VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ ĐIỂU
TRIẾT HỌC THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2013
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ ĐIỂU
TRIẾT HỌC THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ
Chuyên ngành: Lịch sử Triết học
Mã số:
62 22 80 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Đỗ Minh Hợp
2. PGS. TS. Nguyễn Đình Tường
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Luận án này là do tự bản thân thực hiện và không
sao chép các công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của
riêng mình. Các thông tin thứ cấp sử dụng trong Luận án có nguồn gốc và
được trích dẫn rõ ràng. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và
nguyên bản của Luận án.
Tác giả
Trần Thị Điểu
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI “TRIẾT HỌC THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH VÀ
NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ”.......................................................
1.1. Các công trình nghiên cứu chung về triết học hiện sinh............................
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước................................................
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước..............................................
1.2. Các công trình nghiên cứu bàn về nội dung cơ bản trong triết học
thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh.........................................................
1.2.1. Các công trình nghiên cứu bàn về tư tưởng đạo đức.......................
1.2.2. Các công trình nghiên cứu bàn về tư tưởng giáo dục...........................
Chương 2. BỐI CẢNH RA ĐỜI TRIẾT HỌC THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA
HIỆN SINH..............................................................................................
2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa cho sự ra đời triết học
thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh...........................................................
2.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị...................................................
2.1.2. Điều kiện văn hóa.................................................................................
2.2. Tha hóa tinh thần của con người phương Tây hiện đại như đối tượng
phản tư trong triết học thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh.......................
2.2.1. Thực chất của tha hóa tinh thần............................................................
2.2.2. Hệ quả của tha hóa tinh thần................................................................
2.3. Tiền đề lý luận..............................................................................................
2.3.1. Phê phán triết học duy lý......................................................................
2.3.2. Hiện tượng học Husserl........................................................................
2.3.3. Đạo đức học chuẩn tắc.......................................................................
2.3.4. Triết lý giáo dục truyền thống..............................................................
Chương 3. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC THỰC TIỄN CỦA
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH.........................................................................
3.1. Các nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức trong triết học thực tiễn của
chủ nghĩa hiện sinh.................................................................................
3.1.1. Vấn đề tự do.........................................................................................
3.1.2. Vấn đề trách nhiệm...............................................................................
3.2. Giá trị và hạn chế của tư tưởng đạo đức trong triết học thực tiễn của
chủ nghĩa hiện sinh.................................................................................
3.2.1. Các giá trị.............................................................................................
3.2.2. Các hạn chế........................................................................................
Chương 4. TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC TRONG TRIẾT HỌC THỰC TIỄN CỦA
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH.......................................................................
4.1. Các nội dung cơ bản của tư tưởng giáo dục trong triết học thực tiễn của
chủ nghĩa hiện sinh...............................................................................
4.1.1. Quan niệm về mục đích giáo dục.......................................................
4.1.2. Quan niệm về chương trình học.........................................................
4.1.3. Quan niệm về phương pháp giáo dục.................................................
4.1.4. Quan niệm về quan hệ thầy trò...........................................................
4.2. Giá trị và hạn chế của tư tưởng giáo dục trong triết học thục tiễn của
chủ nghĩa hiện sinh...............................................................................
4.2.1. Các giá trị..........................................................................................
4.2.2. Các hạn chế.......................................................................................
KẾT LUẬN..................................................................................................................
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
...................................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại bộ phận loài người nhìn chung luôn “thức” mà không “tỉnh”, họ
suy nghĩ và hành động theo các lược đồ (nguyên tắc, giá trị) có sẵn như một
cái máy cho tới khi các lược đồ ấy đem lại những hệ quả tai hại, thậm chí đe
dọa bản thân sự sinh tồn của họ. Khủng hoảng giá trị xuất hiện, hay như
Hegel ưa thích nói, “buổi hoàng hôn bắt đầu”, Nietzsche thì diễn tả là “Ngày
tàn của châu Âu”, Husserl thì nói rõ hơn “Khủng hoảng của loài người”. Bản
thân họ không thể tự mình luận giải thực trạng ấy và tìm ra lối thoát ra khỏi
thực trạng ấy. Triết học xuất hiện như “cứu cánh”, như “đấng cứu thế”. Bắt
đầu từ thời cận hiện đại, toàn bộ loài người ở phương Tây hào hứng bước vào
và sống trong kỷ nguyên khải hoàn của lý tính khoa học cùng với những
chuẩn mực tương ứng được triết học duy lý tạo dựng và luận chứng. Có cảm
tưởng là con người đã đạt được tất cả mọi mong ước của mình, trở thành chủ
nhân của thế giới, có được một cuộc sống thật sự dư thừa của cải vật chất,
được giải phóng khỏi mọi lực lượng đã từng nô dịch họ. Song, họ lại phải đối
mặt với một sự thực phũ phàng là “lý tính kiêu ngạo vô cùng nguy hiểm”, lối
suy nghĩ và hành động duy lý cực đoan đem lại nhiều hệ quả tai hại, triệt tiêu
những gì cao quý nhất, mà chính là tự do và trách nhiệm của con người. Triết
học hiện sinh là một trào lưu triết học dành những suy tư của mình cho chính
vấn đề cốt tử này của loài người phương Tây hiện đại.
Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, tiếp biến văn hóa toàn cầu được diễn
ra trên cả hai khía cạnh: bộc lộ văn hóa dân tộc ra với thế giới và tiếp nhận
văn hóa chung nhân loại. Trong quá trình ấy, tiếp nhận văn hóa phương Tây
là xu hướng tất yếu. Trong đó, triết học hiện sinh là một trong những trào lưu
triết học biểu hiện rất rõ diện mạo văn hóa tinh thần của con người phương
Tây hiện đại. Bối cảnh văn hóa tinh thần cho sự ra đời chủ nghĩa hiện sinh
đang bắt gặp sự tương đồng với nó ở xã hội Việt Nam hiện nay, cũng như bối
cảnh đó vẫn đang tiếp diễn trong hoàn cảnh hậu hiện đại của thế giới hôm
2
nay. Vì vậy, tìm hiểu và đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa hiện sinh nói chung và
triết học thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh nói riêng có giá trị tích cực để
chúng ta nhìn nhận và xây dựng chân dung văn hóa Việt.
Thứ nhất, triết học hiện sinh là học thuyết triết học dành những suy tư
về con người cá nhân và số phận của con người cá nhân trong điều kiện tha
hoá và nô lệ tinh thần sâu sắc của con người phương Tây hiện đại, vì vậy,
những vấn đề giá trị đạo đức, giáo dục được đặt ra gay gắt. Nghiên cứu triết
học hiện sinh, đặc biệt là những tư tưởng về triết học thực tiễn của trường
phái triết học này là việc làm cần thiết và có ý nghĩa trong bối cảnh tiếp biến
văn hoá toàn cầu nhằm phòng tránh những mối nguy hiểm đến từ nền văn
minh duy lý phương Tây và tiếp thu những giá trị tích cực hiển nhiên của nó.
Thứ hai, trong quá trình hiện đại hoá, mở rộng hợp tác, chủ động hội
nhập quốc tế, bên cạnh những cơ hội to lớn về mở rộng thị trường, tiếp thu
nhanh khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh tế - xã hội, v.v., chúng
ta cũng phải đối mặt với không ít nguy cơ, như gia tăng xung đột, chiến tranh,
bạo lực, khủng bố, khủng hoảng sinh thái toàn cầu, đánh mất bản sắc văn hoá
dân tộc, suy đồi đạo đức và tan vỡ các giá trị truyền thống. Một bộ phận dân
cư, nhất là lớp trẻ dễ đánh mất bản thân mình, đánh mất năng lực cá nhân mà
cao hơn là đánh mất nhân cách của mình. Bài học kinh nghiệm từ sự ra đời
của triết học hiện sinh ở phương Tây đã chỉ rõ, nếu chỉ chạy theo những giá
trị vật chất, quá tin đến mức phó mặc cuộc sống của mình cho những tiến bộ
của kỹ thuật, thì sớm muộn gì con người cũng rơi vào tình trạng tha hoá, con
người bị phụ thuộc vào chính những lực lượng mà con người sáng tạo ra.
Theo nghĩa đó, nghiên cứu triết học hiện sinh nói chung, triết học thực tiễn
của nó nói riêng, cũng chính là học tập kinh nghiệm của người đi trước, tranh
thủ nắm bắt thời cơ, đề phòng nguy cơ, để tiến hành hiện đại hóa ở Việt Nam
một cách chủ động và tích cực. Hơn nữa, việc tìm hiểu triết học thực tiễn của
chủ nghĩa hiện sinh, dựa trên cơ sở gạn lọc tinh hoa và vượt bỏ hạn chế, sẽ
góp phần xây dựng và phát triển một nền văn hóa tinh thần thực sự nhân văn
ở nước ta hiện nay.
3
Thứ ba, triết học hiện sinh là trường phái đi đầu trong suy nghĩ về con
người cá nhân và trách nhiệm của con người cá nhân trong những điều kiện
cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại. Tinh thần chung của chủ nghĩa hiện
sinh được triển khai trong những tâm hồn nhân văn, cá tính mạnh mẽ và đầy
sáng tạo, những con người của hành động với sự quan tâm thực sự đầy trách
nhiệm đến thời cuộc, dám đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm
loài người trong thời đại ngày nay. Những điều này làm cho triết học gần hơn
với cuộc sống và những vấn đề của thời đại hiện nay. Ngày nay, triết học hiện
sinh được nhìn nhận chính là những suy ngẫm về tồn tại người như một trong
những đề tài cơ bản của triết học và nhận được sự hưởng ứng xã hội rộng rãi,
vì nó ẩn chứa một nội dung nhân văn sâu sắc.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, triết học hiện sinh chưa được quan tâm thỏa
đáng, không những thế, triết học này còn bị hiểu sai lệch. Do vậy, nghiên cứu
chủ nghĩa hiện sinh nói chung, và triết học thực tiễn của nó nói riêng, giúp
chúng ta hiểu rõ trào lưu triết học này, qua đó, góp phần xây dựng, đảm bảo
đời sống tinh thần, đặc biệt là đời sống tinh thần của tầng lớp thanh thiếu niên
luôn lành mạnh trước sự du nhập của văn hoá và lối sống phương Tây hiện đại.
Thứ tư, một nội dung nhân văn quan trọng khác trong triết học thực tiễn
của chủ nghĩa hiện sinh là tư tưởng triết học giáo dục. Có thể coi đây là giải
pháp của triết học hiện sinh nhằm làm con người thoát khỏi tình trạng tha hóa
và nô lệ tinh thần khi sống trong xã hội hiện đại. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu tư tưởng triết học giáo dục hiện sinh nhằm mục đích tiếp thu có sàng lọc
những mặt mạnh và gạt bỏ những hạn chế của nó, để góp phần xây dựng triết
học giáo dục vừa mang tính hiện đại, vừa mang đậm sắc thái văn hóa Việt là
một việc làm vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách.
Với ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài “Triết học thực tiễn của chủ nghĩa
hiện sinh và những giá trị, hạn chế của nó’’ làm đề tài cho luận án tiến sĩ
của mình.
4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích: Luận án làm rõ những nội dung cơ bản trong triết học thực
tiễn của chủ nghĩa hiện sinh, qua đó, đánh giá những giá trị và hạn chế của
chúng.
* Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, làm sáng tỏ bối cảnh xuất hiện tư tưởng triết học thực tiễn
của chủ nghĩa hiện sinh.
Thứ hai, phân tích tư tưởng đạo đức trong triết học thực tiễn của chủ
nghĩa hiện sinh và đánh giá những giá trị, hạn chế của nó.
Thứ ba, giới thiệu tư tưởng giáo dục trong triết học thực tiễn của chủ
nghĩa hiện sinh và đánh giá những giá trị, hạn chế của nó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng nghiên cứu: là nội dung đạo đức và giáo dục trong triết
học thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh.
*Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ của luận án, tác giả tập trung
vào hai nội dung cơ bản nhất trong triết học thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh
đó là tư tưởng đạo đức và tư tưởng giáo dục. Hai nội dung cơ bản, nổi bật này
trong triết học thực tiễn đều được các nhà hiện sinh quan tâm và khai thác,
phản ánh dưới nhiều góc độ và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, trong luận án,
tác giả chỉ tập trung giới thiệu quan điểm của các triết gia hiện sinh tiêu biểu
viết về đề tài này một cách sâu sắc nhất như Nietzsche, M. Heidegger,
K.Jaspers, J.P.Sartre, A. Camus.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên học thuyết của chủ nghĩa duy vật lịch
sử về tồn tại xã hội và ý thức xã hội, những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin trong việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp luận
nghiên cứu lịch sử triết học, nguyên tắc thống nhất giữa triết học và lịch sử
5
triết học. Đồng thời, luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác,
như phân tích và tổng hợp, thống nhất lịch sử và lôgíc, so sánh, khái quát hoá,
văn bản học, nhân học văn hóa, v.v.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, luận án nêu cách hiểu đúng đắn về khái niệm “triết học thực
tiễn” của chủ nghĩa hiện sinh và những nội dung cơ bản của nó.
Thứ hai, luận án trình bày có hệ thống và phân tích sâu sắc nội dung cơ
bản trong triết học thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh theo một lôgic chặt chẽ: làm
rõ khủng hoảng tinh thần, nguyên nhân, thực chất và biện pháp khắc phục nó.
Thứ ba, luận án không chỉ dừng lại ở việc phân tích các phạm trù đạo
đức cơ bản trong triết học thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh như cái thiện, cái
ác, tự do, trách nhiệm, lương tâm, lo âu, cái chết, v.v., mà còn chỉ ra phạm trù
nền tảng, cơ sở sinh ra cái thiện, cái ác là phạm trù tự do, trách nhiệm. Tự do
và trách nhiệm là hai hiện sinh thể quan trọng nhất, là hai phạm trù cơ bản của
đạo đức học hiện sinh, đồng thời qua đó, luận án đánh giá những mặt tích cực
và hạn chế của tư tưởng đạo đức này.
Thứ tư, giới thiệu tư tưởng giáo dục trong triết học thực tiễn của chủ
nghĩa hiện sinh và đánh giá những giá trị, hạn chế của nó.
6. Ý nghĩa của luận án
Luận án cung cấp những kiến thức đầy đủ hơn về triết học hiện sinh, và
có thể được sử dụng làm tài liệu cho công việc giảng dạy và nghiên cứu
trường phái triết học này. Đồng thời, luận án cũng đưa ra những gợi ý về định
hướng giá trị trong điều kiện hiện đại hóa đất nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và những
công trình đã công bố của tác giả có liên quan đến đề tài luận án, nội dung
luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
“TRIẾT HỌC THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA NÓ”
Là một trào lưu chủ yếu của triết học phương Tây hiện đại, có ảnh
hưởng rộng rãi và lâu dài, cho nên, ngay từ khi ra đời cho đến những năm gần
đây, triết học hiện sinh vẫn luôn được giới nghiên cứu trong và ngoài nước
quan tâm sâu sắc.
Các công trình dù được tiếp cận ở những góc độ khác nhau, được trình
bày ở hình thức khác nhau như giáo trình, sách, bài báo, luận án, luận văn,
v.v., nhưng có thể khái quát kết quả nghiên cứu của các tác giả ở một số điểm
cơ bản dưới đây.
1.1. Các công trình nghiên cứu chung về triết học hiện sinh
1.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu bàn về điều kiện ra đời của chủ
nghĩa hiện sinh
Trong cuốn “Một số học thuyết triết học phương tây hiện đại” (Nhà
xuất bản Văn hóa Thông tin, năm 2001) [25], tác giả Nguyễn Hào Hải khi viết
về chủ nghĩa hiện sinh đã tập trung chủ yếu để nói về nguồn gốc và cơ sở
hình thành trào lưu triết học này. Theo tác giả, chủ nghĩa hiện sinh ra đời từ 4
nguồn gốc, một là, nguồn gốc bản thể luận, hai là, cơ sở nhận thức luận, ba là,
hiện tượng luận Husserl - tiền đề hình thành triết học hiện sinh, bốn là, chiến
tranh, đặc biệt là hai cuộc đại chiến thế giới khốc liệt - là hoàn cảnh quyết
định để hình thành và phát triển mạnh mẽ chủ nghĩa hiện sinh. Khi viết về
nguồn gốc chiến tranh, nguồn gốc gây nhiều sự tranh cãi của các nhà khoa
học, tác giả cũng cho rằng, chiến tranh không phải là nguyên nhân duy nhất
mà là nguyên nhân chín muồi thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh một
cách nhanh hơn.
7
Trong cuốn “Lược khảo triết học phương Tây hiện đại” (Nxb. Chính trị
Quốc gia Hà Nội, 2003) [12], các tác giả Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng
không phân tích các điều kiện kinh tế xã hội đưa đến sự ra đời của triết học
hiện sinh, chỉ nói về tiền đề lý luận cho sự ra đời của triết học hiện sinh trên cơ
sở phân tích quan điểm của Socrate, thánh Augustin, đặc biệt B.Pascal,
F.Nietzsche và Husserl. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại giới thiệu một cách
vắn tắt tư tưởng của các nhà triết học được coi là tiền bối của chủ nghĩa hiện
sinh này mà không có sự phân tích, đánh giá và khái quát sâu hơn. Do đó, các
tác giả cũng chưa chỉ ra được những điểm tích cực mà chủ nghĩa hiện sinh kế
thừa, phát triển, cũng như những hạn chế mà các triết gia sau này khắc phục.
Khi nói về điều kiện ra đời của chủ nghĩa hiện sinh tác giả Nguyễn
Tiến Dũng trong cuốn "Chủ nghĩa hiện sinh, lịch sử, sự hiện diện của nó ở
Việt Nam" (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2006) [14], đã phân tích điều kiện
lịch sử - xã hội cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh. Theo tác giả, chủ nghĩa
hiện sinh ra đời từ 2 điều kiện cơ bản, một là sự sùng bái khoa học - kỹ thuật
một cách thái quá đã làm cho xã hội phương Tây sa vào khủng hoảng, suy
đồi, bởi vì nó phi nhân vị hóa con người; hai là, sự phản ứng, đối lập lại chủ
nghĩa duy lý thống trị trong xã hội phương Tây hiện đại. Bàn về chiến tranh,
tác giả Nguyễn Tiến Dũng quan niệm, chiến tranh không phải là nguyên nhân
trực tiếp dẫn tới sự ra đời của Chủ nghĩa hiện sinh. “Chiến tranh chỉ là một
điều kiện” [14, tr.10].
Tác giả Nguyễn Thị Thường trong bài viết: “Sự hình thành, phát triển
và đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh” in trong cuốn “Những vấn đề
triết học phương Tây thế kỷ XX” (Kỷ yếu hội thảo Quốc tế, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2007) [88] cũng cho rằng, chiến tranh chỉ là một điều kiện
cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh. Theo tác giả, chủ nghĩa hiện sinh ra đời
do hai nguyên nhân trực tiếp. Thứ nhất là do phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa chạy theo lợi nhuận tối đa đã đẩy con người vào tình trạng tha hóa cùng
cực, lấy đi của họ cái vị thế làm người đích thực. Thứ hai, là phản ứng trước
việc phương Tây tuyệt đối hóa vai trò của khoa học, sùng bái kỹ thuật, hạ
8
thấp, bỏ rơi con người hoặc chỉ quan tâm tới mặt vật chất mà xem nhẹ mặt
tâm hồn, đời sống, tình cảm của họ. Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa hiện sinh ra
đời như một sự phản ứng, đối lập lại chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa hiện sinh
đặt lên vị trí hàng đầu tính đặc thù độc đáo của tồn tại người.
Đóng góp đáng kể cho phác họa một bức tranh khá toàn diện về triết
học hiện sinh là cuốn sách "Triết học phương Tây hiện đại (phần thứ nhất:
cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX)” (Nxb. Đại học Tổng hợp tp. Hồ Chí
Minh, 2008) của tập thể tác giả Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh
Tuấn [45]. Trong tác phẩm này, các tác giả đã đi vào phân tích và làm sáng tỏ
các tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của triết học hiện sinh - đó là tư tưởng triết
học của Dostoevski như nhà tiền khởi của triết học hiện sinh, của
S.Kierkegaard như ông tổ của triết học hiện sinh và của E.Husserl như người
đặt nền móng lý luận cho chủ nghĩa hiện sinh.
Cũng bàn về điều kiện ra đời của triết học hiện sinh, tác giả Lê Kim
Châu trong luận án Phó tiến sĩ triết học “Chủ nghĩa hiện sinh và một vài ảnh
hưởng của nó ở miền Nam Việt Nam” (Viện Triết học, Hà Nội 1996) [7] đã
nghiên cứu cơ sở hình thành chủ nghĩa hiện sinh ở hai nguồn gốc chính, một
là, nguồn gốc xã hội và nhận thức của chủ nghĩa hiện sinh; hai là, nguồn gốc
tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Khi phân tích về nguồn gốc xã hội của chủ
nghĩa hiện sinh, hầu hết các nhà nghiên cứu trước đây đều cho rằng, chủ
nghĩa hiện sinh có nguồn gốc xã hội từ những cuộc khủng hoảng xã hội và
chiến tranh. Tuy nhiên, tác giả đã cho rằng, khủng hoảng xã hội và chiến
tranh chỉ là những nguyên nhân xã hội trực tiếp của chủ nghĩa hiện sinh.
Nguồn gốc đích thực và nguyên nhân sâu xa của nó là những mâu thuẫn
không thể điều hòa được của các xã hội bóc lột và bất công. Khi nói về nguồn
gốc tư tưởng của chủ nghĩa hiện sinh tác giả phân tích các quan điểm của các
nhà tư tưởng được cho là đặt nền móng cho triết học hiện sinh như Socrate,
Descartes, Pascal, đặc biệt là Kierkegaard với tư tưởng về “tư duy hiện sinh”,
Nietzsche mở đầu cho một dòng hiện sinh mới - hiện sinh vô thần, Husserl
với “phương pháp hiện tượng luận”.
9
Trong luận văn thạc sĩ triết học “Quan niệm đạo đức học trong chủ
nghĩa hiện sinh” (Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
Văn, Hà Nội 2004) [29], tác giả Nguyễn Thị Như Huế đã phân tích bối cảnh
và nguyên nhân xã hội cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh. Theo tác giả,
triết học hiện sinh ra đời do hai nguyên nhân chiến tranh và sự phản ứng đối
với chủ nghĩa duy lý. Tác giả viết: “Ra đời trong bối cảnh xã hội với những
cuộc chiến tranh tàn khốc xảy ra liên tiếp, chủ nghĩa hiện sinh còn là sự phản
ứng đối với chủ nghĩa duy lý thống trị trong xã hội phương Tây” [29, tr.8].
Tuy nhiên, tác giả mới phân tích một cách mờ nhạt, chưa khắc sâu và cắt
nghĩa sự tất yếu xuất hiện chủ nghĩa hiện sinh trong điều kiện xã hội đó với
những tư tưởng nổi bật mang tính đặc trưng của trường phái triết học này.
Như vậy, có thể khẳng định, khi nghiên cứu về điều kiện ra đời của triết
học hiện sinh, các công trình nghiên cứu trên thống nhất ở bốn nguyên nhân
cơ bản: thứ nhất, điều kiện kinh tế xã hội; thứ hai, khủng hoảng của triết học
duy lý; thứ ba, chiến tranh là nhân tố thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa hiện
sinh; thứ tư, tiền đề tư tưởng. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu đó,
các tác giả khắc họa chưa thật sâu sắc tính tất yếu khách quan cho sự ra đời
của chủ nghĩa hiện sinh cũng như những ảnh hưởng, chi phối của các nguyên
nhân trên đến nội dung cơ bản trong trường phái triết học này.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu bàn về thực chất của triết học hiện sinh
Trong tác phẩm “Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa” (Nxb. Văn
học, Hà Nội 1978), tác giả Đỗ Đức Hiểu trên cơ sở phân tích quan điểm của
J.P. Sartre đi đến định nghĩa hiện sinh như sau: “Tôi muốn nói rằng hiện sinh,
về định nghĩa của nó, không phải là cái tất yếu. Hiện sinh có nghĩa là tồn tại
đấy, có thế thôi, tức là cái vô thường, cái ngẫu nhiên hoàn toàn” [32, tr.65].
Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng trong cuốn “Lược khảo triết học
phương Tây hiện đại” (Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2003), cho rằng:
“Con người lấy hiện sinh, mặt cơ bản của hiện hữu để làm nhân vị của mình.
Cách hiện hữu của nó là hiện sinh” [12, tr.135]. Các ông viết: “Hiện sinh là
cuộc sống nội tâm, cuộc sống của tâm linh mang tính thứ nhất, tính ưu tiên”
10
[12, tr.136]. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại ở đó mà không có sự phân
tích sâu hơn.
Trong cuốn "Chủ nghĩa hiện sinh" của Trần Thái Đỉnh (Nxb. Văn học,
2005), ngay từ chương 1, trên cơ sở phân tích điểm khác nhau giữa triết học
cổ truyền (triết học về thiên nhiên, triết học tìm hiểu về vũ trụ), và triết học
hiện sinh (triết học về con người), tác giả khẳng định: “Triết hiện sinh là triết
học về ý nghĩa cuộc nhân sinh và nói tắt là triết học về con người” [16, tr.22].
Tác giả nhấn mạnh: “Triết học hiện sinh dạy ta suy nghĩ về thân phận làm
người”. Hay nói cách khác, chủ nghĩa hiện sinh vạch ra cho ta thấy vẻ buồn
nôn của con người tầm thường, hòng thức tỉnh con người trỗi dậy, bỏ cách
sống của sự vật để khai mạc một đời sống nhân vị, nhân vị của con người là
tự do. Tác giả cũng đưa ra cách hiểu về khái niệm hiện sinh. Theo tác giả
“hiện sinh là ý nghĩa của đời sống; người ta chỉ vươn tới hiện sinh khi nào
người ta đã ý thức được rằng mình sống để làm gì: sống để thể hiện cái định
mệnh cao quý và độc đáo của mình, không sống để mà sống: đó là hiện sinh”
[16, tr.207].
Nguyễn Tiến Dũng trong tác phẩm "Chủ nghĩa hiện sinh, lịch sử, sự
hiện diện của nó ở Việt Nam" (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2006) đã khái
quát: “Triết học hiện sinh là triết học về nhân vị mà chủ thể tri thức chính là
nhân vị con người” [14, tr.124]. Khi nói về phạm trù hiện sinh tác giả viết:
“Nhân vị của con người chính là hiện sinh của nó mang bộ mặt riêng biệt, đặc
thù xa lạ với mọi tính cách phổ quát. Hiện sinh là một tư chất, một đặc ân
dành riêng cho con người - “hữu thể - người”, bởi vì chỉ có con người mới tự
do lựa chọn cách thức, thái độ sống, tức có ý thức để trở thành hiện sinh, cho
nên hiện sinh chính là một mặt của tồn tại” [14, tr.80].
Trong bài viết: “Tư tưởng triết học cơ bản của Martin Heidegger và
ảnh hưởng của nó đến các trào lưu triết học phương Tây thế kỷ XX” in trong
cuốn “Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX” (Kỷ yếu hội thảo Quốc
tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007), tác giả Nguyễn Vũ Hảo định nghĩa
hiện sinh là phương thức sống, thái độ sống của con người với tư cách là tồn
11
tại người, là cốt lõi bên trong của tồn tại người. Theo đó, tác giả chỉ ra rằng,
với tư cách là cái cốt lõi, là mặt cơ bản của tồn tại người, hiện sinh có tính ưu
tiên, tính thứ nhất. Hiện sinh và tồn tại người có trước bản chất. Hiện sinh tự
lựa chọn và tự xác định bản chất của con người. Không có hiện sinh thì không
có bản chất, bản thể. Bản chất của con người chỉ có được từ hiện sinh. Hiện
sinh chỉ có ở con người, chứ không thể có ở các loài sinh vật hay ở bất cứ
hiện hữu nào khác.
Khác với các trình bày trên, các tác giả Đỗ Minh Hợp, Trần Thị Điểu,
Nguyễn Thị Như Huế, Phạm Thanh Tùng trong cuốn “Triết học Hiện sinh”
(Nxb. Tôn Giáo 2010), đã chỉ rõ cách tiếp cận để nghiên cứu Chủ nghĩa hiện
sinh, tiếp cận từ góc độ văn hóa học. Từ quan điểm “phải nhìn nhận chủ nghĩa
hiện sinh từ góc độ văn hóa học, tức là từ góc độ văn hóa sinh tồn của con
người phương Tây, mà sự chuyển biến của nó tất yếu sẽ dẫn tới chủ nghĩa
hiện sinh như một lối sống và một kiểu tư duy” [47, tr.34], các tác giả đi đến
định nghĩa khái niệm hiện sinh: là "khả năng tồn tại làm người". Do vậy, sự
hiện sinh không phải là bản chất, không phải là một cái gì đó có sẵn trong tự
nhiên, mang tính bẩm sinh, được định trước và bất biến” [47, tr.17]. Từ đó các
tác giả đưa ra một số đặc điểm chung của chủ nghĩa hiện sinh.
Như vậy, dù định nghĩa bằng cách này hay cách khác các tác giả đều
khẳng định rằng, triết học hiện sinh là triết học về con người, về thế giới nội
tâm bên trong của mỗi con người. Tuy nhiên, các tác giả chỉ dừng lại ở việc
đưa ra những cách hiểu cụ thể mà không chỉ rõ góc độ tiếp cận khi nghiên cứu
trường phái triết học này.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
Trong phần này, luận án chủ yếu khảo sát các công trình nghiên cứu
của các học giả nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt.
Đầu tiên phải kể đến tác phẩm “Chủ nghĩa hiện sinh” của tác giả
Jacques Colette, (do Hoàng Thạch dịch, Nxb Thế Giới, 2011) [5]. Tác phẩm
đã giới thiệu một cách ngắn gọn về lý thuyết và thực hành suy tư thông qua
các tác giả tiêu biểu như Kierkegaard, Marcel, Jaspers, Husserl, Heidegger,
12
Sartre, Merleau - Ponty. Đồng thời, tác phẩm cũng bàn đến các vấn đề như
hiện sinh, tự do, siêu việt, thời gian, thế giới, giao tiếp và tương lai của chủ
nghĩa hiện sinh. Theo tác giả, khái niệm chủ nghĩa hiện sinh được các tác giả
thuộc trường phái triết học hiện sinh hiểu đó là triết học về sinh tồn. Và
Schelling mới là người mở đường của tư tưởng hiện sinh, được thể hiện ở tác
phẩm chủ chốt năm 1809 bàn về bản chất của tự do, mà căn bản hơn chính là
bản chất của sự sinh tồn. Schelling hiểu sinh tồn như là quyền lực, như là mối
quan hệ với bản thân, bao hàm giả định về bản thân đưa ra bởi chính bản thân
mình. Khái niệm hiện sinh theo tác giả đó là trạng thái thấu hiểu về mình và
về sự tồn tại của mỗi người. Bởi vì, tác giả luôn đề cao những khả năng con
người có được để tồn tại theo cách này hoặc cách kia, để lựa chọn trở thành
như thế này hoặc như thế khác, để được hoặc để mất. Căn cứ vào những khả
năng tồn tại riêng của mình, con người biết rõ mình xuất phát từ cuộc sống
của mình. Trạng thái thấu hiểu đó, tác giả gọi là hiện sinh. Hiện sinh chỉ là
chính mình, không có khả năng chấp nhận sự thật cuối cùng qua người khác
và với người khác.
Trong "Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học phương Tây hiện
đại" của tác giả Lưu Phóng Đồng (do Lê Khánh Trường dịch từ "Triết học
phương Tây hiện đại tân biên", Nxb. Lý luận chính trị, 2004) [23] đã trình bày
khái luận về chủ nghĩa hiện sinh và phân tích tư tưởng của các nhà triết học
hiện sinh: M. Heidegger, K.Jaspers, J.P.Sartre. Khi nói về nguồn gốc ra đời
của chủ nghĩa hiện sinh, tác giả chỉ giới thiệu một cách vắn tắt các quan điểm
của các nhà triết học tiền bối có ảnh hưởng lớn nhất tới sự ra đời của trường
phái triết học này như: Descartes, Augustinus, Pascal, S. Kierkeggard,
W.Nietzscher, Heidegger, Jasper, Husserl. Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh
rằng, triết học hiện sinh ra đời gắn liền với các mâu thuẫn xã hội và cuộc
khủng hoảng của chế độ tư bản chủ nghĩa và hiện tượng tha hóa nghiêm trọng
bắt đầu từ thế kỷ XX. Triết học hiện sinh miêu tả và vạch ra sự đánh mất cá
tính con người, sự tước đoạt tự do của con người, sự chi phối của các lực
lượng phi nhân trong xã hội hiện đại đầy rẫy mâu thuẫn và khủng hoảng; luận
13
chứng làm thế nào cho con người được tự do thực sự, thoát khỏi tình trạng tha
hóa, khôi phục cá tính và sự tôn nghiêm nơi con người.
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã đánh
giá chủ nghĩa hiện sinh ở những khía cạnh khác nhau, nhưng đều thống nhất
cho rằng, chủ nghĩa hiện sinh là một trong những trào lưu triết học lớn, nổi
bật nhất của thế kỷ XX, nó đã ghi dấu đậm trong lịch sử triết học. Chủ nghĩa
hiện sinh vẫn có những đóng góp và vị trí quan trọng trong nền triết học nói
chung, sẽ tiếp tục ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ tới, đặc biệt triết học hiện
sinh có một ý nghĩa rất quan trọng đối với việc cảnh báo những mối nguy
hiểm rình rập con người khi sống trong thế giới văn minh, hiện đại.
1.2. Các công trình nghiên cứu bàn về nội dung cơ bản trong triết
học thực tiễn của chủ nghĩa hiện sinh
1.2.1. Các công trình nghiên cứu bàn về tư tưởng đạo đức
1.2.1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước
Cho đến nay vẫn chưa có một tác giả nào đề cập đến một cách có hệ
thống. Hầu hết các tác giả khi bàn về vấn đề đạo đức chỉ quan tâm, nghiên
cứu một lĩnh vực cụ thể, nhất định, như đạo đức học của một tác gia nào đó,
hay những phạm trù đạo đức cụ thể trong chủ nghĩa hiện sinh.
Tác giả Nguyễn Đức Nam trong bài viết “quan điểm của chủ nghĩa
hiện sinh” in trong cuốn “Các chủ nghĩa: Cấu trúc, Hiện sinh, Phân tâm” do
Bộ Văn hóa, trường Chính trị xuất bản năm 1973 đã khẳng định về vị trí của
phạm trù tự do: “khái niệm “bản chất”, “tồn tại”, “tự do” là những khái niệm
rất cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh” [87, tr.4]. Tác giả nhấn mạnh: “Khái niệm
“tự do lựa chọn” là khái niệm rất lớn của chủ nghĩa hiện sinh” [87, tr.6]. Trên
cơ sở đó, tác giả đi phân tích quan điểm của Sartre về tự do với những người
làm văn học nghệ thuật.
Tác phẩm Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, (Nxb. Văn học Hà
Nội, 1978) Đỗ Đức Hiểu đã phân tích triết học hiện sinh trên tinh thần chính
là phê phán. Tuy nhiên, tác giả bàn nhiều đến các khái niệm cơ bản của đạo
đức học hiện sinh như: “buồn nôn, cái phi lý, hư vô, tự do, lo âu, cái người ta,
- Xem thêm -