƣơn hông về trƣớc tạo nên chứ không phải do chủ động ngã thân trên ra sau. Ở hai bƣớc đà chéo thứ nhất và thứ hai thân trên vẫn hơi ngã về trƣớc, mặc dù ở bƣớc thứ hai vai đã hơi hƣớng về hƣớng ném, nhƣng trọng tâm cơ thể ở hai bƣớc đà này so với thân trên và vai của tay cầm bóng vẫn ở phía sau, riêng bƣớc thứ ba trọng tâm cơ thể lại ở phía trƣớc. Điều này đòi hỏi bƣớc thứ hai phải bƣớc dài, bƣớc thứ ba bƣớc ngắn hơn nhƣng phải rất nhanh sao cho trọng tâm cơ thể không đƣợc vƣợt lên bằng hoặc trƣớc điểm chạm đất của bàn chân cùng phía với tay cầm bóng. Nếu để điều đó xảy ra thì ở bƣớc thứ tƣ sẽ không thực giện đƣợc động tác căng thân ngƣời theo hình cánh cung, mức độ sử dụng sức của tay - ngực và tổng lực sẽ thấp, góc độ ném sẽ nhỏ và thành tích không thể cao đƣợc. - Bước thứ tư: Vƣơn nhanh chân và vung hông không cùng bên với tay cầm bóng về trƣớc rồi chạm đất bằng cả bàn chân hay từ gót chân chuyển sang cả bàn chân, hƣớng bàn chân chếch sang phía tay cầm bóng. Khi chân trƣớc đó vƣơn về trƣớc, thì chân sau xoay gót đồng thời xoay ngực để chuyển sang giai đoạn ra sức cuối cùng. Nhƣ vậy ở 4 bƣớc đà chéo, vị trí của ngực so với hƣớng ném có thay đổi nhƣ sau: ở bƣớc thứ nhất ngực vẫn hƣớng về hƣớng ném, ở bƣớc thứ hai ngực đó hơi hƣớng chếch sang bên, ở bƣớc thứ ba ngực hƣớng hẳn sang bên, vuông góc với hƣớng chạy đà và vai phía tay không cầm bóng hƣớng về hƣớng ném, ở bƣớc thứ tƣ ngực lại đƣợc xoay hƣớng về hƣớng ném nhƣng hơi chếch lên cao do động tác tƣ thế căng thân ở giai đoạn ra sức cuối cùng. c. Ra sức cuối cùng Giai đoạn ra sức cuối cùng bắt đầu từ khi chân không cùng bên với tay cầm bóng về trƣớc. Tiếp theo chân sau đạp mạnh xuống đất sau đó xoay gót chân đồng 12 thời xoay ngực từ vai hƣớng ném thành ngực quay về hƣớng ném. Do động tác xoay gót chân và xoay ngực, nên thân ngƣời cùng với tay cầm bóng và chân sau ƣỡn cong và căng nhƣ một cánh cung. Lúc này ngƣời ném đặt châ trƣớc chạm đất sau đó gập mạnh và nhanh thân trên về trƣớc phối hợp đồng thời với dùng hết sức của tay - ngực, của toàn thân, của cẳng tay, cổ tay và các ngón tay để ném lên cao ra xa về trƣớc và lái bóng vào sân quy định. Đồng thời với tay cầm bóng ném bóng về trƣớc, thì tay không cầm bóng co lại và đánh khuỷu tay ra phía sau để tạo thuận lợi cho động tác ném. Tất cả các động tác trên phải hết sức nhanh, mạnh, phối hợp chính xác lực do chạy đà, do đạp chân sau tạo nên với sức mạnh của cơ vai, cơ ngực, cơ cánh tay, độ linh hoạt của khớp cổ tay và sự điều khiển khéo léo của các ngón tay vào bóng tạo nên để đƣa bóng đi đúng góc độ, thì hiệu quả đạt đƣợc mới cao. Nếu thực hiện chậm, không thực hiện đƣợc động tác cánh cung, thì sự phối hợp tổng hợp lực lên bóng sẽ hạn chế và hiệu quả sẽ thấp. Giai đoạn ra sức cuối cùng là giai đoạn cơ bản, quan trọng nhất mang ý nghĩa quyết định trong ném bóng xa. Ở đây sức mạnh tay - ngực và sự phối hợp chính xác ăn nhịp hàng loạt các thao tác với tốc độ do chạy đà đạt đƣợc là những yếu tố quyết định. Do đó cần phải tập luyện một cách kĩ càng hai giai đoạn chạy và ra sức cuối cùng, đồng thời phải tăng cƣờng tập luyện các bài tập phát triển chung và phát triển sức mạnh tay - ngực cũng nhƣ tốc độ. d. Giữ thăng bằng Do chạy đà và động tác vƣơn thân trên để ném bóng lên cao về trƣớc, nên sau khi ném trọng tâm cơ thể tiếp tục di chuyển về trƣớc theo quán tính. Nếu để ngƣời di chuyển ra ngoài vạch giới hạn sẽ bị phạm quy và nhƣ vậy thành tích dù cao đến đâu cũng không đƣợc công nhận. Chính ví vậy phải thực hiện động tác kimm, giữ sự di chuyển của trọng tâm cơ thể bằng một trong hai động tác thăng bằng dƣới đây: - Giữ thăng bằng bằng chân trước: Sau khi nộm, đáng lý chân cùng phía với tay cầm bóng co về trƣớc, thì lại không co về trƣớc mà hất ra sau lên cao. Thân trên 13 ngả nhiều về trƣớc theo hƣớng đẩy trọng tâm lại phía sau, đồng thời mũi bàn chân và má ngoài bàn chân trƣớc bấm xuống mặt đƣờng chạy đẩy ngƣợc chiều lại, hai tay phối hợp tự nhiên để giữ thăng bằng. Đây là cách giữ thăng bằng tự nhiên và phổ biến nhất đối với ngƣời có trình độ tập luyện thấp nhƣ học sinh trung học cơ sở, vì tốc độ chạy đà chậm và khi sử dụng sức ở giai đoạn ra sức cuối cùng chƣa mạnh lắm. - Giữ thăng bằng kiểu nhảy đổi chân: Khi gập thân trên để ném bóng thì chân sau cũng co về trƣớc theo phản xạ tự nhiên sau đó đặt má ngoài và cả bàn chân chạm đất, đồng thời hất chân phía hông cùng bên với tay cầm bóng từ trƣớc ra sau lên cao, ngả thân trên về trƣớc và dùng má ngoài bàn chân đẩy ngƣợc lại, hai tay phối hợp tự nhiên để giữ thăng bằng. Cách đổi chân nhƣ vậy nhƣ một bƣớc nhảy đổi chỗ của hai bàn chân, vì bàn chân trƣớc đƣợc hất ra sau lên cao, thì bàn chân sau đƣợc đƣa về trƣớc thay thế vào vị trí đó hoặc hơi về trƣớc một chút, nên gọi là kiểu nhảy đổi chân. Đây là cách giữ thăng bằng với ngƣời có tốc độ chạy đà cao, trình độ tập luyện lâu năm và khả năng dùng sức ở giai đoạn ra sức cuối cùng mạnh. 1.2.2. Phƣơng pháp giảng dạy kỹ thuật ném bóng nhỏ Cần giảng dạy từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, dạy từ cái đã biết đến cái chƣa biết vì vậy nếu dạy phổ thông thì dạy cho học sinh từ ném trúng đích rồi ném xa có đà. Khi dạy ném trúng đích, giáo viên có thể sử dụng đích là một vật nằm trên mặt đất hoặc nhƣ vòng tròn ở trên tƣờng (bằng gỗ). Nhƣng tốt hơn cả là tạo đích là một vòng tròn có lƣới để bóng trúng đích nằm trong lƣới. Dƣới đây là trình tự dạy hoàn chỉnh kỹ thuật ném bóng xa có đà. Nhiệm vụ 1: Xây dựng khái niệm kỹ thuật thông qua các biện pháp sau: - Giáo viên làm mẫu phân tích kỹ thuật động tác. - Cho học sinh xem tranh ảnh kỹ thuật, phim hoặc băng video. 14 - Dạy cách cầm bóng và tƣ thế đứng chuẩn bị - Tập các động tác khởi động chuyên môn về ném bóng. - Tập ném chính diện ở cự li gần. Nhiệm vụ 2: Dạy kỹ thuật ra sức cuối cùng thông qua các biện pháp sau: - Học kỹ thuật giai đoạn ra sức cuối cùng. - Tập đạp chân trụ đẩy hông và xoay vai (có và không có ngƣời giúp đỡ). - Thực hiện ra sức cuối cùng có và không có bóng. Nhiệm vụ 3: Dạy kỹ thuật ra sức cuối cùng kết hợp giữ thăng bằng. - Tại chỗ kết hợp ra sức cuối cũng với giữ thăng bằng có và không có bóng. - Ra sức cuối cùng ném bóng ra xa và giữ thăng bằng. Nhiệm vụ 4: Dạy kỹ thuật chạy đà - Dạy kỹ thuật giai đoạn chạy đà (đi bộ thực hiện các bƣớc đà chéo). - Chạy nhẹ nhàng thực hiện 4 bƣớc cuối cùng. - Tập chạy toàn đà thực hiện 4 bƣớc cuối cùng. Nhiệm vụ 5: Phối hợp hoàn chỉnh kỹ thuật - Bƣớc đầu phối hợp 4 giai đoạn kỹ thuật ném bóng. - Thực hiện toàn bộ kỹ thuật với tốc độ chậm và trung bình. - Phối hợp nâng dần tốc độ ném bóng xa có đà Nhiệm vụ 6: Kiểm tra đánh giá kết quả 1.2.3. Luật và phƣơng pháp trọng tài môn ném bóng nhỏ Hệ thống tính điểm trong tổ chức thi đấu rất dễ hiểu và không cần bất kỳ hệ thống máy tính nào, hay bất kỳ hiểu biết chuyên sâu nào về luật chơi. Cách tính rất 15 đơn giản và sẽ đƣợc thông báo trong vòng 2 phút sau khi môn thi kết thúc. Không cần bảng điện tử. Tóm lại, hệ thống tính điểm dựa trên các quy tắc sau: - Điểm tối đa phụ thuộc vào đối tƣợng tham gia trong cùng một nhóm tuổi. - Ngay khi môn thi kết thúc toàn bộ kết quả sẽ đƣợc thông báo trên bảng điểm. - Nếu hai đội hay nhiều hơn có kết quả bảng nhau thì các đội có cùng chung điểm số thƣơng ứng với kết quả đó. Đội kế tiếp đƣợc xếp sau vị trí của các đội bằng nhau. - Đội chiến thắng là đội có tổng điểm cao nhất. Cách tính điểm ở môn ném: Mỗi thí sinh đều tham gia phần thi với số lần quy định. Tổng số điểm của những lần xuất sắc nhất của các thành viên đƣợc tính là kết quả của mỗi đội ở môn thi. Điểm đƣợc tính và ghi vào bảng điểm. Cách đo thành tích: Phƣơng pháp đo bằng thƣớc dây đƣợc sử dụng. khoảng cách luôn đƣợc đo vuông góc từ vạch ném tới điểm rơi cảu vật. Khi điểm rơi nằm ở giữa khoảng thì số đo cao hơn đƣợc tính cho ngƣời ném. 16 CHƢƠNG 2. THỰC HÀNH 2.1. Trò chơi vận động và phƣơng pháp giảng dạy 2.1.1. Thực hành các trò chơi dân gian và phƣơng pháp giảng dạy Các trò chơi dân gian là những trò chơi đƣợc truyền từ đời này sang đời khác theo hình thức bắt chƣớc các con vật, các hành động trong cuộc sống. CON VẬT BIẾT KÊU 1. Mục đích, tác dụng: Bồi dƣỡng, cũng cố những hiểu biết của ngƣời chơi về thế giới động vật. Phát triển phản xạ ngôn ngữ và phản xạ vận động có lựa chọn (phản xạ vận động phức tạp). Giáo dục tính tự giác chấp hành luật lệ và tinh thần trách nhiệm cho ngƣời chơi. 2. Công tác chuẩn bị Sân rộng chừng 20mx20m. Số ngƣời tham gia chơi khoảng 20 - 30 ngƣời. Tất cả đứng theo hình tròn, ngƣời nọ cách ngƣời kia một cánh tay. Ngƣời chỉ huy đứng giữa vòng. 3. Phƣơng pháp tiến hành - Ngƣời chỉ huy bất ngờ chỉ tay vào một ngƣời nào đó đứng trong vòng tròn, thì ngƣời đó phải lập tức nói tên một con vật biết kêu. Ngay lập tức ngƣời đứng bên phải của ngƣời nói tên con vật, phải kêu lên tiếng kêu của con vật đó, và ngƣời bên trái của ngƣời vừa nói tên con vật phải làm động tác mô phỏng hoạt động thƣờng thấy ở con vật đó. - Nếu ngƣời nói tên con vật nói chậm, nói ai, nói các con vật mà ngƣời trƣớc đã nói rồi thì phải chịu phạt (có thể là phạt lò cò một vòng). - Ngƣời bên phải kêu không đúng tiếng kêu của con vật, kêu chậm cũng phải chịu phạt. - Ngƣời làm động tác con vật mà làm chậm, làm không đúng cũng bị phạt. 17 - Ngƣời bị phạt cứ chạy quanh vòng tròn, trong khi đó ngƣời chỉ huy liên tục chỉ tiếp (bất thình lình) vào những ngƣời khác. Trò chơi cứ thế tiếp diễn cho đến hết giờ. 4. Luật chơi - Phải nói đúng, chính xác, không trùng lặp tên các con vật có thật. - Phải kêu đúng, kịp thời, không đƣợc chậm chạp. - phải làm đúng động tác hoạt động thƣờng thấy ở con vật đã đƣợc gọi tên, không đƣợc chậm trễ. Ghi chú: Có thể thay việc kể tên các con vật biết kêu bằng kể các đia danh của đất nƣớc, hoặc kể các thành phố đã từng tổ chức các đại hội Olimpic quốc tế, kể tên các VĐV nổi tiếng... BỊT MẮT BẮT DÊ 1. Mục đích, tác dụng Dùng trong nghỉ ngơi tích cực, phát triển khả năng định hƣớng, phản xạ linh hoạt, óc phán đoán, sự nhạy bén của cơ quan cảm thụ, thính giác và vận động. 2. Công tác chuẩn bị - Sân rộng chừng 20mx20m, khăn bịt mắt 2 cái, còi 2 chiếc. - Ngƣời tham gia chừng 20 - 40 ngƣời, đứng thành vòng tròn, ngƣời nọ cách ngƣời kia chừng một cánh tay. Trọng tài cử 2 ngƣời vào vòng tròn, dùng khăn bịt mắt họ lại rồi chỉ định một ngƣời làm dê (ngƣời này đƣợc cầm một cái còi). Ngƣời kia chuẩn bị đuổi bắt. 3. Phƣơng pháp tiến hành Khi chỉ huy ra lệnh, ngƣời làm dê thổi còi và chạy trốn. Ngƣời kia phán đoán phƣơng hƣớng và tìm bắt. hai ngƣời đuổi bắt nhau trong phạm vi vòng tròn. Nếu bắt đƣợc đổi vị trí cho nhau rồi lại tiếp tục cho tới khi bắt đƣợc dê. Trọng tài cử hai ngƣời khác vào thay, trò chơi cứ nhƣ thế cho đến khi hết thời gian. 18 - Không đƣợc đấm, đá và làm các động tác nguy hiểm khi tìm bắt nhau. - Phải tự giác, không đƣợc để mắt nhìn thấy nhau khi đuổi, bắt. - ngƣời đứng ngoài không đƣợc chỉ điểm, không di chuyển khỏi vị trí đứng. ĐÀN VỊT NÀO NHANH 1. Mục đích, tác dụng - Phát triển tố chất sức nhanh, sức mạnh của đôi chân. - Rèn luyện ý thức tập thể và tinh thần đồng đội. 2. Công tác chuẩn bị Sân chơi, trên sân chơi ta kẻ một vạch xuất phát và một vạch đích, cách nhau từ 15 - 20m. 3. Phƣơng pháp tiến hành - Chi lớp ra thành 2,3 hoặc 4 đội đều nhau, mỗi đội khoảng 10 - 15ngƣời. Cho từng cặp hai đôi thi đấu với nhau. - Cách chơi: Cho hai đội đứng thành hàng dọc trƣớc vạch xuất phát, sau đó ngồi xuống mong không đƣợc chạm đất, trọng lƣợng cơ thể dồn đều vào cả hai bàn chân, hai tay ngƣời sau bám chặt vào eo (thắt lƣng)ngƣời trƣớc. Khi trọng tài cho xuất phát (bắt đầu trò chơi), cả đội bám chặt vào nhau, phối hợp cùng ở tƣ thế ngồi xổm di chuyển nhanh lên phía trƣớc, vƣợt qua vạch đích. Khi nào ngƣời cuối hàng vƣợt qua vạch đích là kết thùc một lần chơi. Trong khi di chuyển các đội đồng thanh hô "quạc, quạc, quạc", hoặc "một, hai, một ,hai" để tạo sự phối hợp thống nhất trong di chuyển. CHỌI GÀ 1. Mục đích, tác dụng - Phát triển tố chất sức nhanh, mạnh mẽ của chân và khả năng khống chế thăng bằng của cơ thể. - Rèn luyện ý chí quyết tâm của ngƣời chơi. 2. Công tác chuẩn bị 19 Có sân chơi bằng phẳng, sạch sẽ. Nếu cho chơi trong vòng tròn, ta phải kẻ các vòng tròn trên sân có dƣờng kính từ 3m trở lên. 3. Phƣơng pháp tiến hành - Có thể đấu đơn, từng cặp một chơi với nhau và cũng có thể đấu từng nhóm đội với nhau (mỗi đội từ 3 đến 5 ngƣời). Có thể cho đấu trong vòng tròn giới hạn hoặc đấu tự do không có vòng tròn giới hạn. - Cách chơi: Chân trái hoặc chân phải co lên, tay cầm chặt lấy cổ chân đƣợc co lên, với tƣ thế nhƣ vậy chân kia di chuyển lò cò liên tục áp sát đối phƣơng dùng đầu gối của chân đƣợc co lên hoặc thân trên huých, đẩy đối phƣơng làm cho đối phƣơng mất thăng bằng ngã xuống, tay chạm đất hoặc chân co lên chạm đất là thắng một điểm. Nếu đấu trong vòng tròn giới hạn, ngƣời nào bị đẩy bật ra ngoài vòng tròn là ngƣời đó bị thua và đội kia đƣợc một điểm. Hết thời gian quy định (khoảng từ 3 - 5phút một lần chơi), bên nào đƣợc nhiều điểm là thắng cuộc. 4. Luật chơi - Phải di chuyển ở tƣ thế co chân nhƣ trên, nếu mỏi chân có quyền đƣợc đổi chân. - Không đƣợc dùng tay mà chỉ đƣợc dùng đầu gối của chân co hoặc thân trên huých đối phƣơng. - Hết thời gian chơi, bên nào bị ngã, chân, tay chạm đất hoặcbị đẩy ra ngoài vòng tròn (nếu chơi tròn vòng tròn giới hạn) nhiều lần hơn là bên đó thua và bên kia thắng cuộc. NHẢY CỪU 1. Mục đích, tác dụng - Phát triển tố chất nhanh nhẹn, khả năng phối hợp động tác, dùng sức của tay, chân và thân ngƣời. - Rèn luyện tính tự giác, ý chí quyết tâm và tinh thần đồng đội. 2. Công tác chuẩn bị Cần có một sân chơi bằng phẳng, sạch sẽ. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan