Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Triết học ( dành cho khối không chuyên ngành triết học trình độ đào tạo thạc sĩ,...

Tài liệu Triết học ( dành cho khối không chuyên ngành triết học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên công nghệ)

.PDF
89
696
87

Mô tả:

CHƢƠNG I KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC I.TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC 1. Triết học và đối tượng của triết học a. Quan niệm về triết học. Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trƣớc CN, đồng thời ở cả Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại. Theo ngƣời Ấn Độ, triết học là darshana: sự chiêm ngƣỡng dựa trên lý trí, là con đƣờng suy ngẫm để dẫn dắt con ngƣời đến lẽ phải. Theo gốc Hán tự, thuật ngữ “triết” có nghĩa là “trí”, “có trí tuệ”, “sáng suốt”, chỉ sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh. Theo chữ Hy Lạp, philosophia: yêu mến sự thông thái Nhƣ vậy, dù ở phƣơng Đông hay phƣơng Tây, ngƣời ta đều quan niệm triết học là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu sắc về thế giới, nắm bắt đƣợc chân lý, hiểu đƣợc bản chất của sự vật, hiện tƣợng; nó tồn tại với tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội, một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, có trình độ khái quát hóa và tƣ duy trìu tƣợng cao. Theo quan điểm mácxít, triết học là hình thái ý thức xã hội đặc thù, là học thuyết chung nhất về tồn tại và nhận thức; là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Vì vậy, có thể khái quát rằng: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. b. Nguồn gốc của triết học Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Về nhận thức: triết học chỉ ra đời khi con ngƣời đã đạt đến trình độ trừu tƣợng hoá, khái quát hoá, hệ thống hóa để xây dựng nên các học thuyết lý luận. Về xã hội: xã hội xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ- xã hội có giai cấp đầu tiên của nhân loại c. Đối tượng của triết học Thời cổ đại: đối tƣợng nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức (Triết học là khoa học của các khoa học) Thời Trung cổ: do sự chi phối của tôn giáo, triết học trở thành một bộ môn của thần học, có nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho giáo lý Kinh thánh Thế kỷ XVII- XVIII: sự phát triển của khoa học tự nhiên, triết học vẫn gắn liền với khoa học tự nhiên, chƣa tách độc lập. Đầu thế kỷ XIX, Hêghen quan niệm, triết 1 học là hệ thống phổ biến của các tri thức khoa học, là khoa học của các khoa học, các ngành khoa học khác chỉ là những mắt khâu của triết học. Với tƣ cách là một khoa học, Triết học Mác nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. 2. Vấn đề cơ bản của triết học Vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy hay giữa tự nhiên và tinh thần là vấn đề cơ bản của triết học. Tại sao đây là vấn đề cơ bản, vì: + Đây là vấn đề cơ sở, nền tảng, xuyên suốt mọi học thuyết triết học trong lịch sử, quyết định sự tồn tại của triết học; + Quyết định sự hình thành thế giới quan, phƣơng pháp luận của các triết gia, xác định bản chất của các trƣờng phái triết học; + Là điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Nội dung vấn đề cơ bản: + Mặt thứ nhất: (bản thể luận) + Mặt thứ hai: (nhận thức luận) 3. Chức năng cơ bản của triết học a. Chức năng thế giới quan. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Về nguồn gốc, thế giới quan là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, song suy cho cùng nó là kết quả của những yếu tố chủ quan và những yếu tố khách quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Hình thành thế giới quan là một quá trình tất yếu mà chủ thể của nó có thể là một cá nhân hay cộng đồng xã hội. Về nội dung, thế giới quan phản ánh thế giới ở ba góc độ: 1. Các đối tƣợng bên ngoài chủ thể; 2. Bản thân chủ thể và; 3. Mối quan hệ giữa chủ thể và các đối tƣợng bên ngoài chủ thể. Về hình thức, thế giới quan có thể biểu hiện dƣới dạng các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể biểu hiện dƣới dạng hệ thống lý luận chặt chẽ. Về cấu trúc, là hiện tƣợng tinh thần, thế giới quan có cấu trúc phức tạp và đƣợc tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác nhau, song hai yếu tố cơ bản của thế giới quan là tri thức và niềm tin. Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan, song tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi nó đã trở thành niềm tin để hình thành lý tƣởng, động cơ thôi thúc con ngƣời hành động. Thế giới quan tạo nên cơ sở vững chắc cho con ngƣời tiếp tục tìm hiểu thế giới, cho con ngƣời xác định thái độ, cách thức hoạt động, cách thức sống nói riêng và xác lập nhân sinh quan nói chung. Nhƣ vậy, chức năng 2 bao trùm của thế giới quan là chức năng định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của con người. Thế giới quan có nhiều trình độ khác nhau: Thế giới quan huyền thoại là thế giới quan có nội dung pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo. Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lƣợng siêu nhiên đối với thế giới, đƣợc thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lƣợng siêu nhiên ấy. Thế giới quan triết học là thế giới quan đƣợc thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con ngƣời về thế giới và về bản thân con ngƣời, mà còn chứng minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận. Triết học ra đời với tính cách là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới quan, là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đã làm cho thế giới quan phát triển lên một trình độ tự giác dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học mang lại. b. Chức năng phương pháp luận. Phương pháp luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phƣơng pháp luận đƣợc phân chia thành cách cấp độ: + Phƣơng pháp luận bộ môn là những quan điểm, nguyên tắc xác định các phƣơng pháp nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của các ngành khoa học cụ thể. + Phƣơng pháp luận chung là những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo việc xác định phƣơng pháp của một nhóm các ngành khoa học có những điểm chung nhất định. + Phƣơng pháp luận triết học là những quan điểm, nguyên tắc chung nhất; là xuất phát điểm cho việc xác định phƣơng pháp luận bộ môn, các phƣơng pháp luận chung, các phƣơng pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn. Các hình thức phƣơng pháp luận vừa độc lập tƣơng đối với nhau, vừa bổ sung, xâm nhập vào nhau, do đó cần vận dụng tổng hợp các phƣơng pháp luận trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Phương pháp luận biện chứng duy vật là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa. Phƣơng pháp luận biện chứng duy vật là học thuyết về phƣơng pháp nhận thức khoa học và cải tạo thế giới. II. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC TRONG LỊCH SỬ 1. Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng triết học trong lịch sử 3 Trên cơ sở thế giới quan, phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, có thể thấy, lịch sử triết học có hai đặc điểm về tính quy luật: 1. Tính quy luật phản ánh của lịch sử triết học đƣợc khái quát từ các điều kiện kinh tế- xã hội, sự phát triển của văn hóa và khoa học trong các giai đoạn lịch sử. 2. Tính quy luật giao lưu, bao gồm giao lƣu đồng loại và giao lƣu khác loại. Giao lƣu đồng loại bao gồm giao lƣu theo lịch đại và giao lƣu đồng đại. Giao lƣu khác loại bao gồm giao lƣu giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội khác. Theo đó, sự phát sinh, phát triển của lịch sử tƣ tƣởng triết học chịu sự quy định của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan mang tính quy luật. + Điều kiện kinh tế - xã hội và nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội; + Sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; + Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hƣớng triết học cơ bản- CNDV và CNDT; + Cuộc đấu tranh giữa hai phƣơng pháp nhận thức trong lịch sử là phƣơng pháp biện chứng và phƣơng pháp siêu hình; + Sự kế thừa các tƣ tƣởng triết học trong tiến trình lịch sử; + Sự liên hệ, ảnh hƣởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học của các dân tộc, các quốc gia trên thế giới; + Mối quan hệ với các hình thái tƣ tƣởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…. 2. Sự ra đời và phát triển của triết học phương Đông a. Quan niệm về triết học phương Đông „„Triết học phƣơng Đông” là khái niệm chỉ nền triết học của các quốc gia châu Á. Triết học phƣơng Đông bắt nguồn từ Ai Cập, Babilon, tới Ấn Độ, Trung Quốc… với hai trung tâm lớn là Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại. b. Một số đặc điểm triết học phương Đông Triết học phƣơng Đông ra đời từ rất sớm, vào khoảng thiên niên kỷ thứ III TCN trong các nền văn minh Ai Cập, Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại. + Lấy con ngƣời và các vấn liên quan đến con ngƣời làm đối tƣợng nghiên cứu. + Thế giới quan bao trùm là thế giới quan duy tâm. + Sự phân chia niên đại, thời kỳ thƣờng theo các triều đại phong kiến. + Khuynh hƣớng chung là hƣớng nội. + Tính đại chúng và tính nhân dân là nét nổi bật của triết học phƣơng Đông. Nghiên cứu sự ra đời và phát triển của triết học Ấn Độ, cổ, trung đại chúng ta sẽ thấy rõ cơ sở khoa học của những nhận định trên. Ngay từ khi mới ra đời và suốt cả quá trình tồn tại, phát triển, triết học Ấn Độ hƣớng trọng tâm vào nghiên cứu, luận giải các vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo và tâm linh; xu hướng chung, nổi trội là “hướng nội”. Các nhà triết học đều có chung 4 một mục đích là đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân, lấy cái bên trong để giải thích cái bên ngoài. Tư duy triết học của người Ấn Độ có tính trìu tượng, khái quát cao và trí tƣởng tƣợng của ngƣời Ấn Độ rất phát triển, những “niết bàn”, “thế giới c ực lạc”, “sắc, sắc, không, không”…là kết quả sự phát triển tƣ duy trìu tƣợng của họ. Tính bút chiến, chiến đấu và phê phán trong triết học Ấn Độ là khá rõ ràng nhưng không triệt để. Điều đó phản ánh trạng thái trì trệ của “phương thức sản xuất châu Á” ở Ấn Độ vào triết học, và đến lƣợt mình, triết học lại trở thành một trong những nguyên nhân của trạng thái trì trệ đó. Sự giống và khác nhau cơ bản giữa các trường phái triết học chính thống trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại. Trƣờng phái nào về cơ bản thống nhất với kinh Veda, thừa nhận vai trò của đạo Brahamane (Bà la môn) đƣợc coi là trƣờng phái chính thống và ngƣợc lại là không chính thống. Nhƣ vậy, triết học Ấn Độ có 6 trƣờng phái chính thống, 3 trƣờng phái không chính thống. Trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại, Phật giáo là một trƣờng phái triết học không chính thống, nhƣng tƣ tƣởng triết học của Phật giáo có một vị trí rất quan trọng. Về bản thể luận, Phật giáo đƣa ra tƣ tƣởng “nhất thiết duy tâm tạo” hay “vận pháp duy tâm tạo” (mọi sự vật, hiện tƣợng từ tâm mà sinh ra, phụ thuộc vào diễn biến của hoàn cảnh, điều kiện cụ thể); “tam giới duy thức” (ba thế giới: sắc giới, dục giới và vô sắc giới đều do ý thức quyết định); tƣ tƣởng “vô thường”, “vô ngã” và luật nhân duyên quả báo. Về nhân sinh, Phật giáo đƣa ra tƣ tƣởng luân hồi và nghiệp báo, tứ diệu đế, thập nhị nhân duyên và niết bàn. “Luân hồi, nghiệp báo”: con ngƣời xuất hiện là do nghiệp. Khi còn nghiệp, con ngƣời phải quay trở lại tái sinh. Tái sinh không phải là sự đầu thai của linh hồn mà là sự kết tập mới của ngũ uẩn: nghiệp đƣợc phân thành 2 loại: thiện nghiệp và ác nghiệp. Tổng hợp bù trừ 2 loại đó thành nghiệp lực. Nghiệp lực là thiện hay ác sẽ quyết định con ngƣời tái sinh vào kiếp nào: thiên, nhân, atula, súc sinh, quỷ, địa ngục. Phật giáo chỉ ra lối thoát khỏi luân hồi ở thuyết “tứ diệu đế”. Triết học Trung Quốc cổ, trung đại hƣớng vào giải quyết các vấn đề chính trịxã hội, đạo đức, luân lý, lấy con ngƣời, lợi ích của con ngƣời và xã hội làm trung tâm. Tƣ tƣởng triết học xuyên suốt chiều dài lịch Trung Quốc là tƣ tƣởng “thiên nhân hợp nhất”, “vạn vật đồng nhất thể”. Sự thống nhất con ngƣời với thế giới là sự thống nhất toàn bộ, triệt để, cả về thể xác và tinh thần, cả đời sống nhận thức cũng nhƣ đời sống luôn lý, đ ạo đức; nếu thế giới đƣợc xem là “cái một”, là “thái cực”, thì con ngƣời cũng đƣợc xem là “một thái cực”- “đạo trời và đạo người”. Tƣ duy của hầu hết các trƣờng phái triết học Trung Quốc là rất cụ thể, có nhiều yếu tố dân sinh, trực quan tâm linh, luôn hƣớng vào giải quyết các vấn đề thƣờng nhật, bức thiết đang xảy ra. Do đó, yếu tố duy lý triết học thƣờng ít đƣợc quan tâm, tuy về 5 sau này, các trƣờng phái triết học Trung Quốc có tiếp thu, kế thừa tƣ tƣởng triết học của các trƣờng phái khác để bổ sung, nâng tầm tƣ duy duy lý triết học của mình. Cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm tuy có diễn ra trong triết học Trung Quốc, song không thực sự nổi bật. Thế giới quan duy tâm, tôn giáo bao trùm triết học Trung Quốc thời kỳ cổ, trung đ ại. VD: Nho giáo từ chỗ ngả nghiêng giữa duy tâm và duy vật phát triển sang duy tâm nhất nguyên; Lão giáo từ duy vật nhất nguyên phát triển thành hai phái: duy vật duy lý và duy tâm tôn giáo có ma thuật. Nhìn chung, các trƣờng phái triết học Trung Quốc đồng loạt xuất hiện vào thời Xuân Thu, phát triển mạnh trong thời Chiến Quốc và đạt đƣợc những thành tựu rất quan trọng. Tiêu biểu trong các trƣờng phái là Nho gia, Pháp gia, Đạo gia và Mặc gia. Tƣ tƣởng triết học của Khổng Tử (551- 479 Tcn) và trƣờng phái Nho gia thể hiện rõ nét trong “Lục kinh”: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Xuân thu (đời nhà Tần, Kinh Nhạc bị thất truyền) và “Tứ thƣ”: Luận Ngữ (ghi lại những lời nói của Khổng Tử với học trò và ngƣời đƣơng thời, cũng những lời bàn của học trò Khổng Tử), Đại học (Tăng Sâm viết), Trung dung (Tử Tƣ viết), Mạnh Tử (Mạnh Tử viết). Với việc hệ thống hóa những tri thức tƣ tƣởng đời trƣớc và trình bày quan điểm nhân, lễ và chính danh, Khổng Tử đã xây dựng nên học thuyết đạo đứcchính trị nổi tiếng là Nho giáo. Tư tưởng cơ bản của triết học Đạo gia: Đạo gia là trƣờng phái triết học có nhiều yếu tố duy vật và biện chứng sơ khai. Tƣ tƣởng của Đạo gia thể hiện ở phạm trù Đạo và Đức. Đạo là bản thể, là cội nguồn sinh ra trời, đất, ngƣời và vạn vật. Đạo là cái khởi nguyên- cái ban đầu, thống nhất nên gọi là “cái một”. Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật, vạn vật sinh đến vô cực lại quay về Đạo. Đức là thế tiềm tàng của Đạo ở thế giới hiện hữu, phụ thuộc vào Đạo, Đức là tính chất của mọi sự vật, hiện tƣợng. Do vậy, Đạo là bản thể, bản chất tiềm ẩn ở bên trong. Còn Đức là tính chất thế lực của Đạo, biểu hiện ra bên ngoài. Nhờ Đức mà ngƣời ta biết có Đạo. Tƣ tƣởng biện chứng của Đạo gia thể hiện ở chỗ: vạn vật luôn biến đổi không ngừng theo quy luật phản phục âm- dương, thể hiện qua nhiều luận điểm về tính tƣơng đối của sự vật, hiện tƣợng và sự chuyển hóa của các mặt đối lập nhƣ phúc- họa, caothấp, thiện- ác,… Tư tưởng cơ bản của Triết học Mặc gia là tin tưởng tuyệt đối vào thiện ý của trời, trời thƣơng yêu con ngƣời và luôn mong muốn con ngƣời hạnh phúc. Vì vậy, Mặc Tử và học trò của ông đã xây dựng học thuyết Kiêm ái. Hạt nhân của thuyết Kiêm ái là kiêm tương ái, giao tương lợi, tức là mọi ngƣời cùng yêu thƣơng nhau, cùng làm lợi cho nhau không phân biệt đẳng cấp, sang hèn, mọi ngƣời đều phải thƣơng yêu, giúp đỡ lẫn nhau; giữ điều lành; tránh, bỏ điều ác, không làm hại nhau và chém giết lẫn nhau. Làm đƣợc nhƣ thế là đúng với “thiện chí” của trời. Biện pháp để làm đƣợc điều đó là kiêm ái. 6 Tư tưởng cơ bản của triết học Pháp gia thể hiện khác rõ trong học thuyết Pháp trị với việc đề cao tinh thần duy vật, vô thần và phép biện chúng sơ khai. Các nhà triết học Pháp gia chủ trƣơng dùng pháp trị để thực hiện chính danh và phê phán những hạn chế của thuyết Đức trị. Nội dung tƣ tƣởng Pháp gia là tổng hợp ba phạm trù: Pháp, Thuật, Thế. Đây là công cụ của đế vƣơng. Pháp phải rõ ràng minh bạch, thời cuộc thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Muốn quyền lực nhà nƣớc thi hành đƣợc pháp luật thì đế vƣơng phải có Thế, tức là nắm đƣợc quyền lực nhà nƣớc và phƣơng pháp, cách thức, thủ đoạn để thực hiện Pháp là dựa vào Thế. Vua phải có Thuật của vua, tức là thuật cai trị và điều khiển bộ máy nhà nƣớc. 3. Sự ra đời và phát triển của triết học phương Tây a. Quan niệm về triết học phương Tây Triết học phương Tây có thể hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng, triết học phƣơng Tây là hệ thống quan điểm, quan niệm của ngƣời phƣơng Tây thể hiện qua các trào lƣu, tƣ tƣởng triết học từ triết học Hy Lạp cổ đại đến ngày nay. Nghĩa hẹp, triết học phƣơng Tây đƣợc xem nhƣ là các trào lƣu, quan điểm triết học đƣơng đại và thƣờng đƣợc hiểu là triết học ngoài mácxit b. Bối cảnh ra đời, thành tựu và đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại Bối cảnh ra đời: + Là một chế độ nô lệ rất điển hình, xã hội phân hóa giai c ấp sâu sắc: chủ nô và nô lệ. Trong giai cấp chủ nô phân hóa thành chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc. Phân công lao động rõ rệt: lao động trí óc và chân tay; thành thị và nông thôn + Có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế và khoa học. Địa thế rất thuận lợi cho giao lƣu, buôn bán với Bắc Phi, Trung Quốc, Ấn Độ. Do đó, những con số mà ta quen gọi là số Ả rập, thực tế những con số đó không phải do ngƣời Ả rập phát minh ra mà lấy của ngƣời Ấn Độ cổ đại. Khoa học phát triển: Asimet, Talet, Pitago...quê hƣơng của toán học Đặc điểm chủ yếu của triết học Hy Lạp cổ đại + Là triết học của giai cấp chủ nô, triết học chủ yếu xuất hiện trong cuộc đấu tranh giữa chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc với 2 trƣờng phái: chủ nghĩa duy vật (chủ nô dân chủ) và chủ nghĩa duy tâm (chủ nô quý tộc). + Gắn chặt với khoa học tự nhiên, lấy giới tự nhiên làm đối tƣợng nghiên cứu. + Thế giới quan bao trùm là duy vật và vô thần. Triết học Hy Lạp ngay từ đầu đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh giữa đƣờng lối Đêmôcrit và đƣờng lối Platôn. + Phép biện chứng tự phát, ngây thơ ra đời và phát triển cùng với chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác. 7 + Triết học Hy Lạp chứa đựng mầm mống của hầu hết các thế giới quan sau này. Ngay từ khi xuất hiện chúng luôn đƣợc giải quyết theo hai quan điểm đối lập nhau: hoặc là duy vật hoặc là duy tâm. + Sự phát triển mang tính “cách mạng”, “ đột biến”. Thầy theo một trƣờng phái, nhƣng trò có thể mở ra một trƣờng phái riêng. + Coi con ngƣời là ngƣời chinh phục thiên nhiên, phục vụ cho mình. Con ngƣời phƣơng Tây rất khó thích nghi, cái tôi r ất mạnh; Pitago: con ngƣời là thƣớc đo của vạn vật. Con ngƣời phƣơng Đông dễ hòa hợp c. Bối cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ Bối cảnh ra đời + Sự thống trị của chế độ phong kiến V- XV + Thế kỷ XII, kỹ thuật thủ công nghiệp và dân cƣ tăng mạnh, nhiều thành phố ra đời; nhà thờ Kitô giáo phát triển mạnh. Đặc điểm của triết học Tây Âu thời kỳ trung cổ + Thế giới quan bao trùm là duy tâm và tôn giáo + Cuộc đấu tranh giữa “phái duy danh” và “phái duy thực” thể hiện khuynh hƣớng duy vật và duy tâm (phái duy danh gần gũi với chủ nghĩa duy vật, phái duy thực là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm). d. Bối cảnh ra đời và đặc điểm của triết học thời kỳ Phục hưng Bối cảnh ra đời + Là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chế độ tƣ bản chủ nghĩa, thời kỳ chuẩn bị cho một nền văn hóa mới- văn hóa tƣ sản sơ khai đƣợc hình thành. + Cuộc đấu tranh của nông dân và thợ thủ công chống đặc quyền đặc lợi phong kiến nhằm phát triển công nghiệp và thƣơng nghiệp. Tuy nhiên, giai cấp tƣ sản mới ra đời còn non yếu, muốn làm cách mạng nhƣng chƣa đủ sức buộc phải thỏa hiệp với giai cấp địa chủ phong kiến. Một số đặc điểm triết học thời kỳ Phục hưng + Chủ nghĩa duy vật thời cổ đại đƣợc khôi phục và khẳng định chỗ đứng của mình trong đời sống tinh thần của xã hội. + Xuất hiện những học thuyết chính trị- xã hội phê phán xã hội đƣơng thời và mơ ƣớc, khát vọng về một tƣơng lai tốt đẹp hơn. + Các nhà triết học chủ trƣơng cải cách giáo hội, kịch liệt phê phán các giáo lý trung cổ, bảo vệ các di sản của triết học Hy Lạp cổ đại. + Chủ nghĩa nhân đạo tƣ sản đề cao con ngƣời. Họ cho rằng, con ngƣời là sản phẩm tối cao và tinh túy nhất trong sự sáng tạo của Thƣợng đế, vì con ngƣời là thƣợng đế- con ngƣời. Trong đó có Copernicus với thuyết Nhật tâm đ. Bối cảnh ra đời và một số thành tựu, đặc điểm của triết học Tây Âu cận đại 8 Bối cảnh ra đời + Thế kỷ XVII- XVII, hàng loạt cuộc cách mạng tƣ sản nổ ra khắp châu Âu + Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật. Một số thành tựu và đặc điểm của triết học Tây Âu cận đại + Là thế giới quan và ngọn cờ lý luận của giai cấp tƣ sản đang lên với chủ trƣơng phát triển chủ nghĩa tƣ bản, chống lại trật tự phong kiến và giáo hội. + Về con ngƣời và giải phóng con ngƣời là vấn đề trung tâm và đối tƣợng nghiên cứu của triết học. Triết học duy vật gắn bó chặt chẽ với khoa học, nhất là với khoa học tự nhiên nhằm chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. + Phƣơng pháp nhận thức, xem xét các hiện tƣợng tự nhiên theo phƣơng pháp trực quan, siêu hình, máy móc. + Là triết học duy vật không triệt để, tức là quan niệm duy vật về giới tự nhiên và duy tâm khi quan niệm về đời sống xã hội và lịch sử. e. Bối cảnh ra đời và một số thành tựu, đặc điểm của triết học cổ điển Đức Bối cảnh lịch sử cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX + Cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX, Anh và Pháp là những nƣớc tƣ bản, trong khi đó nƣớc Đức vẫn là phong kiến lạc hậu (dân tộc Giéc-manh gồm gần 300 nƣớc). + Do ra đời từ nền công nghiệp chƣa phát triển lại bị quan hệ phong kiến chèn ép, giai cấp tƣ sản không dủ mạnh, không thống nhất, thậm chí hèn nhát buộc phải thỏa hiệp với giai cấp địa chủ phong kiến. + Khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghiệp phát triển đã vạch ra phép biện chứng của tự nhiên. Triết học cổ điển Đức còn là sự kế thừa các trào lƣu tƣ tƣởng triết học tiên tiến từ thế kỷ XVII- XVIII. Một số thành tựu và đặc điểm của triết học cổ điển Đức + Vấn đề con ngƣời thực sự trở thành trung tâm, là đối tƣợng nghiên c ứu của triết học (đỉnh cao là triết học nhân bản của Feuerbach). + Phép biện chứng duy tâm với hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật (Hegel) 4. Khái lược về sự ra đời, phát triển của tư tưởng triết học Việt Nam thời kỳ phong kiến a. Điều kiện hình thành và phát triển của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Điều kiện tự nhiên: Việt Nam nằm ở phía Đông- Nam châu Á. Vị trí địa lý đó đã tạo lập cơ sở tự nhiên cho khả năng giao lƣu, thông thƣơng về kinh tế, chính trị, văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc và Ấn Độ trong nhiều thế kỷ trƣớc thời cận đại. Do đó, đã chịu ảnh hƣởng sâu sắc các học thuyết tƣ tƣởng của Trung Quốc và Ấn Độ Điều kiện kinh tế- xã hội: Nền kinh tế nƣớc ta là một nền nông nghiệp lạc hậu tồn tại hàng ngàn năm, lại đƣợc bảo tồn bằng một cơ cấu xã hội khép kín của các làng xã đã trở thành cơ sở hiện thực của một “nền văn hóa dân dã” hay “văn hóa làng mạc”. 9 Điều này, đã làm hạn chế sự phát triển t ƣ duy độc lập, sáng tạo, cản trở sự phát triển tƣ duy triết học của ngƣời Việt Nam. b. Những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Đặc điểm của quá trình hình thành, phát triển tư tưởng triết học Việt Nam Quá trình phát triển của lịch sử t ƣ tƣởng triết học Việt Nam là quá trình phát triển song trùng hợp nhất giữa hai xu hƣớng: xu hƣớng tự thân và xu hƣớng tiếp biến các tƣ tƣởng triết học đƣợc du nhập từ bên ngoài. Rất nhiều quan điểm triết học của các học thuyết nói trên đã trở thành nhân tố hữu cơ của tƣ duy triết học, quan điểm triết học của ngƣời Việt Nam. Nhiều nội dung của các quan điểm đó đã đƣợc biến đổi cho phù hợp với tƣ duy triết học truyền thống của ngƣời Việt Nam. Đặc điểm về nội dung tư tưởng triết học Việt Nam Trong cấu trúc ý thức hệ Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước với nội dung cơ bản là tư tưởng về cố kết cộng đồng và độc lập chủ quyền quốc gia đã thường được xác định ở vào vị trí trung tâm của lịch sử tƣ tƣởng và văn hóa. Đặc điểm về hình thức thể hiện các tư tưởng triết học Việt Nam Các tƣ tƣởng triết học ở tầm hệ thống các quan điểm, thƣờng đƣợc trình bày dƣới hình thức trƣớc tác của các triết gia và theo phƣơng thức lý luận. Những tƣ tƣởng triết học Việt Nam, ngoài các trƣớc tác của các nhà tƣ tƣởng còn đƣợc thể hiện qua rất nhiều hình thức phong phú. Ngay cả hoạt động của các phong trào dân tộc cũng là một hình thức và là một phƣơng thức thể hiện tƣ tƣởng ở chiều sâu của tƣ duy triết học. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam cần đến phƣơng pháp của các khoa học liên ngành, mà trƣớc hết là liên ngành các khoa học xã hội và nhân văn. c. Những nội dung cơ bản của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (1). Những tư tưởng triết học chính trị, đạo đức và nhân văn trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam - Tư tưởng yêu nước trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, tƣ tƣởng yêu nƣớc không chỉ là một tƣ tƣởng chính trị mà còn là một tƣ tƣởng đạo đức và nhân văn cao cả. Đồng thời, tƣ tƣởng yêu nƣớc của ngƣời Việt Nam còn thƣờng đƣợc các nhà tƣ tƣởng Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử suy tƣ ở chiều sâu của những triết lý và trở thành chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam. Vì vậy, đây chính là một nội dung của lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam là một hệ thống các quan niệm ở chiều sâu triết học về dân tộc và độc lập dân tộc; về một quốc gia độc lập ngang hàng với phƣơng Bắc và những quan niệm về nguồn gốc, động lực của cuộc chiến tranh cứu nƣớc và 10 giữ nƣớc. Những tƣ tƣởng này trở thành những nội dung cốt lõi của lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam: + Ý thức về dân tộc và dân tộc độc lập đã nẩy sinh rất sớm ở các cƣ dân ngƣời Việt. Tƣ tƣởng độc lập này đến thời Lý đã đƣợc Lý Thƣờng Kiệt kế thừa và khẳng định “Nam quốc sơn hà nam đế cƣ”. Trên lĩnh vực nhận thức lý luận, sự bức bách của cuộc đấu tranh chống ngoại xâm buộc các nhà tƣ tƣởng phải có sự đi sâu hơn, khái quát cao hơn, toàn diện hơn về khối cộng đồng dân tộc Việt. Nguyễn Trãi là ngƣời đã thực hiện đƣợc sứ mệnh này. Và tƣ tƣởng này đạt đến trình độ cao hơn, mang một chất mới hơn ở thời đại Hồ Chí Minh. + Những quan niệm về Nhà nước của một quốc gia độc lập ngang hàng với phương Bắc cũng là một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam. Xây dựng Nhà nƣớc phải tính tới các yếu tố quốc hiệu, quốc đô, đế hiệu, niên hiệu.... Thực hiện điều này, Lý Bí đã đặt tên nƣớc ta là Vạn Xuân. Nhà Đinh đặt tên nƣớc ta là Đại Cồ Việt, nhà Lý lại đặt quốc hiệu là Đại Việt… “Hiệu” của ngƣời đứng đầu quốc gia cũng đƣợc chuyển từ Vƣơng sang Đế hiệu để chứng tỏ sự độc lập ngang hàng với Hoàng Đế phƣơng Bắc. Kinh đô cũng đƣợc chuyển từ Cổ Loa đến Hoa Lƣ, rồi từ Hoa Lƣ đến Thăng Long để có đƣợc nơi “Trung tâm của bờ cõi đất nƣớc…”. + Nhận thức về nguồn gốc, về động lực của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Lập luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền là một vũ khí quan trọng trong tay các lực lƣợng kháng chiến. Song muốn chiến thắng kẻ thù đông đ ảo và hùng mạnh hơn gấp nhiều lần thì vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để động viên đƣợc sức mạnh của toàn dân, để chuyển sức mạnh của ngƣời Việt Nam từ yếu thành mạnh. Do đó, ông cha ta rất coi trọng sức mạnh cộng đồng. Trần Quốc Tuấn yêu cầu: “Trên dƣới một lòng, lòng dân không chia”, vì “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, nƣớc nhà góp sức, giặc tự bị bắt”. Nguyễn Trãi cũng viết: “Thết quân rƣợu hòa nƣớc, trên dƣới một dạ cha con”. Và đến Hồ Chí Minh nêu thành nguyên lý “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết- Thành công, thành công, đại thành công” Trong lịch sử tƣ tƣởng dân tộc phải tính đến các quan điểm tích cực coi trọng vai trò của dân. Lý Công Uẩn nhấn mạnh “Trên vâng mệnh trời, dƣới theo ý dân, thấy thuận tiện thì thay đổi”. Nguyễn Trãi cũng viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Đến thời đại Hồ Chí Minh, quan niệm về dân đã đƣợc phát triển đến một trình độ cao hơn và có cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin (2).Quan niệm về đạo làm người trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Một trong những vấn đề đƣợc các nhà tƣ tƣởng Việt Nam trong lịch sử đặc biệt quan tâm là vấn đề về đạo làm người. Bởi lẽ, đây là vấn đề có liên quan mật thiết với việc xác định cơ sở tƣ tƣởng của hành động chính trị, đạo đức và nhân sinh. Quá trình suy tƣ về đạo làm ngƣời đã dẫn các nhà tƣ tƣởng Việt Nam trong lịch sử tiếp thu tinh hoa của cả ba đạo Nho, Phật, Lão – Trang và kết hợp chúng trong một hệ tƣ tƣởng thống nhất cho phù hợp với điều kiện lịch sử chính trị, đạo đức và cuộc 11 sống của con ngƣời Việt Nam. Có thể nhận thấy, hầu nhƣ trong các trƣớc tác và trong lối sống của các nhà tƣ tƣởng lớn Việt Nam thời phong kiến đều có sự thấm nhuần những tinh túy của cả ba đạo Nho, Phật và Lão – Trang. Tùy theo, các điều kiện lịch sử cụ thể mà có thể nhận thấy vai trò trội hơn của mỗi đạo trong mỗi nhà tƣ tƣởng cũng nhƣ trong mỗi tình huống cụ thể. Trong giai đoạn lịch sử Lý– Trần, đạo Phật và đạo Lão– Trang có xu hƣớng phát triển và ảnh hƣởng trội hơn đạo Nho. Ngƣợc lại, trong giai đoạn lịch sử thời Lê– Nguyễn, đạo Nho lại có xu hƣớng đƣợc tôn vinh. Mỗi nhà tƣ tƣởng, khi nhập thế vào đời phù vua, giúp nƣớc thƣờng chịu nhiều ảnh hƣởng của những tƣ tƣởng đạo Nho. Ngƣợc lại, khi lui về ở ẩn hoặc trong thời kỳ thanh bình của đất nƣớc lại có xu hƣớng tôn vinh những tƣ tƣởng của đạo Phật và đạo Lão– Trang. (3). Tư tưởng triết học Phật giáo trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Có thể khái quát tƣ tƣởng triết học Phật giáo Việt Nam ở hai bộ phận cấu thành là Siêu hình học và Nhân sinh quan. Những triết lý trong bộ phận siêu hình học là lớp tƣ tƣởng triết học ở chiều sâu, trở thành nội dung c ăn bản trong tƣ tƣởng triết học của các trí thức thời Lý - Trần. Đây là những tƣ tƣởng triết học Ấn Độ đã đƣợc Trung Hoa hóa và truyền bá vào Việt Nam, đƣợc giới trí thức đƣơng thời đặc biệt coi trọng. Phạm trù triết học trung tâm của Thiền tông là “Bản Thể Chân Nhƣ” hay “Thực Tƣớng” các pháp hoặc bản thể “Nhƣ Lai”. Theo luận giải của Thiền tông, Bản Thể Chân Nhƣ chính là nguyên lý thống nhất của thế giới. Thế giới các hiện t ƣợng (Pháp hữu vi) luôn biến đổi không ngừng. Tất cả các hiện tƣợng đó chỉ là biểu hiện của Bản Thể Chân Nhƣ. Do vậy, về lý luận nhận thức, theo triết học Thiền tông cần phải vƣợt qua thế giới các hiện tƣợng để đạt tới Bản Thể Chân Nhƣ, khi đó sẽ đạt tới sự giác ngộ cứu cánh. Nhƣng sự giác ngộ này không phải đạt đƣợc bằng con đƣờng đi từ trực quan sinh động (tức là từ nhận thức các hiện tƣợng) đến bản chất trừu tƣợng mà là bằng con đƣờng siêu việt qua các hiện tƣợng. Vì vậy, phạm trù “Vô trụ” trở thành phạm trù căn bản trong lý luận nhận thức của Thiền tông. Đây thực chất là phép biện chứng của Thiền học. Theo tinh thần của phép biện chứng này, thế giới đƣợc biểu hiện ra trong tính đa dạng của những khác biệt và mâu thuẫn, nhƣng xét theo bản chất chúng thống nhất với nhau. Phạm trù trung tâm trong triết học nhân sinh Phật giáo Việt Nam là phạm trù “Từ bi”. Đây là phạm trù cơ bản trong triết học Phật giáo Đại thừa. Nội dung cơ bản của phạm trù này là tinh thần bao dung giữa con ngƣời với nhau cũng nhƣ với muôn loài vô tình và hữu tình. Bản chất triết học sâu xa của phạm trù này là phạm trù “vô ngã” trong triết học Phật giáo cổ đại Ấn Độ. Đây cũng chính là tƣ tƣởng triết học nhân văn của Phật giáo. Tinh thần cứu độ chúng sinh là một tinh thần thực tiễn. Tinh thần đó là hệ quả tất yếu từ sự giác ngộ từ bi. 12 Nhƣ vậy, với tƣ tƣởng từ bi, triết học Phật giáo Việt Nam đã góp phần tạo dựng một cơ sở lý luận cho tƣ tƣởng nhân ái Việt Nam; tƣ tƣởng nhân ái này vốn đã có cơ sở hiện thực từ lịch sử cố kết cộng đồng dân tộc. (4). Tư tưởng triết học Nho giáo trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Triết học Nho giáo bao gồm hai bộ phận cấu thành là “Hình nhi thượng học” và “Hình nhi hạ học”. Bộ phận thứ nhất có khuynh hƣớng đi sâu vào triết lý ở tầm siêu hình học, gắn liền với sách Trung Dung và những chú giải của các nhà Nho Trung Hoa đối với bộ Chu Dịch. Những tƣ tƣởng triết học này có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các nhà tƣ tƣởng lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thời Nhậm và nhiều nhà tƣ tƣởng khác. Bộ phận thứ hai của Nho giáo có xu hƣớng đi sâu vào những luận điểm triết học về chính trị và đạo đức, nhằm xác lập ý thức hệ cai trị phong kiến theo mô hình chế độ trung ƣơng tập quyền cao độ. Nhiều tƣ tƣởng tiến bộ trong các quan điểm về chính trị đạo đức của Nho giáo đã đƣợc các nhà tƣ tƣởng Việt Nam kế thừa theo tinh thần thực tiễn của dân tộc. Đó là tƣ tƣởng thân dân, trọng dân, coi dân là gốc của quốc gia; đó là tƣ tƣởng nhân nghĩa trong đời sống chính trị- xã hội; đó là mối quan hệ biện chứng song trùng giữa vua– tôi, cha– con, chồng– vợ; đó là các phạm trù đạo đức trung, hiếu, tiết, nghĩa...Trong khi kết thừa và sử dụng các tƣ tƣởng tiến bộ đó, các nhà tƣ tƣởng Việt Nam đã bổ sung và làm thay đổi các nội hàm một số khái niệm vốn có của Nho giáo Trung Hoa. (5). Sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và duy tâm, triết học và tôn giáo trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Sự phát triển của lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam luôn diễn ra trong mối quan hệ song trùng, giao thoa và tổng hợp nhƣng trong sự thống nhất đó vẫn có những biểu hiện của sự đối lập và đấu tranh giữa các loại thế giới quan duy vật và duy tâm, triết học và tôn giáo. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhƣng có một nguyên nhân cơ bản là do sự phát triển của nó luôn có sự giao lƣu, tiếp biến với các hệ tƣ tƣởng đƣợc du nhập từ bên ngoài, nhƣng vẫn nằm trong hệ quy chiếu của tƣ tƣởng triết học phƣơng Đông vùng châu Á. Vì vậy, cuộc đấu tranh giữa thế giới quan duy vật với thế giới quan duy tâm; giữa triết học với tôn giáo, tín ngƣỡng thƣờng xuyên diễn ra dƣới các hình thái biểu hiện rất đặc biệt. Cuộc đấu tranh đó không có điểm kết thúc trong suốt chiều dài lịch sử thời phong kiến, cho đến khi bắt đầu có sự thâm nhập của các hệ tƣ tƣởng triết học phƣơng Tây cận đại và đặc biệt là từ khi có hệ tƣ tƣởng triết học Mác- Lênin đƣợc truyền bá vào Việt Nam. Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm triết học theo lập trường duy vật và duy tâm không được phân định rõ ràng giữa các trường phái và giữa các nhà tư tưởng; và cũng không phải chỉ với việc giải quyết một vấn đề cụ thể mà trải rộng trên nhiều vấn đề, nhƣnaôcs thể khẳng định 13 chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam mang màu sắc tôn giáo có nguồn gốc từ tín ngưỡng dân gian cổ truyền và “tam giáo” là thế giới quan bao trùm, còn thế giới quan duy vật và chủ nghĩa vô thần chỉ thể hiện mờ nhạt và chỉ trong phạm vi giải quyết một số vấn đề cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể. Về mặt hình thái biểu hiện, cuộc đấu tranh giữa các quan điểm duy vật và duy tâm trong lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam đƣợc biểu hiện trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các phạm trù “Tâm” - “Vật”; “Linh hồn” - “Thể xác”; “Lý” - “Khí”; v.v…; trong việc kiến giải về nguyên nhân và nguồn gốc của các sự kiện trong đời sống chính trị của đất nƣớc và số mệnh của con ngƣời trong xã hội. Đó là những vấn đề nhƣ nguồn gốc của sự an, nguy, hƣng, vong đối với các triều đại; vấn đề về bản tính và số mệnh của mỗi con ngƣời; vấn đề “Đạo Trời” và “Đạo Ngƣời”, v.v… III. TRIẾT HỌC MÁC– LÊNIN VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Triết học Mác- Lênin a. Khái niệm triết học Mác- Lênin Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự ra đời của triết học Mác không phải là một ngẫu nhiên mà là sự kết tinh có tính quy luật của quá trình phát triển lịch sử tƣ tƣởng triết học nhân loại và trên cơ sở các điều kiện kinh tế- xã hội cũng nhƣ trình độ phát triển khoa học tự nhiên ở thế kỷ XIX, là kết quả của sự thống nhất giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Triết học Mác- Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy- thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác- Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, cả về xã hội. Trong triết học MácLênin, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau b. Đối tượng của triết học Mác- Lênin Triết học Mác- Lênin xác định đối tƣợng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để; nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ. Triết học Mác- Lênin và các khoa học cụ thể có quan hệ chặt chẽ với nhau: + Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt của tự nhiên, xã hội và tƣ duy. Triết học Mác- Lênin nghiên cứu những quy luật chung nhất, phổ biến nhất, tác động đến cả ba lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tƣ duy. + Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề, cơ sở cho sự phát triển triết học Mác- Lênin. Triết học Mác- Lênin cung cấp cơ sở thế giới quan, 14 phƣơng pháp luận cho các khoa học cụ thể. A.Anhxtanh viết: “Các khái quát của triết học cần phải dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, mỗi khi đã xuất hiện và đƣợc truyền bá rộng rãi, chúng thƣờng ảnh hƣởng đến sự phát triển của tƣ tƣởng khoa học khi chúng chỉ ra một trong rất nhiều phƣơng hƣớng phát triển có thể có” c. Chức năng của triết học Mác- Lênin - Chức năng thế giới quan. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và vị trí, vai trò của con ngƣời trong thế giới đó. Triết học Mác- Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan khoa học và cách mạng. Thế giới quan duy vật biện chứng là nhân tố định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực; nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người ; là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân trong hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lƣợng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh chống các tƣ tƣởng phản cách mạng, phản động, chống diễn biến hòa bình, tự diễn biến do các thế lực thù địch gây ra. Chức năng phương pháp luận Phƣơng pháp luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn. Triết học Mác- Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và thực tiễn. Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng trang bị cho con ngƣời hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, yêu cầu của hoạt động nhận thức và thực tiễn. Triết học Mác- Lênin trang bị cho con ngƣời hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con ngƣời phát triển tƣ duy khoa học, đó là tƣ duy ở cấp độ phạm trù, quy luật. 2. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong đời sống xã hội a. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong sự phát triển của triết học nhân loại và trong chủ nghĩa Mác- Lênin Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã tạo ra cuộc cách mạng trong lịch sử triết học nhân loại. Triết học của Mác và Ăngghen là triết học duy vật triệt để nhất, hoàn bị nhất. Sự ra đời của triết học Mác đã làm cho chủ nghĩa xã hội không tƣởng có căn cứ khoa học để trở thành thực sự khoa học. Qua đó, phong trào công nhân đã tìm thấy ở triết học Mác vũ khí tinh thần của mình, còn triết học Mác tìm thấy ở phong trào công nhân vũ khí vật chất của mình : «Giống nhƣ thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình» 15 Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, triết học Mác và Ăngghen đã khắc đƣợc sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con ngƣời. Đúng nhƣ Mác nhận định: «Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới ». Với việc đƣa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức nói riêng vào triết học nói chung, Mác và Ăngghen đã tạo ra sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học của mình. Với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và Ăngghen đã khắc phục đƣợc sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể; đã chấm dứt mâu thuẫn giữa triết học với các khoa học cụ thể. Triết học Mác có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phƣơng pháp biện chứng, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng với tính khoa học cho nên nó là họ c thuyết mở, luôn tự đổi mới, phát triển cùng với sự phát triển của tƣ tƣởng nhân loại. b. Vai trò của triết học Mác – Lênin trong giải quyết những nhiệm vụ cấp thiết của đời sống xã hội Việt Nam Triết học Mác- Lênin là cơ sở thế giới quan và phƣơng pháp luận khoa học để Đảng ta phân tích xu hƣớng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang phát triển mạnh mẽ, hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. c. Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học, trong đó hạt nhân là phép biện chứng duy vật. d. Vai trò của triết học Mác – Lênin rất quan trọng còn do chính yêu cầu đổi mới nhận thức triết học hiện nay. Triết học Mác- Lênin là học thuyết mở, do đó, việc tiếp tục bổ sung, đổi mới là một nhu cầu tự thân và bức thiết của triết học này trong giai đoạn hiện nay. IV. SỰ KẾ THỪA, PHÁT TRIỂN VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO TRIẾT HỌC MÁCLÊNIN TRONG THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM 1. Hồ Chí Minh với việc kế thừa, vận dụng và phát triển triết học Mác- Lênin Sự hình thành tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh dựa vào sự kế thừa nguồn gốc lý luận: tƣ tƣởng triết học, văn hóa phƣơng Đông, phƣơng Tây; triết học Mác- lênin và nguồn gốc thực tiễn, nhân cách Hồ Chí Minh. Ngƣời đã phát triển tƣ tƣởng triết học truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung, chủ nghĩa yêu nƣớc nói riêng lên một tầm cao mới, gắn với dân tộc và thời đại. 16 Tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, về cách mạng Việt Nam, về chủ nghĩa xã hội, về con đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…bắt nguồn từ truyền thống văn hóa Việt Nam, nổi bật là chủ nghĩa yêu nƣớc, tinh thần nhân ái, khoan dung của dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những tiền đề khách quan để tạo nên tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã trang bị cho cán bộ, đảng viên thế giới quan duy vật biện chứng, giúp họ nhìn nhận, xem xét, đánh giá đúng tình hình, đề ra đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách sát thực tiễn, có hiệu quả. Hồ Chí Minh đã dựa chắc vào vấn đề cơ bản của tiết học để giải quyết mối quan hệ giữa việc nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân; giữa phát triển sản xuất với củng cố hệ thống chính trị; giữa tăng trƣởng kinh tế với phát triển giáo dục, văn hóa; giữa xây dựng đất nƣớc với đấu tranh chống kẻ thù, bảo vệ tổ quốc; kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại;… Về khuynh hƣớng tƣ duy, tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh đi sâu giải quyết các vấn đề nhân sinh; lấy cái cốt lõi là giải phóng con ngƣời khỏi áp bức, bất công, đem lại cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho đồng bào là mục đích hƣớng tới. Có thể nêu những cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc phát triển triết học Mác- Lênin là: tƣ tƣởng về giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng di lên chủ nghĩa xã hội; về phƣơng pháp cách mạng và nghệ thuật chỉ đạo cách mạng; ... Khái quát lại, tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm, quan niệm duy vật biện chứng về con đƣờng cách mạng Việt Nam, thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai đo ạn phát triển tƣ bản chủ nghĩa nhằm xây dựng một nƣớc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào cách mạng thế giới. 2. Sự vận dụng sáng tạo tư tưởng triết học Hồ Chí Minh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực tiễn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh lâu dài giành độc lập, từng bƣớc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, việc kiên trì chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là nắm vững và vận dụng sáng tạo thế giới quan, phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào sự nghiệp đổi mới, xây dự ng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 17 CHƢƠNG II BẢN THỂ LUẬN I. KHÁI NIỆM “BẢN THỂ LUẬN” VÀ NỘI DUNG BẢN THỂ LUẬN TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC. 1. Khái niệm “bản thể luận” Bản thể luận (ontology) là lý luận nghiên cứu về bản chất của tồn tại. Về mặt nguyên từ, trong tiếng Hy Lạp, khái niệm này là một từ ghép giữa “on” (ontos) là “hữu thể, tồn tại” với “logos” là “khoa học, nghiên cứu, học thuyết”, có nghĩa là một học thuyết về tồn tại tự thân. Khái niệm bản thể luận đƣợc dùng trong các trƣờng phái triết học phƣơng Tây trƣớc Mác gồm hai nghĩa. Bản thể luận theo nghĩa rộng, chỉ bản chất tối hậu của mọi tồn tại, mà bản chất này phải thông qua nhận thức luận mới nhận thức đƣợc. Cách tiếp cận này tạo ra sự đối lập tƣơng đối giữa bản thể luận và nhận thức luận. Bản thể luận theo nghĩa hẹp, tức là trong bản thể luận theo nghĩa rộng lại có hai nội dung, một là nghiên cứu khởi nguyên và kết cấu của vũ trụ, hai là nghiên cứu bản chất của vũ trụ, cái thứ nhất là vũ trụ luận, cái thứ hai là bản thể luận. Cách tiếp cận này tạo ra sự đối lập tƣơng đối giữa bản thể luận và vũ trụ luận. Học thuyết ý niệm của Plato là bản thể luận, song ông cũng nói đến lý luận hồi ức của ý niệm. Thuyết bốn nguyên nghân của Aristotle là bản thể luận, song c ũng liên hệ với quan điểm nhận thức luận của ông. Johann Friedrich Herbart (1776- 1841) cho rằng phƣơng pháp luận là nghiên cứu các sự vật mâu thuẫn tồn tại trong nhận thức cảm tính, còn bản thể luận là tìm hiểu các tồn tại chân thực không mâu thuẫn. 2. Một số nội dung cơ bản về bản thể luận trong lịch sử triết học phương Đông a. Bản thể luận trong triết học Phật giáo Ấn Độ Bản thể luận trong triết học Phật giáo Ấn Độ có sự phát triển không ngừng, tạo nên sự khác biệt lớn giữa thời kỳ đầu và thời kỳ sau, song về căn bản học thuyết bản thể luận này có ba nội dung chính: thuyết bản thể “Thực hữu”, thuyết bản thể “Tính không” và thuyết bản thể “Tâm thức”. Thứ nhất, thuyết bản thể “Thực hữu” Phật tổ không quan tâm, cũng không bàn đến cái tôi (“ngã”) với tƣ c ách là một thực thể có tồn tại hay không. Ông chủ trƣơng “vô ngã”, yêu cầu không đƣợc chấp ngã là chỉ không đƣợc chấp trƣớc vào quan niệm về “cái tôi” hay quan niệm về “cái của tôi”, yêu cầu giải thoát từ trong quan niệm tự ngã. Ông yêu cầu “vô ngã” với ý nghĩa là chứng ngộ khi tu tập đạo đức tôn giáo chứ không hề cho rằng cái tôi (“ngã”) với tƣ cách là thực thể không tồn tại. 18 Phái Nhất thiết hữu bộ với mệnh đề “ngã không hữu pháp” (cái ta là không còn vạn pháp là có) cho rằng sự tồn tại của đời sống con ngƣời là do “ngũ uẩn” hòa hợp với nhau mà thành hoàn toàn không có bản chất thực tại chân chính. Một trong những luận điểm quan trọng của phái này là mọi tồn tại có thể chia thành hai phƣơng diện là bản thể và hiện tƣợng, đem các loại tồn tại khác nhau quy về hai yếu tố cuối cùng là thể tính và công năng. VD nhƣ lấy cứng, ẩm, nóng, động làm bản tính của đất, nƣớc, lửa, gió (“tứ đại”), những yếu tố cuối cùng chính là “pháp thế” mang tính vĩnh cửu. Còn bản thể với tƣ cách là yếu tố đa dạng của bản thể thƣờng hằng khi phát sinh tác dụng sẽ biểu hiện ra thành hiện tƣợng. Bản thể là vĩnh hằng, bất biến, bản thể có khi phát sinh tác dụng, có khi không phát sinh tác dụng từ đó mà khiến cho tồn tại có các hình dáng và vị trí khác nhau. Bản thể đã phát sinh tác dụng là “quá khứ pháp”, đang phát sinh tác dụng là “hiện tại pháp”, sẽ phát sinh tác dụng là “vị lai pháp”. Thứ hai, thuyết bản thể “Tính không” Phái Trung Quán chủ trƣơng “nhân pháp nhị không” có nghĩa là tất cả mọi tồn tại bao gồm con ngƣời và sự vật, vật chất và tinh thần đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, đều không có bản chất cố định của mình (“tự tính”), tất cả đều là “không”. Tuy nhiên, học thuyết “không”, song không bài trừ có (“hữu”- tồn tại), mà lấy không làm có, không và có gắn liền với nhau. Long Thọ (Trung Quán) định nghĩa về “không”: “Chúng nhân duyên sinh pháp, ngã thuyết tức thị không (vô)”, có nghĩa là mọi sự vật do nhân duyên sinh ra đều là không. Long Thọ cho rằng nếu nhƣ vũ trụ vạn vật đều là duyên khởi thì rõ ràng tất cả đều không có bản chất của mình (“tự tính”). Kinh Bát nhã, Huyền Trang có viết: “Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thụ, tƣởng, hành, thức diệc phục nhƣ thị” (Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc chính là không, không chính là sắc. Thụ, tƣởng, hành, thức cũng đều nhƣ thế). Điều này có nghĩa là mọi tồn tại (hữu) bao gồm các yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần đều gắn với “không” và ngƣợc lại, “không” cũng gắn chặt với các yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần; mọi tồn tại đều là “không” vô tự tính, “không” vô tự tính cũng không tách rời mọi tồn tại. Ở đây, cần lƣu ý học thuyết “Tính không”, không phải là sự phủ định sự tồn tại của bản thể hay chủ trƣơng bản thể luận vô bản thể, mà là tách tƣ duy và ngôn ngữ con ngƣời khỏi bản chất của thế giới trực giác. Và không hay tính không là phạm trù triết học về bản chất của thế giới, có nội dung đặc biệt và ý nghĩa phong phú, chứ không phải là “không” theo nghĩa thông thƣờng, trống rỗng. Thứ ba, thuyết bản thể “Tâm thức” Tìm hiểu mối quan hệ giữa chủ thể và bản thể, đƣa bản thể vào trong chủ thể, thậm chí quy về chủ thể có hai lối tƣ duy trong lý luận này: Một là, chú trọng tìm hiểu bản tính của tâm là phái Nhƣ Lai. Hai là, chú trọng phát triển hoạt động tâm thức là phái Duy Thức. Phái Nhƣ Lai coi Phật tính là tính không, coi Phật tính không chỉ là 19 căn nguyên để chúng sinh thành Phật mà còn là bản tính của vạn sự vạn vật, do đó cũng mang ý nghĩa bản thể của vạn vật trong vũ trụ. Phái Duy Thức coi thế giới là biểu tƣợng, quy tồn tại thành nhận thức, từ đó tiến thêm một bƣớc coi tâm thức là căn nguyên, là bản thể của vũ trụ vạn vật trong đó có chúng sinh. Mệnh đề căn bản của Duy thức học là “vạn pháp duy thức” (tất cả mọi s ự vật chỉ là tâm thức), mệnh đề này có nhiều cách thể hiện khác nhau nhƣ “nhất thiết duy thức”, “duy thức sở biến”, “duy thức vô cảnh”. Ý nghĩa của mệnh đề này là tâm thức là tiền đề của nhận thức, vạn vật do tâm thức phân biệt ra (“vạn pháp”) đề u là sự biến thiên và biểu hiện của tâm thức, đều không tách khỏi tâm thức. Duy thức tam thập luận tụng viết: “Thị chƣ thức chuyển biến, phân biệt sở phân biệt, do bỉ thử giai vô, cố nhất thiết duy thức”, có nghĩa là thế giới hiện tƣợng đƣợc hình thành từ hai yếu tố tâm thức chủ quan và đối tƣợng khách quan đều là sự biểu hiện của duy thức, đều không tách rời sự biến động của tâm thức, vạn pháp đều là tâm thức, tất cả đều là tâm thức. b. Bản thể trong triết học Kinh Dịch Theo Kinh Dịch, bản thể của vũ trụ là Thái cực. Thái cực chính là khởi nguyên của vũ trụ, là nguyên nhân đầu tiên, là nguyên lý tối hậu của trời đất muôn vật. “Hệ từ thƣợng” có viết: “Dịch có Thái cực, Thái cực sinh Lƣỡng nghi, Lƣỡng nghi sinh Tứ tƣợng, Tứ tƣợng sinh Bát quái ” 3. Một số nội dung cơ bản về bản thể luận trong lịch sử triết học phương Tây a. Bản thể luận trong triết học Hy Lạp cổ đại Democritus (460- 370 TCN) Theo Democritus, bản nguyên của thế giới gồm có hai thứ là nguyên tử (tồn tại) và chân không (không tồn tại). Ông nêu ra ba bƣớc luận chứng để chứng minh nguyên tử và chân không là bản nguyên của thế giới. Thứ nhất, lấy sự vật có thể cảm giác đƣợc là tiêu chuẩn thì sự vật có nhiều, vô cùng, vô tận và luôn vận động. Xuất phát từ kinh nghiệm thì chúng ta có thể chia tách các sự vật tồn tại, do đó giữa các sự vật phải có khoảng không, và vì có khoảng không thì các sự vật mới có thể sinh thành và biến hóa đƣợc. Thứ hai, chia tách có điều kiện, điều kiện đó chính là chân không. Vì nếu không có chân không thì giữa các sự vật sẽ không có không gian, nếu không có không gian thì không những sự vật không thể chia tách đƣợc mà còn không thể phát triển đƣợc. Thứ ba, nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất của tồn tại. Không phải vật nào cũng có thể làm bản nguyên dƣợc, mà nguyên tử phải tồn tại bất sinh, bất diệt. Nguyên tử có những tính chất sau: Một là, lúc ban đầu, nguyên tử lƣu động khắp nơi theo mọi hƣớng trong không gian, và từ những đơn vị đơn độc, chúng va chạm với nhau, gắn kết với nhau mà hợp thành vạn vật. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan