Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoa học xã hội Triết học Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và ho...

Tài liệu Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của người Việt

.DOCX
35
463
58

Mô tả:

ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -----  ----- TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VỀ CON NGƯỜI, ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ NÀY ĐẾN NHẬN THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Sinh viên: Nguyễn Nam Lớp: Kinh tế nông nghiệp Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 1 A. MỞ ĐẦU Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh vật học, tâm lý học, đạo đức học, dân tộc học, triết học... Song, giải đáp những vấn đề chung nhất về con người như bản chất con người, ý nghĩa cuộc sống của con người, trước hết phải là nhiệm vụ của triết học, bởi vì, đặc trưng của tư duy triết học là sự phản ánh của tư duy con người đối với bản thân mình. Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử nhân loại. Đó là những vấn đề: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do?... Đây cũng là nội dung cơ bản của nhân sinh quan - một nội dung cấu thành thế giới quan triết học. Tùy theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên vấn đề này hay vấn đề kia. Đồng thời, tùy theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con người. Thời kỳ cổ đại, Protagoras cho rằng: “Con người là thước đo của vạn vật” và đặc biệt khi Socrate kêu gọi “Con người hãy tự biết mình” thì khi đó, đối tượng con người, đối tượng gần gũi và thân cận nhất là con người mới được các nhà triết học đương thời chú ý và quan tâm. Ngày nay, con người không chỉ được nghiên cứu như là đối tượng khách quan của nhiều ngành khoa học mà còn trở thành một phần chủ thể góp phần kiến tạo và hình thành nên diện mạo thế giới khách quan. Ở Ấn Độ, con người là “tiểu vũ trụ”, sống chính là nhằm hòa tan cái “tiểu vũ trụ” nhỏ bé vào “đại vũ trụ” rộng lớn như giọt nước hòa vào đại dương mênh mông. Ở Trung Quốc, con người và trời đất là một, xuất phát từ Đạo và cuối cùng cũng quay trở về với cái Đạo của nó. Những điều vừa đề cập ở trên cho ta thấy rằng vấn đề con người được các nhà triết học thời kỳ cổ đại bàn đến là vấn đề trung tâm, xoay quanh việc giải đáp vấn đề xã hội và đề cao chính bản thân con người. Trong thời kỳ phục hưng và cận đại, Bêcơn cho rằng con người là sản phẩm của tạo hóa; Hốpxơ thì quan niệm con người là sự thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Còn theo Lépnít thì con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác; trong quan niệm của Hium, bản thân “con người không là cái gì khác ngoài sự liên hệ hay một chùm các giá trị khác nhau, cái này kế tiếp cái kia, và tất cả chúng nằm trong quá trình biến đổi một cách nhanh chóng lạ kỳ”... Ở thời kỳ phục hưng con người là vấn đề trung tâm của triết học, vấn đề con người được nghiên cứu với mục đích nhằm giải thoát con người khỏi xiềng xích chật hẹp mà các tôn giáo thời trung cổ áp Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 2 đặt cho nó. Triết học Mác - Lênin đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử, đồng thời, khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội; trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa nhưng quan hệ xã hội và con người là sản phẩm của lịch sử. Còn Phật giáo lại tiếp cận vấn đề con người từ góc độ khác. Góc độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật. Tìm hiểu về con người, bản chất và mục tiêu giải phóng con người nói chung và theo quan niệm của triết học Phật giáo nói riêng có một ý nghĩa và giá trị rất thiết thực, không chỉ giúp định hướng một nhân sinh quan sống cho mỗi cá nhân mà hơn thế nữa, nó còn giúp chúng ta thực hiện chiến lược phát triển đất nước: Tất cả cho con người và vì con người, ngày hôm nay cũng như cho các thế hệ mai sau. Với những lý do trên nên tôi chọn đề tài “ Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của người Việt” làm đề tài tiểu luận. Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 3 CHƯƠNG 1 DƯỚI GÓC ĐÔÔ TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI ĐƯỢC PHẢN ÁNH TRONG NHÂN SINH QUAN PHÂÔT GIÁO 1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO 1.1.1. Con đường hình thành và phát triển Phật giáo ở Ấn Độ Phật giáo ra đời ở Ấn Độ cách ngày nay khoảng 2500 năm. Người sáng lập là Tất Đạt Đa họ Cù Đàm. Ông sinh ra vào ngày trăng tròn tháng Vaisaka mà ngày nay cho rằng là ngày rằm tháng Tư, lấy đó làm ngày Phật Đản. Ông thuộc dòng dõi quý tộc, tộc Thích Ca. Cha là vua Tịnh Phạn, mẹ là hoàng hậu Ma Da, thuộc vương quốc Ca Tì La Vệ (ngày nay thuộc lãnh thổ nước Nêpan). Ông sinh năm 563 tr.CN mất năm 483 tr.CN (có sách ghi 623 - 543, và sinh ngày 08/04). Theo truyền thuyết thì Đức Phật có tới 547 tiền kiếp trước khi đầu thai làm con vua Sakya. Trong những tiền kiếp trước dù ông là con người hay là con vật thì điều đầy lòng từ -bi-hỷ-xả, sẵn sàng hy sinh vì đồng loại. Kiếp gần nhất của ông là con voi trắng 6 ngà. Khi mới sinh ra, Phật có 32 dị tướng (tam thập nhị), 82 đặc điểm phi thường (bát thập nhị chủng hảo) và đã được tiên đoán là thành Hoàng Đế trị vì thiên hạ, nếu không thì cũng là đức Phật cứu nhân độ thế. Năm 19 tuổi, ông kết hôn với Da Du Đà La sinh hạ một người con trai là La Hầu La. Năm 29 tuổi ông xuất gia tu hành theo phương pháp khổ hạnh, hành khất về phương Nam.Ông thiền định trong 6 năm, đến mức thân hình gầy yếu chỉ còn da bọc xương, nhưng vẫn không đắc đạo. Ông đã suy nghĩ “ta tu khổ hạnh, ép xác như thế này mà không thấy đạo, thì cách tu của ta chưa phải, chi bằng ta phải theo trung đạo, tức không say mê việc đời, mà cũng không quá khắc khổ...”. Năm đạo sĩ cùng tu hành với Tất Đạt Đa, tưởng Ngài thoái chí nên bỏ Ngài đi tu chỗ khác. Còn lại một mình, một buổi trưa sau khi tắm rửa xong và uống một cốc sữa của người chăn bò đưa cho, ông cảm thấy khoan khoái, tinh thần tỉnh táo hẳn lên, ông một mình đến ngồi gốc cây Bồ Đề (Bobdi - Tâtbatla) thiền tịnh trong 49 ngày thì quả nhiên giác ngộ, thấy được căn nguyên sinh - thành - biến - hóa của vạn vật, vũ trụ, nhân sinh; tìm ra nguồn gốc của nổi khổ và phương pháp trừ nổi khổ cho sinh linh. Ông xuất gia ngày 8/2/535(595) tr.CN, giác ngộ thành Phật ngày 8/12/529 (589) tr.CN. Ông đã truyền đạo của mình trong 45 năm nữa và nhập Niết Bàn ở Câu Thi Na năm 80 tuổi (ngày 15/2/483(543) tr.CN). Sau khi Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn thì trong giáo đoàn có nhiều ý kiến khác nhau. Cho nên ngay trong năm đó đã triệu tập cuộc kết tập lần thứ nhất tại thành Vương Xá. 500 tì kheo hiệp tụng những lời Thích Ca Mầu Ni dạy dưới sự chủ tọa của Ma Ha Ca Diếp, đệ tử thứ Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 4 ba, mệnh danh là người tu định đệ nhất. A Nan, đệ tử thứ năm, mệnh danh là đa văn đệ nhất, em họ của Thích Ca, tụng pháp sau này là cơ sở của Kinh Tạng. Ưu Bà Ly, đệ tử thứ mười, mệnh danh trì luật đệ nhất, xuất thân thợ cạo, tụng giới sau này là cơ sở của Giới Tạng. Vốn Thích Ca Mầu Ni không phân biệt Pháp, Giới trong khi thuyết pháp. Lần kết tập này mới hệ thống lại như thế. Lần kết tập này kéo dài 7 tháng và không có văn bản. Sau này Tam Tạng (ba bộ A Hàm) được coi là mang nội dung của cuộc kiết tập lần này. Thực tế nội dung Tam Tạng đã phong phú phát triển hơn mà ngay sự có mặt của Luận Tạng cũng đã chứng minh điều đó. Điều đáng lưu ý, ngay lần kết tập thứ nhất đã không thống nhất được giáo đoàn. Phú Lâu Na, đệ tử thứ chín, mệnh danh biện tài đệ nhất, không dự cuộc kết tập này. Và, trong khi Ca Diếp chủ trì cuộc họp trong thành Vương Xá tại hang Thất Diệp thì ở ngoài thành tại tịnh xá Trúc Lâm lại có một số đệ tử khác hội họp và tỏ ý không tán thành nội dung cuộc họp ở Thất Diệp. Thành phần giáo đoàn phức tạp. Có tín đồ thuộc tín ngưỡng khác (như thờ L ửa, Bà la Môn giáo...), có tín đồ thuộc các đẳng cấp khác nhau (Bà La Môn như Ma Ha Ca Diếp, Sát Đế Lợi như A Nan, Thủ Đà La như Ưu Bà Ly...). Cho nên ngay từ khi Thích Ca Mầu Ni còn sống thì đã có nhiều ý kiến khác nhau. Tiêu biểu nhất là Đề Bà Đạt Đa, em họ Thích Ca Mầu Ni đã từng phản đối quyết liệt Thích Ca, đưa ra lý luận gọi là Ngũ Pháp, chủ trương khổ hạnh cực đoan. Cuộc kết tập lần thứ hai tiến hành sau kết tập lần thứ nhất khoảng 100 năm tại Phệ Xá Lị. Nguyên nhân triệu tập kết tập lần này là để thảo luận Thập Sự do các tì kheo tộc Bạt Kỳ đông Ấn Độ nêu ra. Kết tập do trưỡng lão Da Xá chủ trì với 700 tì kheo tham dự, tiến hành thảo luận trong 8 tháng. Kết quả dẫn đến sự phân biệt thành Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ (tiền thân của Tiểu thừa và Đại thừa sau này). Có tư liệu cho rằng người sáng lập Đại Chúng Bộ là Đại Thiên, người đề xướng Ngũ Sự. Khoảng sau hơn 100 năm nữa thì cuộc kết tập lần thứ ba được triệu tập theo sáng kiến của vua A Dục. Một nghìn người họp ở thành Hoa Thị dưới sự chủ tọa của Mục Kiền Liên diễn ra ròng rã suốt 9 tháng. Chủ đề kết tập lần này là phê phán ngoại đạo. Kết tập lần này, Tam Tạng đã được ghi lại thành văn bản với cả hai thứ tiếng Sanskrit và Pali. Sau khi kết tập, được sự bảo trợ của vua ADục, các tăng đoàn được thành lập và bắt đầu truyền bá đạo Phật ra nước ngoài. Cuộc kến tập lần thứ tư do vua Ca Nhị Sắc Ca (125 - 150 s.CN) khởi xướng. Hiếp Tôn Giả đề xuất, Thế Hữu chủ trì có 500 A la hán dự tại Ca Thấp Nhi La (nay thuộc Cátsơmia). Có tài liệu lại cho rằng cuộc kết tập lần này do Ca Chiên Diên Tử thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ triệu tập 500 A la hán và 500 Bồ Tát họp ở Khê Tân (tây bắc Ấn Độ), mời Mã Minh chấp bút bộ Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 5 A Tì Đạt Ma Tì Bà Sa. Thời gian đó là sau khi Phật nhập diệt 500 năm, tức là vào khoảng thế kỷ I/II. Kết tập lần này đã hoàn chỉnh “kinh điển” của Phật giáo và tồn tại cho đến ngày nay. Cũng từ lần kết tập này, Phật giáo chính thức chia thành hai phái lớn là Đại thừa và Tiểu thừa. - Tiểu thừa có nghĩa là cỗ xe nhỏ, phái này chủ trương ai tu thì tự độ lấy mình. Kinh sách ban đầu chủ yếu viết bằng tiếng Paly, và chủ yếu truyền đạo về phía Nam như Xrilanca, Lào, Thái Lan, Campuchia, Miến Điện, nên còn gọi là Nam tông. Phái này “chấp hữu”, tức phủ nhận bản thể (Ngã, Tự Tính) nhưng không phủ nhận sự tồn tại khách quan vật chất của thế giới (Pháp, vạn pháp, chư pháp). Tiểu thừa cơ bản coi Thích Ca Mầu Ni là người thầy dẫn đường, một vĩ nhân lịch sử. Và học tập Thích Ca Mầu Ni đến chỗ Vô học, không còn phải học nữa, đạt đến trình dộ thánh nhân rồi, quả vị tối cao của Tiểu thừa. Tiểu thừa bám chắt Tam Học (Giới Định Tuệ), Bát Chính Đạo và chỉ thờ Thích Ca Mầu Ni mà thôi. Tiểu thừa lấy độc thiện kỳ thân. Tiểu thừa có hai phái lớn là: Phái “Nhất thiết hữu bộ” (Savatyvada), tập trung nghiên cứu phạm trù thời gian. Phái Kinh bộ (Sautramtica), xây dựng “lý thuyết về tính chốc lát”. Về sau, Tiểu thừa còn nhiều phái khác như Câu xá tông, Thành thực tông, Luật tông... - Đại thừa có nghĩa là cỗ xe lớn, phái này không chỉ là giác ngộ cho mình mà còn giác ngộ cho mọi người. Kinh sách thường viết bằng tiếng Sanskrit và phát triển mạnh mẽ về phía Bắc như Nêpan, Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc, Nhật, Việt Nam nên còn gọi là Bắc tông. Phái này “chấp không” (không luận), tức vừa phủ nhận bản thể, vừa không thừa nhận sự tồn tại khách quan chân thực (chứ không phải phủ nhận sự tồn tại đó). Đại thừa đưa ra khái niệm Tam Thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân). Phật không còn là nhân vật lịch sử mà là Thần với vô vàn thân, tức Thiên Phật. Đại thừa đã thần thánh hóa Thích Ca Mầu Ni, coi người chỉ là một Phật xuống trần cứu vớt nhân loại mà thôi. Đại thừa phê phán A la hán là chưa đạt tới quả vị tối cao, đưa ra khái niệm Bồ Tát mà chữ Phạn là BODHISATTWA, BODHI là Giác, SATWA là Chúng sinh (hữu tình chúng sinh), nghĩa là chúng sinh đã giác ngộ. Đại thừa giải thích “thượng cầu bồ đề, họa há chúng sinh”, tức là mình Giác rồi giáo hóa chúng sinh cho chúng sinh Giác. Đó là tư tưởng Lợi Tha, Tự Giác Giác Tha - Đó là tinh thần vị tha cứu thế, cứu khổ, cứu nạn, sau này sẽ càng phát triển. Người tu hành đạt đến trình độ Bồ Tát, nên có Bồ Tát Mã Minh, Bồ Tát Long Thọ... là những nhân vật lịch sử. Đại thừa có hai phái lớn là: Phái Trung luận (Madhymika) do sư Long Thọ lập ra ở thế kỷ II s.CN. Phái Trung luận truyền tụng chủ yếu là các kinh Hoa Nghiêm, Trung luận, Thập nhi môn luận, Thập trụ luận. Phái Du Già (Yogacara) do hai anh em Vô Trước (Asangha) và Thế Thân Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 6 (Vasubhandha) sáng lập ở thế kỷ IV s.CN. Kinh sách truyền tụng của phái này thường là Du già sư địa luận (duy thức luận), Đại thừa luận, Kim cương bát nhã luận. Về sau Đại thừa còn có nhiều tông phái khác như Pháp tường tông, Tam luận tông, Hoa nghiêm tông, Thiên tai tông, Mật tông (Chân ngôn tông), Thiền tông, Tịnh độ tông... Hay có thể tóm gọn lại Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI tr.cn; người sáng lập là thái tử Sidharta (Tất-đạt-đa), họ là Gotama (Cồ-Đàm). Ông sinh năm 624 tr.cn, vào lúc ở Ấn Độ đạo Balamon đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Nỗi bất bình của thái tử về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nổi khổ của muôn dân là những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành một tôn giáo mới. Thực chất đạo Phật là một Học Thuyết về “nỗi khổ và sự giải thoát”. Đức Phật từng nói: “Ta chỉ dậy một điều: Khổ và Khổ Diệt”. Cốt lõi của học thuyết này là Tứ diệu đế (Bốn chân lý kỳ diệu) hay Tứ thánh đế (Bốn chân lý thánh), đó là: Khổ đế, Nhân đế, Diệt đế, Đạo đế. Toàn bộ giáo lý Phật được xếp thành ba tạng là: Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Phật giáo coi trọng Phật-Pháp-Tăng, gọi là tam bảo: Đức Phật sang lập ra Phật giáo; pháp (giáo lí) là cốt tủy của Phật; tăng chúng (người xuất gia tu hành) truyền bá Phật pháp trong thế gian. Năm 1193, những người Hồi giáo đã tàn sát tín đồ Phật giáo Ấn Độ, phá hủy các tu viện. Phật giáo bị tiêu diệt trên đất Ấn Độ. Nhưng thật ra Phật giáo đã suy vong ở đầu thế kỷ IX. Nhưng trong thời gian tồn tại của nó, Phật giáo đã từ Ấn Độ truyền bá sang các nước sung quanh, trở thành hệ thống tôn giáo - triết học thế giới, có ảnh hưởng lớn đến tinh thần và lịch sử văn hóa của nhiều nước phương Đông, trong đó có Việt nam. 1.1.2. Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam Có rất nhiều ý kiến khác nhau về sự du nhập của Phật Giáo vào Việt Nam. Nhưng ngày nay, nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Ðạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Ðồng Cỏ. Phật Giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu: Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam... lợi dụng được luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực Ðông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 7 các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Ðạo Phật vào các dân tộc ở Ðông Nam Á. Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân giao lưu của các thương thuyền. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch, Mahoda - con vua A dục (Asoka) đã đưa Ðạo Phật vào Việt Nam . Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Ðạo Phật vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước công nguyên 2879-258). Ðó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Chử Ðồng Tử. Chuyện kể rằng Ðồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Ðồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Ðồng Tử đã gặp một nhà sư Ấn Ðộ ở trong một túp lều. Nhờ đó mà Ðồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Ðạo Phật. Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Ðộ truyền vào Việt Nam khá lâu trước Tây lịch. Một bài nghiên cứu của Ngô Ðăng Lợi, viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng viết: "Vùng Ðồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Ðạo Phật đã được trực tiếp truyền vào nước ta" . Và Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sư Thông Biện và Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Ðạo Phật Việt Nam vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc - Hà Nội), vào ngày rằm tháng 2 năm 1096 Thông Biện dẫn chứng lời pháp sư Ðàm Thiên (542-607 TL) đối thoại với Tùy Cao Ðế (?-604 TL): "Một phương Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Ðông (Trung Hoa) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Ðà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó". Ma Ha Kỳ vực, Khâu Ðà La (188 TL) người Ấn Ðộ hay Trung Á; Mâu Bác (165-170 TL) người Trung Hoa; Khương Tăng Hội (200-247 TL) người Ấn Ðộ; Chi Cương Lương (?-264 TL) người xứ Nhục Chi, theo sử chép đó là các vị sư có mặt sớm nhất ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ II đến thế kỷ III. Có lẽ đây chỉ là những vị được sử ghi lại tên tuổi, kỳ thực đây không phải là phái đoàn truyền bá đầu tiên đến Việt Nam, vì từ thế kỷ III trước Tây lịch đến thế kỷ II sau Tây Lịch chắc chắn đã có nhiều tăng sĩ đặt chân đến hoằng Pháp tại Việt Nam, cho nên Pháp sư Ðàm Thiên chỉ dẫn phần giới hạn và căn cứ vào sự có mặt của tác phẩm Lý hoặc Luận của Mâu Bác. Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa vào địa lý, thiên nhiên, cư dân, lịch sử có thể cho chúng ta một kết luận rằng Ðạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Việt Nam chứ không thông qua Trung Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 8 Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh rằng Ðạo Phật đồng thời được truyền vào Việt Nam qua con đường Ðồng Cỏ. Phật Giáo du nhập qua con đường Ðồng Cỏ: Con đường Ðồng Cỏ (Chemin des Steppes) tức là đường bộ còn gọi là con đường tơ lụa . Con đường này nối liền Ðông Tây, phát xuất từ vùng Ðông Bắc Ấn Ðộ, Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc đà. Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông Mêkông, sông Hồng, sông Ðà mà vào Việt Nam. Cuốn Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (...) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mêkông, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do những di dân Ấn Ðộ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Ðộ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An". Từ thế kỷ thứ III, Phâ ât giáo tại Giao Châu vẫn tiếp tục tự phát triển mạnh mẽ, với sự xuất hiê ân của Tăng Hô âi (? - 280) và tư tưởng thiền của ông. Ông không những là sáng tổ của Thiền học Viê ât Nam, mà còn là người đầu tiên đem thiền học phát huy ở Trung Hoa (Tăng Hô âi đã ở trên đất Ngô từ năm 255 đến 280). Sự thâm nhâ âp của Phâ ât giáo theo con đường đồng cỏ còn được thể hiê ân ở viê âc các thiền sư lớn, những người sáng lâ âp ra những thiền phái có vị trí lớn trong lịch sử Phâ ât giáo Viê ât Nam, đều ít nhiều có liên hê â và tiếp thu Phâ ât giáo Trung Hoa.Các phái thiền du nhập ở đất Bắc, thì sớm nhất là tổ Vinitaruci (549) đã lập nên thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi Việt Nam. Vị tổ này là Pháp lữ với đệ Tứ tổ Đạo Tín ở Trung Hoa. Hai tổ đều là đệ tử đắc Pháp của đệ tam tổ Tăng Xán. Phái Vinitaruci truyền được 19 thế hệ, có 28 thiền sư đắc Pháp, khởi đầu từ Ngài Pháp Hiền (626) đến Ngài Y Sơn (1216) phái này không thấy truyền vào phương Nam khi dân tộc Việt Nam làm cuộc Nam tiến lâu dài liên tục. Thiền phái thứ hai là Vô Ngôn Thông (826). Ngài Pháp lữ với Ngài Quy Sơn (853) bên Trung Hoa. Hai tổ đều là đệ tử đắc pháp của tổ Bách Trượng (814) phái thiền này truyền được 15 thế hệ, có đến 40 vị đắc pháp; truyền mãi cho đến niên hiệu Khai Hựu nhà Trần(1337). Phái này cũng không thấy truyền vào phương Nam. Mặc dầu, vào các thế kỷ XIII, XIV đời Lý, Trần thì Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 9 người Đại Việt đã làm chủ đất Thuận Hóa. Thiền phái thứ ba do chính một thiền sư Trung Quốc đã đến đất Châu Ô, Châu Rí cắm tích trượng để hoằng hóa giáo Pháp, nhưng cơ duyên lại đẩy vị thiền sư này ra Thăng Long để khai phá, đó là thiền sư Thảo Đường, phái này truyền thừa được 5 thế hệ, có 19 thiền sư đắc pháp. Thời gian kéo dài từ 1069 đến 1205. Mặc dầu, từ Châu Ô, Châu Rí ra; nhưng về sâu thiền này cũng không truyền vào phương Nam. Thiền phái thứ tư do người Việt sáng lập, đó là dòng Thiền Trúc Lâm ở núi Yên Tử. Phái này long thịnh vào thời dân Đại Việt đã làm chủ cõi đất Thuận Hóa, tuy có đến cửa Tư Dung và vùng Bắc Thuận Hóa mà không truyền bá rộng rãi ở vùng đất mới này. Như vậy, từ buổi đầu, cõi Tiên Bình, Thuận Hóa có Phật giáo, có chùa chiền, có Phật giáo dân gian, có chùa làng, nhưng chưa thấy chùa Tổ có truyền thừa theo một dòng kệ nào. Kịp đến thời kỳ Nam Bắc phân tranh, con đương về Nam bị chặn bởi cuộc nội chiến qua phân. Song tại Nam Hà thì công cuộc Nam tiến tiếp tục diển tiến. Như vậy, nếu không có một Phật giáo Nam Hà, có lẽ nếp sống tư duy, tình cảm tôn giáo sẽ là chỗ trống lớn trong tâm hồn người Việt. Thiền phái thứ năm là thiền phái Nguyên Thiều và thiền phái thứ sáu là Thiền Tử Dung -Liểu Hạnh ở Huế cũng đã góp mặt tiếp nối sự hoằng hóa giáo Pháp của đức Phật, làm cho đạo mạch Phật giáo Việt Nam lưu trường và tiến về phương Nam của dân tộc. Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường Ðồng Cỏ có liên quan đến sự giao lưu của Việt Nam tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích mà lịch sử còn để lại, dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật Giáo Việt Nam thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Ðộ Asoka sau cuộc đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Như Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh pháp cho các nước thuộc vùng viễn đông, trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona được phái đến Suvana-Bhumi, xứ Kim Ðịa. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Ðịa nhưng ý kiến trong quyển lịch sử Phật Giáo Thế Giới thì cho rằng vùng Kim Ðịa này là bán đảo Ðông Dương từ Miến Ðiện kéo dài đến Việt Nam. Vấn đề này được sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (sđđ) viết: "Sử liệu Phật Giáo Miến Ðiện chép rằng hai vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Ðiện truyền giáo nhưng sử liệu Phật Giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác định thành Nê Lê chính là Ðồ Sơn Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 10 hiện nay (cách Hải Phòng khoảng 12km)". Tuy nhiên, ở đây, khi nói về sự du nhâ pâ của Phâ ât giáo vào Viê ât Nam, ta có thể xem viê câ này đã cơ bản hoàn tất trước thế kỷ thứ X, khi mà mô ât mă ât có sự du nhâ âp trực tiếp từ Ấn Đô â cô nâ g với sự ảnh hưởng của Phâ ât giáo Đại thừa từ phương Bắc sau đó, mă ât khác là sự sản sinh, hình thành nền thiền học Viê ât Nam với những thiền phái đầu tiên nhưng lại rất lớn mạnh. Từ đây đã tạo mô ât tiền đề vững vàng cho sự phát triển của Phâ ât giáo Viê ât Nam về sau, mà đỉnh điểm là giai đoạn thế kỷ X - XIV.  Phật giáo Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của 3 tông phái lớn: Thứ nhất là Mật tông: Ra đời từ thế kỷ VII, khi Phật giáo Ấn Độ đã suy yếu và Ấn Độ giáo hình thành. Mật tông hình thành từ Phật giáo Đại thừa và các yếu tố bùa chú, pháp thuật thần linh của Ấn Độ. Những người tu hành trong tông phái mật tông đã ảnh hưởng lớn đến phật giáo Việt Nam thời nhà Lý với các sư Vạn Hạnh, tới đạo hạnh Không Minh không. Mật tông đề cao vai trò của người xuất gia tu hành, thậm chí còn coi là liệu thân của Phật. Thứ hai là Tịnh độ tông: Ra đời vào thế kỷ IV ở TRung Quốc do sư Tuệ Viễn (Viễn Công) lập ra, Tịnh độ tông thờ Tam Bảo: Tam bảo tức là ba ngôi báu. Tam bảo là Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo. Phật Bảo: Đại giác, đại ngộ, hiểu biết tất cả. Pháp Bảo: những giáo thuyết của đức Phật. Tăng Bảo: những người xuất gia cùng hòa hợp, cùng nhau tu học giáo thuyết của Phật. Quy y Tam bảo: là gửi thân vào đức Phật, vào đạo Phật, vào tăng chúng của Phật. Tức là nương theo đức giác có đủ Phước và Huệ, tức là nương theo sự chính không tà kiến, là nương theo đức Tịnh không nhiễm ô trọc, không chấp nệ. Như vậy, Phật tức là giác, Pháp tứ là chính, Tăng tức là tịnh. Có 3 thứ Tam bảo là tổng thể Tam bảo (3 ngôi còn ở trong thế gian). Họ niệm Phật, chủ trương dựa vào Phật lực để giải thoát là chủ yếu. Điều quan trọng là giữ cho tâm tính yên tĩnh, không vọng động, phải hướng thiện và hướng thượng, luôn nhớ công đức cũng như lời răng dạy của Phật. Phải luôn có niềm tin vào sự giác ngộ. Thứ ba là Thiền tông: Ra đời vào thế kỷ VI ở Trung Quốc sư tổ là Bồ Đề Đạt Ma, cho rằng giáo thuyết Phật giáo trừu tượng, lại nhiều kinh sách, người bình dân khó tiếp thu chân lý của phật nên ông chủ trương tu thiền, yên lặng mà suy nghĩ. Tu thiền là cách tốt nhất để thấy được tâm, tính và giác ngộ, vì phật tại tâm, tại tính chứ không phải ở bên ngoài. Có tu tiệm ngộ thông qua 52 bậc mới đạt quả Phật. Có tu đốn ngộ giác ngộ nhanh với điều kiện người tu hành phải tạo ra được công án làm trí tuệ bùng sáng. Thật ra niệm là nhân của đốn, đốn là nhân của tiệm trong quá trình tu hành. Thiền tông Việt Nam là thiền tông nam phái. Phật giáo có luật lệ lễ nghi và Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 11 sự thờ phụng. Người theo đạo Phật có 2 dạng là tu tại gia và xuất gia tu hành. Người theo tại gia gọi là Ưu bà tắc (Nam), Ưu bà di(Nữ) gọi chung là cư sĩ hoặc là phật tín đồ. Cư sĩ tại gia phải thực hiện ngũ giới gồm không được sát sanh; không được trộm cắp; không được sinh hoạt như vợ chồng với người không phải là chồng hoặc vợ của mình; không được vọng ngữ; không được uống rượu say và thập thiện gồm không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm (3 điều kiện về thân); không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác, không nói thêu dệt (4 điều thiện vế khẩu), không tham lam, không giận dữ, không tà kiến (3 điều thiện về ý). Người mới xuất gia tu hành gọi là tiểu hay điệu. Sau một thời gian tu tập (tập sự) sẽ được xuống tóc dần dần và khi được tăng chúng đồng ý sẽ thụ giới Sadi (ở ngoài bắc quen gọi là sư bác). Sa di phải thực hiện 10 giới cấm, ngoài 5 giới cơ bản trên còn phải thực hiện 5 giới nữa là không trang điểm, bao gồm cả không bôi nước hay xoa dầu thơm; không nằm giường nệm cao sang và giường rộng giành cho 2 người; không xem ca hát nhảy múa; không cất giữ vàng bạc; không ăn quá giờ quy định. Sau một thời gian làm Sadi ( từ 10 năm trở lên) nếu được tăng chúng thừa nhận có đủ tư cách và trình độ thì sẽ được thụ giới Tỳ Kheo. Lễ thụ giới Tỳ Kheo được tổ chức trọng thể theo một thiết chế gọi là giới đàn. Tỳ Kheo có các bậc Đại đức (còn gọi là sư ông); Thượng tọa (ngoài việc có đạo đức và trình độ Phật học cao còn phải có 45 tuổi đời và 25 tuổi hạ trở lên); Hòa thượng (ít nhất phải có 60 tuổi đời và 45 tuổi hạ). Ni không có phẩm thượng tọa và hòa thượng mà được thay bằng phẩm ni sư và sư trưởng. Bậc Tỳ Kheo trở lên: Tăng phải giữ 250 giới, Ni phải giữ 348 giới. Người xuất gia phải được phép của cha mẹ, không tàn tật, không nói ngọng, không phải là tội phạm, không phải là kẻ trốn nợ và phải được tăng chúng trong chùa hay tu viện đồng ý. Người xuất gia tu hành được gọi là tăng (Nam), Ni (Nữ). Giới luật quy định cho những người xuất gia là rất nghiêm ngặt, chi tiết cho tất cả các sinh hoạt ăn, mặc, ở, đi lại, ngủ nghỉ, nói năng, quan hệ giao tiếp vói gia đình xã hội, đồng đạo và phương thức hành động. Hàng tháng vào ngày 15, 29 hoặc 30 âm lịch những người xuất gia trong một chùa hay trong một tu viện phải tập họp lại để tụng giới. Người phạm giới được xử theo phép xết ma. Giáo lý, giới luật của Phật giáo tạo ra những nội dung đạo đức khá phong phú, điển hình như "từ bi hỷ xã", "vô ngã vị tha", "bình đẳng hòa hợp, khoan dung yêu thương giúp đỡ lẫn nhau".  Các ngày lễ chính trong Phật giáo Tính theo âm lịch thì những ngày lễ chính là: Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 12 - Ngày 01 tháng 01, lễ vía Phật Di lặc. - Ngày 15 tháng 01, lễ thượng nguyên. - Ngày 08/02, lễ vía Phật thích ca xuất gia. - Ngày 15/2, lễ vía Phật thích ca nhập diệt. - Ngày 04/04, lễ vía bồ tát văn thù. - Ngày 15/04, lễ vía Phật đản sinh; từ 15/04 -đến 15/07 mùa kiết hạ. - Ngày 19/6, lễ vĩa quán thế âm bồ tát thành đạo. - Ngày 13/07, lễ vía địa tạng bồ tát. - Ngày 19/9, lễ vía quán thế âm xuất gia. - Ngày 30/9 lễ vía Phật Dược sư. - Ngày 17/11, lễ vía Phật A di da. - Ngày 8/12, lễ vía Phật thích ca thành đạo. 1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG PHẬT GIÁO Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội; trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội; con người vừa là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Đó là những quan niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người, vậy Phật giáo có quan niệm như thế nào về con người? 1.2.1. Quan niệm của Phật giáo về cấu tạo con người Một trong những khái niệm trung tâm của Phật giáo chính là Pháp (Phạn: Dharma, Paly: Dhamman). Theo tiếng Phạn, chữ gốc của Dharma là nắm giữ, ra đời từ thời Rig Veda, ám chỉ đến tác dụng của các thần linh với nghĩa trực tự và thứ lớp. Đến khi Đức Phật tiếp nhận khái niệm này, Ngài đã cung cấp cho nó nhiều tầng ý nghĩa hơn. Bộ Abhidhaanappadiipikaa, bộ "từ điển" Pali cổ viết bằng văn vần (vào thế kỷ XII), liệt kê đến 14 nghĩa khác nhau của từ Dhamma và khi kết thúc bài kệ cũng phải thêm vào chữ aado (vân vân). 14 nghĩa được nêu lên trong bài kệ là: bản chất, giáo pháp, trí tuệ, công lý, sự thật, điều kiện hay trạng thái bình thường, phước đức, đối tượng của nhận thức, đức tính, giới hạnh, thiền định, vô ngã, sư phạm giới, nguyên nhân. Trong các bản kinh, khái niệm này được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau chỉ như tính chất thiện, bất thiện hoặc vô ký; có khi dùng để chỉ tóc trên đầu; cũng có khi dùng để chỉ toàn bộ các đối tượng hiện hữu do nhân duyên như trong câu “vạn pháp vô ngã” (sabbe dhammaa anattaa) nhưng tựu chung có hai nghĩa cơ bản: Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 13 - Pháp là chỉ tất cả các sự vật, hiện tượng có tự tính, có bản chất riêng không thây đổi để phân biệt với các sự vật hiện tượng khác. - Pháp là pháp tắc tự nhiên, pháp tính hay quy tắc. Con người là một Pháp nghĩa là con người có tự tính hay có bản chất riêng biệt để dựa vào đó mà nhận biết, lý giải và phân biệt với các sự vật, hiện tượng khác. Mặt khác, con người là một pháp còn có nghĩa con người là một thực thể chụi sự quy định của các pháp tắc tự nhiên và dù Đức Phật có mặt hay không có mặt cũng không thây đổi được điều đó. * Các nhân tố hình thành con người. - Con người là hợp thể của Danh và Sắc Có nhiều cách giải thích khác nhau về những nhân tố hình thành nên con người, trong đó có hai nhân tố cơ bản và chung nhất mà Phật giáo đề cập đến: Danh và Sắc (namarupa). Danh - Sắc là tên gọi chung của Ngũ uẩn. Danh chỉ cho phương diện tinh thần hay tâm; còn Sắc chỉ về cơ thể, thể xác hay vật chất. Trong một số trường hợp, để nhấn mạnh mặt này hay mặt khác, Đức Phật đã đề cập đến các khái niệm khác như Ngũ uẩn, Lục giới, Tứ thực, Thập nhị xứ, Thập bát giới... Chẳng hạn, khi nhấn mạnh về vật chất, đức Phật nói Lục giới (đất, nước, lửa, gió, không và thức); Tứ thực (đoạn thực, xác thực, tư thực và thức thực); khi nhấn mạnh đến yếu tố nhận thức, Đức Phật nói Lục xứ (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân và ý), Nhị thập xứ (lục xứ kết hợp với lục cảnh: sắc, thanh, hương, vị, xúc), Thập bát giới (lục xứ kết hợp lục cảnh hình ra lục thức: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức; cộng lại là 18). Khi nói con người là hợp thể của Danh và Sắc, điều đó có nghĩa con người chỉ được gọi là con người khi có sự tương hợp của hai yếu tố: tinh thần và vật chất. Nói cách khác, nói con người được sinh thành thuần túy từ vật chất hoặc từ tinh thần đều là sai lầm; thay vào đó, khi có sự phối hợp hay tương hợp của hai yếu tố này cùng lúc thì khi đó mới có con người. Quan niệm về con người là hợp thể của Danh - Sắc này là quan niệm cơ bản và chung nhất trong tất cả các quan niệm khác về con người, không chỉ tiếp tục tái khẳng định con người là Vô ngã vì là hệ quả của Duyên khởi mà còn muốn nhấn mạnh một điều: vật chất và tinh thần hay thể xác và tâm thức chính là hai nhân tố hình thành nên con người. - Con người là hợp thể của Lục giới (Lục đại) Lục giới (sad dhatavah) là sáu yếu tố hình thành ra con người gồm đất, nước, gió, lửa, không và thức. Gọi là giới vì mỗi thứ đều có giới hạn riêng, có khi còn gọi là đại vì sáu yếu tố này cấu tạo thành thế giới hữu tình và có mặt ở khắp mọi nơi. Năm yếu tố đầu: đất, nước, gió, Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 14 lửa và không thuộc về vật chất hay Sắc trong Danh -Sắc, hình thành ra thể tạng hay cơ thể con người; thức là Tâm, thuộc về Danh trong Danh - Sắc. Đức Phật nói con người là hợp thể của Lục giới hay Lục đại chính là nhấn mạnh khía cạnh vật chất của con người. Theo đó, đất là yếu tố hình thành ra xương, thịt; nước là máu và chất lỏng; gió là hơi thở, sự hô hấp; lửa là độ ấm hay nhiệt độ của cơ thể và không là các khoảng trống; thức là tinh thần, là sinh khí mà nhờ nó, các đại thuộc vật chất mới có sự sống và khả năng hoạt động. Khi quan niệm con người là hợp thể của Lục giới hay Lục đại nghĩa là con người sinh thành và hoại diệt tùy thuộc vào sự dung hòa của sáu yếu tố trên. Mỗi một đại hay một giới cũng không phải là một yếu tố độc lập, biệt lập hay tách rời mà ngược lại chúng chứa đựng trong nhau, một đại có đủ năm đại kia dung nhập trong nhau. Khi đề cập đến con người với tư cách là hợp thể của Lục đại, nhấn mạnh vào yếu tố thể xác vật chất, Đức Phật vừa muốn hành giả quán chiếu thân thể vốn không có Ngã thể thường hằng mà chỉ là một tập hợp bất tịnh của đất, nước, gió, lửa và không; từ đó buông bỏ hay xả ly khỏi sự chấp trước vào thân thể, tiến tới tu tập và giải thoát; mặt khác, Ngài cũng muốn hành giả nhìn nhận vào sự viên dung vô ngại, thu nhiếp và dung hòa lẫn nhau của vạn pháp, cả Tâm và vật, từ đó không còn chấp trước vào bất cứ một yếu tố hay một Ngã thể nào. - Con người là hợp thể của Ngũ uẩn Ngũ uẩn (Panca skandha) còn gọi là Ngũ ấm, Ngũ chúng hay Ngũ tụ. Ngũ uẩn gồm có: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn vàThức uẩn. Sắc uẩn thuộc Sắc, tức thuộc về vật chất; Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn thuộc về Danh, tức đề cập đến Tâm thức hay khía cạnh tinh thần. Khác với quan niệm Lục đại nhấn mạnh khía cạnh vật chất của con người, quan niệm về Ngũ uẩn nhấn mạnh khía cạnh tinh thần hay Tâm thức của con người. - Ngoài ra để con người có thể tồn tại và phát triển thì con người cần phải ăn uống. Ăn (thực) là cái vô cùng quan trọng, trong Phật giáo có 4 loại thực: (1) Đoạn thực: thức ăn là động vật, thức ăn vật chất. (2) Tư thực: thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi. (3) Xúc thực: thức ăn là những cảm xúc, cảm giác. (4) Thức thực: thức ăn là những món ăn tinh thần thuần khiết. Đây la thức ăn của cõi vô sắc, sống bằng tinh thần thanh cao. 1.2.2. Quan niệm của Phật giáo về thân thể con người Khi phân tích con người, Đức Phật sử dụng khái niệm Ngũ uẩn. Khi quán chiếu quá trình Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 15 hình thành ra con người, nói đúng hơn là quá trình hình thành Ngũ uẩn, Đức Phật sử dụng khái niệm Thập nhị nhân duyên. Cả hai quan niệm Ngũ uẩn và Thập nhị nhân duyên đều nhằm mục đích nhấn mạnh con người vốn dĩ Vô ngã, tức là không có ngã để thường hằng, thường trụ và bất biến. Tuy vậy, mỗi một khái niệm có một chức năng riêng biệt nhằm nhấn mạnh các khía cạnh khác nhau. Ngũ uẩn nhằm phân tích sự hiện hữu của con người ở khía cạnh hiện hữu, Thập nhị nhân duyên nhằm chỉ rõ tiến trình sinh thành và hoại diệt của con người. Thập nhị nhân duyên gồm 12 chi là: Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Sinh và Lão Tử. Ta cũng có thể tóm tắt quá trình ra đời của một con người theo một cách khác như sau: Do Vô minh khởi lên làm duyên mà có Hành. Hành là sự dao động của tâm thức, Vô minh khi kết hợp với Hành làm Ý lực tạo tác của tâm thức sinh khởi. Ý lực tạo tác của tâm thức sinh khởi chuyển sinh thành Thức năng. Có Thức nên Nghiệp lực tìm được một chỗ để thoát sinh: hoặc noãn sinh, thai sinh, thấp sinh hoặc hóa sinh. Thức này còn được gọi là Kiết sinh thức hay ý niệm tối sơ, đi vào bào thai để bào thai trở thành một sinh thể. Cái Kiết sinh thức này khi kết hợp với tinh cha huyết mẹ (đối với thai sinh) hay với những chất khác (thấp sinh, hóa sinh...) hình thành nên Danh - Sắc. Đó là một sinh thể trọn vẹn, là giao thoa của tâm lý (Danh) và vật lý (Sắc). Tâm lý và vật lý hòa hợp lẫn nhau biểu hiện ra Lục nhập gồm mắt, tai, mũi, thân, ý. Khi đã có Lục nhập rồi, đến ngày sinh đứa bé thì lục căn tiếp xúc với lục cảnh là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Đức Phật gọi là Xúc, nhưng vì ở đây, trẻ từ 1 đến 3 tuổi nên còn hoàn toàn vô tư, không phân biệt tốt - xấu, hay - dở... Từ 4 đến 6 tuổi, khi đó sự tiếp xúc mới nảy sinh phân biệt, mới nhận thấy cái nào đáng ưa, đáng ghét, ... đó gọi là “Xúc duyên Thọ”. Khi có Thọ thì tình cảm luyến ái phát sinh, thích cái mình ưa và muốn tránh cái mình ghét. Ái chính là Thọ đi đến một trạng thái chín muồi, khi Ái phát sinh thì từ Ái này sinh ra Thủ. Thủ có nghĩa là níu kéo và duy trì cái mà mình yêu. Cũng chính Ái và Thủ là động lực để duy trì sự tồn tại, đồng thời cũng chính nó tạo nên tiến trình của tồn tại, vì thế “thủ duyên hữu” chính là như vậy. Khi hữu hình thành thì năng lực tạo Nghiệp hình thành. Vì năng lực tạo Nghiệp mà năng Sinh phát sinh. Vì năng Sinh mà có Lão - Tử. Theo quan niệm Vô thường thì mọi sự vật hiện tượng luôn luôn vận động biến đổi không ngừng, không có cái gì là thường hằng, thường trụ. Sở dĩ vạn vật trong vũ trụ chịu sự chi phối của luật nhân quả. Vô thường có hai loại: - Sát na vô thường: chỉ sự biến hóa trong từng sát na (1 sát na = 1/1 triệu giây - đây là đơn vị thời gian bé nhất trong Phật giáo) điều có sinh, trụ, dị, diệt (sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 16 vong). - Tương trụ vô thường chỉ trong một chu kỳ có 4 tương sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau. Như vậy con người là sự kết hợp của những yếu tố động nên không có gì định hình có thể gọi nó là nó được, và suy cho cùng nó là Vô ngã. Với cách nhìn như vậy, mọi sự vật hiện tượng chỉ là giả danh, không thực, chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn mà thành nên nó là hư vong, huyễn hoạt. Đủ nhân duyên hợp lại thì sống, nhân duyên tan ra thì chết. Sống chết chỉ là sự hợp tan của Ngũ Uẩn. Vô thường mà tưởng là thường, Vô ngã mà tưởng là ngã, đó là cái mê lầm lớn nhất của con người. Phật giáo cho rằng thân thể là gốc của mọi khổ đau (thân vi khổ bản), nhưng nếu không có thân thì lo lắng sợ sệt, nóng giận, dâm dục... thì đâu mà tới được. Mọi sự vật hiện tượng điều là vô thường nên thân thể con người cũng nằm trong quy luật đó, nó cũng Vô thường, hôm nay thấy là còn trẻ vậy mà ngày mai đã thấy già. 1.2.3. Quan niệm của Phật giáo về bản chất con người Theo triết học Phật giáo thì bản chất con người là Vô ngã. Tuy vậy, để hiểu Vô ngã thì trước hết phải biết Ngã là gì ? Ngã theo tiếng Phạn là Atman, âm Hán là A đặc man hay A thán ma được hình thành từ thời Rig Veda. Trong Upanishad, nguồn gốc của Ngã là sinh khí hay hơi thở, sau đó chuyển thành Tự tính, Bản chất, Sinh mệnh, Tự ngã, Tự kỷ.... hoặc chỉ chung là một chủ thể độc lập, tồn tại vĩnh viễn có sẵn trong con người. Sang tiếng Hán, Ngã được hiểu theo hai nội dung: Chủ và Tể (Ngã vi chủ tể). Chủ là tự tại và Tể là cắt đặt hay sắp đặt, nghĩa là mọi tư duy, lời nói, việc làm của mình biểu hiện ra bên ngoài đều do sự lãnh đạo, sắp xếp của Ngã. Khái niệm Ngã còn được gọi dưới nhiều tên gọi khác nữa như Linh hồn, Cái tôi... tùy từng hoàn cảnh cụ thể. Cách hiểu này về sau được các học phái dựa trên thánh điển Veda và Upanishad chấp nhận, ngay cả Phật giáo khi phủ nhận học thuyết về Ngã của các triết thuyết khác cũng chính là phủ nhận Ngã vói nội dung như vậy. Vậy theo Phật giáo, Ngã là một phạm trù dùng để chỉ một thực thể vĩnh hằng, độc lập, tuyệt đối, bất biến, có trước con người và quy định bản chất con người. Ngã có một số đặc điểm sau: - Thứ nhất, Ngã là chủ thể độc lập, tuyệt đối, không bị phụ thuộc, ảnh hưởng hay tác động bởi bất cứ cái gì. - Thứ hai, Ngã thường hằng, bất sinh, bất diệt. Ngã không ra đời lúc sinh và mất đi lúc Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 17 chết cùng với cơ thể con người. - Thứ ba, Ngã vốn vô hình, vô ảnh, không thể nắm bắt hay sờ mó được nhưng ở đâu cũng có Ngã và vạn vật sinh thành, trưởng dưỡng được là nhờ có Ngã. * Những biểu hiện về bản chất của con người. Tuy quan niệm bản chất con người là Vô ngã nhưng xét trong từng hoàn cảnh cụ thể, bản chất con người cũng được biểu hiện nhiều hình thái khác nhau. Có lúc con người làm nhiều việc ác, có lúc con người làm nhiều việc thiện. Điều ấy chứng tỏ con người tuy không có tự tính cố định nhưng trong mỗi con người điều ẩn chứa hai tự tính là Vô minh tính và Phật tính. Nói cách khác, khi con người bắt đầu tham gia vào tiến trình sinh - tử thì con người đã chụi sự quyết định và đồng thời cũng là hệ quả của Vô minh tính nhưng trong con người còn tìm tàng cả Phật tính hay khả năng giải thoát khỏi tiến trình sinh tử đó nên nói bản chất con người song hành tồn tại Vô minh tính và Phật tính. - Vô minh tính và vai trò của vô minh tính Vô minh tính là thuật ngữ dùng để chỉ một trong những biểu hiện cụ thể về bản chất của con người trong đời sống hiện thực nhưng khi tìm hiểu về nguồn gốc của vô minh tính thì chúng ta sử dụng thuật ngữ Vô minh. Nói cách khác, Vô minh là tên gọi khác của Vô minh tính nhằm nhấn mạnh nguồn gốc hình thành ra Vô minh tính.Quá trình hình thành con người được giải thích dựa trên sự vận hành của 12 chi trong Thập nhị nhân duyên thì chi vô minh gây ra nhiều thắc mắt lớn nhất. Vô minh có phải là nguồn gốc củ sự sống? Là thực tại đầu tiên và duy nhất cho toàn bộ hiện hữu? Nếu thừa nhận Vô minh là nguồn gốc đầu tiên hay là thực tại duy nhất thì khái niệm Duyên sinh có còn đứng vững?... Chính những thắc mắc này khiến khái niệm Vô ngã trở thành nan giải và Phật giáo có thể vấp phải mâu thuẫn khó tránh khỏi. Tuy nhiên, vấn đề này không phải bây giờ được nêu ra mà ngay từ khi Đức Phật còn tại thế, vấn đề Vô minh từ đâu ra đã được đề cập, và từ vấn đề Vô minh này, khái niệm Vô ngã lại một lần nữa được nhắc nhưng không phải với việc phân tích các yếu tố hình thành ra con người mà là xác định bản chất hay bản tính cố hữu của con người.Vô minh tuy là động lực kết hợp Ngũ uẩn, Tứ thực, nhưng khi ý chí căn bản này là những hoạt động thì rút cuộc nó cũng là từ trong tự thể cơ quan mà triển khai ra rồi tạm ý theo cái đặc trưng ấy mà chia nhánh để quan sát, phân tích chứ nó quyết không phải vật ngoài tự thân tác dụng khiến cho hiện tượng sinh mệnh phát khởi. Nghĩa là, trong bản thân Vô minh đã có đầy đủ khả năng tính tương đương để trở thành những yếu tố Ngũ uẩn, Tứ thực rồi, nhưng khi vẫn chưa khai triển cái địa vị của trạng thái nguyên thủy Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 18 đó thì được gọi là Vô minh, còn đương thể khi đã triển khai rồi thì được gọi là Ngũ uẩn. Bản chất của Vô minh là bất giác, căn bản Vô minh là một niệm bất giác chợt khởi lên hay thình lình khởi lên. Vì niệm Vô minh căn bản bất chợt hiện lên vô cùng nhỏ nhiệm, là một loại động tâm vi tế có nguồn gốc từ vô thủy nên không thể xác định nguồn gốc, là đầu mối của mọi thứ phiền não nên được gọi là Căn bản vô minh. Chi mạt vô minh là loại vô minh ra đời từ Căn bản vô minh, tạo ra Nghiệp thô và tế. Từ vô minh và Tham ái mà Ngũ uẩn được hình thành, có Ngũ uẩn nên tạo Nghiệp, và tạo nghiệp mà sinh ra luân hồi, phiền não và đau khổ. Điều đó có thể được hiểu như là một quá trình hình thành bản chất của con người trong thế giới hiện tượng. - Phật tính. Ở trên chúng ta đã nói đến bản chất con người trong đời sống hiện tượng chịu sự quy định và đồng thời cũng là hệ quả của Vô minh, mà biểu hiện cụ thể của Vô minh chính là Nghiệp và Luân hồi. Tuy vậy, bản chất của con người là Vô ngã nên khả thể của con người có thể chấm dứt chu trình Luân hồi cùng với các phiền não và khổ đau mà nó mang theo. Chính vì thế, bên cạnh Vô minh, trong con người có chứa đựng Phật tính, hay các hạt giống có khả năng đưa con người tới Niết bàn. Kinh Rohitassa Sutta có ghi lại những Phật ngôn sau đây: “Như Lai tuyên bố rằng thế gian, nguồn gốc của thế gian, và con đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian, đều nằm trong tấm thân một trượng nầy, cùng với tri giác và tư tưởng". Khái niệm Phật tính (Buddha - dhatu) còn gọi là Như Lai tính hay Giác tính chỉ cho bản tính của Phật hay khả năng thành Phật, là hạt giống hay chủng tử có sẵn trong tâm thức mỗi con người. Vậy Phật tính hay Như Lại tính... là gì? Như Lai hay Phật tính có các đặc điểm sau: an ổn, rời tham ái, toàn trí, toàn kiến, tự tại, đến như vậy, đi như vậy... Các đặc điểm này cũng là đặc điểm “đang ngủ ngầm” trong tâm thức mỗi chúng sinh. Chúng sinh còn trôi lăn trong sinh tử luân hồi, còn nhiều phiền não và khổ đau đơn giản vì chưa phát hiện ra các đặc điểm này của chính mình và sống với nó mà thôi. Tóm lại, về bản chất, con người là Vô ngã tính hay Vô tự tính hay Vô tính, tức là không có bản tính cố định. Tuy vậy, dưới khía cạnh Tục đế, khi con người ra đời thì con người đã là kết quả của một chuỗi các nhân duyên, trong đó Vô minh và Ái là hai nhân tố cơ bản nên Vô minh tính chính là một phần bản chất của con người. Nhưng vì con người có khả năng tu tập và khả năng giải thoát khỏi tấm lưới của Vô minh nên bên cạnh Vô minh tính, con người còn có Phật tính. Xét dưới khía cạnh chân đế, Phật tính chính là bản tính thường hằng của con người còn Vô minh tính chỉ là lớp màn của ảo tưởng tạm thời che đi sự sáng suốt của Phật tính. Mỗi con người Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 19 muốn giải thoát thì cần phải tu tập để đánh thức Phật tính trong mỗi con người thức dậy. 1.2.4. Quan niệm của Phật giáo về cuộc đời con người Quan niệm của Phật giáo về đời người được thể hiện rõ trong Tứ Diệu Đế. “Tứ diệu đế” là nội dung chủ yếu là về nhân sinh quan Phật giáo - luận điểm về giải thoát và cứu khổ - Niết bàn. - Khổ đế: tất cả những cái có, vốn là tồn tại điều khổ. Đau khổ là quá trình tồn tại. Đời là bể khổ “nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của bốn biển”. Những cái khổ tóm lại trong bát khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thụ ngũ uẩn khổ. - Tập đế (nhân đế): mọi cái khổ điều có nguyên nhân. Nguyên nhân của đau khổ nằm trong trần tục là vô minh, là dục vọng. “Thập nhị nhân duyên” là nguyên nhân của cái tồn tại kéo dài không ngừng và liên tục trong vòng quay vĩnh cữu. Mười hai ngyên nhân ấy là: Vô minh, hành, thức, danh - sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão - tử điều gây khổ. Duyên “lão tử” vừa là kết quả của một quá trình, nhưng cũng là ngyên nhân của vòng luân hồi mới từ vô minh của cuộc đời khác. Tất cả 12 nguyên nhân này quan hệ ràng buộc với nhau, dẫn tới cay đắng của cuộc đời. - Diệt đế: Phật giáo khẳng định cái khổ có thể diệt được. Có thể chấm dứt được đau khổ, chấm dứt được luân hồi nhờ đạt trạng thái niết bàn. Niết bàn có thể hiểu theo các nghĩa sau: 1) Là cảnh trí của nhà tu hành đã diệt sạch các phiền não và tự biết rằng, mình chẳng còn luyến ái. 2) Là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não. 3) Là đã dứt nhân quả sinh tử, dứt hết nghiệp, luân hôi. 4) Là vô vi, trống không, lặng lẽ, yên ổn chấm dứt cái tai hại của sinh tử. 5) Là không sinh ra những khổ quả nữa. 6) Là không nhân duyên tạo tác nghiệp lầm (vô vi). 7) Là yên ổn, khoái lạc, hêt khổ (an lạc). 8) Là lìa khỏi phiền não (giải thoát). Niết bàn theo Phật giáo cũng có những nghĩa như thế, nhưng cần phải được hiểu là: 1) Cõi tĩnh, tịch, cực lạc siêu không gian, siêu thời gian (hư không, thế giới bên kia). 2) Đã diệt trừ hết mọi dục vọng. thù ghét, mê lầm đạt đến sự giải thoát tuyệt đỉnh, đồng nhất Niết bàn, Pháp, Phật (Niết bàn có ngay trong hiện thực). Triết học phật giáo về con người, ảnh hưởng của triết lý này đến nhận thức và hoạt động sống của con người Việt Nam Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan