Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trật tự xã hội và kiểm soát xã hội - môn xã hội học...

Tài liệu Trật tự xã hội và kiểm soát xã hội - môn xã hội học

.DOC
26
371
107

Mô tả:

5. Trật tự xã hội và kiểm soát xã hội 5.1 Khái niệm trật tự xã hội: Theo các nhà lí luận đề cao lí thuyết hành động xã hội cho rằng: “trật tự xã hội là sự phù hợp về chủ thể hành động” Trật tự xã hội là khái niệm chỉ sự hoạt động ổn định hài hoà của các thành phần cơ cấu xã hội. Nó biểu hiện tình tổ chức của đời sống xã hội, tính chuẩn mực của các hành động xã hội. Nhờ trật tự xã hội mà hệ thống xã hội đạt đựoc sự ổn định, cho phép nó hoạt động một cách có hiệu quả dưới sự tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài. Cơ chế đảm bảo cho trật tự xã hội cho đến khi đạt được sự công bằng và luôn tính đến lợi ích của nhóm. Vì thế, sự ổn định và trật tự của xã hội phụ thuộc vào sự mềm dẻo tính hiệu quả của thiết chế đó. Nó còn phụ thuộc vào khả năng điều kiện và duy trì sự kiểm soát, sự tương tác các lợi ích và sự lệch lạc của hành vi. 5.2 Khái niệm về kiểm soát xã hội: August Comte, nhà xã hội học người Pháp – cha đẻ của ngành xã hội học, đã xác định xã hội học có hai chức năng cơ bản là :”Dự báo và Kiểm soát xã hội”. Đến nay, xã hội học thực sự trở thành một công cụ đắc lực của các nhà lãnh đạo, quản lí cả trong dự báo và kiểm soát xã hội. Thuật ngữ “ kiểm soát xã hội ” được sử dụng trong xã hội học được biểu thị như một quá trình mà xã hội thực hiện những cơ chế nhằm duy trì những khuôn mẫu và những quy tắc đã được xã hội thừa nhận. Tuy nhiên không phải lúc nào và ai cũng có thể hiểu và phân biệt được thuật ngữ này. Cho đến nay những nỗ lực nhằm phân biệt kiểm soát xã hội, trật tự xã hội và sự lệch chuẩn vẫn còn quanh quẩn một định nghĩa về mặt lý thuyết. Hầu hết các nghiên cứu về khái niệm “ kiểm soát xã hội ” vẫn có sự kết nối với khái nhiệm “ vấn đề xã hội ” và do đó nó tính đến cả kiểm soát xã hội chủ yếu và không chủ yếu,dẫn dến sự lựa chọn quá rộng hoặc quả hẹp. Nhưng gần đây có những cách hiểu hẹp hơn về khái niệm: - Theo Clakr và Gibb thì: Kiểm soát xã hội là các phản ứng xã hội đối với các hành vi được định nghĩa là lệch lạc,là vượt quá mức, là vi 1 phạm chuẩn ( gồm cá phản ứng đi trước như nhà tù hay các thiết chế đã tồn tại theo nghĩa đi trước những hành vi lệch chuẩn tiềm tàng ). - Theo Black : Kiểm soát xã hội là một quá trình mà qua đó con người định nghĩa hành vi lệc chuẩn và phản ứng theo đó. Kiểm soát xã hội có mặt bất kì lúc nào và bất kì nơi nào mà người ta thể hiện những bất bình đối vời đồng loại của mình (ở đây hình thức kiểm soát xã hội là những cơ chế mà qua đó một cá nhân hay một nhóm thể hiện hay biểu thị sự không đồng tình ). - Theo Janovitz: Kiểm soát xã hội là khả năng của một nhóm xã hội hay cả xã hội trong việc điều tiết mình. Nhưng cách định nghĩa trên quá hẹp và không khái quát. Có thể định nghĩa chung như sau: Kiểm soát xã hội là phương pháp và cách thức mà xã hội thiết lập nhằm củng cố, duy trì những chuẩn mực xã hội nhằm ngăn ngừa sự lệch lạc và trừng phạt những hành vi lệch lạc. Cũng có thể định nghĩa là sự bố trí các chuẩn mực xã hội, các giá trị và những thiết chế để ép buộc việc thực hiện chúng. Kiểm soát xã hội sẽ là khuôn mẫu cho các hành vi cá nhân, nhóm vào các khuôn mẫu đã được xã hội chấp nhận đúng và làm theo.Kiểm soát xã hội sẽ dùng các chế tài tiêu cực đẩy các hành vi lệc lạc vào khuôn phép hay một trật tự. Hay: Kiểm soát xã hội được hiểu là tất cả những hành vi hợp chuẩn ,làm cho xã hội phát triển ổn định, bình thường. Đây là định nghĩa hoàn chỉnh, hợp lý và dễ hiểu nhất. Kiểm soát xã hội được thưc hiện bởi các thiết chế xã hội như gia đình,tôn giáo, kinh tế, chính trị, giáo dục… thông qua chức năng kiểm soát của mình các cá nhân phải tuân theo các chuẩn mực giá trị xã hội, những quy định hạn chế đối với hành vi… Kiểm soát xã hội duy trì sự bền vững và sự ổn định, trật tự xã hội, đồng thời tạo ra sự thay đổi mang tính hợp lí và tích cực. Có thể nói: Nghiên cứu kiểm soát xã hội là một bộ phận không thể tách rời trong chương trình nghiên cứu xã hội học. Nó giúp chúng ta có một cái nhìn toàn 2 diện, biện chứng, khách quan về sự tồn tại của xã hội. Do đó sẽ hiểu sâu hơn những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, điều hòa hoạt động của xã hội nói chung, của tập đoàn xã hội và cá nhân nói riêng. Chuẩn mực xã hội do xã hội thiết lập và thay đổi, xã hội cũng tạo ra phương tiện kiểm soát xã hội khác nhau để đảm bảo việc thực hiện chuẩn mực đó. Các chuẩn mực xã hội hết sức phong phú, đa dạng về cơ cấu, về phạm vi ứng dụng và về hình thức kiểm soát xã hội để xã hội vận hành, phát triển bình thường[….] Tính ổn định và sự phát triển của xã hội không thể có được nếu không có kiểm soát xã hội. Các thiết chế xã hội thực hiện chức năng kiểm soát được giao quyền hạn và có quyền áp dụng những biện pháp thưởng phạt các thành viên của xã hội. Mục đích của kiểm soát xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa dần dần đã thay thế sự kiểm soát chính thức bằng sự kiểm soát phi chính thức và sau đó là tự kiểm soát. Tăng cường hiệu lực hiệu lực quản lý của kiểm soát xã hội tại đơn vị, địa phương của mình, từ đó đưa ra những quyết định quản lý tối ưu hơn, tích cực cải tiến tác phong, lề lối làm việc đúng chuẩn mực, quy chế, hoàn thiên các thiết chế, giảm bớt các sai lệch xã hội đáng tiếc. Góp phần kiểm soát, ngăn chặn, đẩy lùi một số sai lệch xã hội bức xúc hiện nay. [TS.Nguyễn Ngọc Thanh-TS.Nguyễn Thế Thắng, tập bài giảng xã hội học, 2004] 5.3 Chuẩn mực xã hội và kiểm soát xã hội 5.3.1 Chuẩn mực xã hội a. Khái niệm: Chuẩn mực xã hội là yếu tố không thể thiếu của việc quản lý xã hội, là một trong những phương tiện định hướng hành vi của cá nhân hay của nhóm xã hội trong những điều kiện nhất định và là phương tiện kiểm tra của xã hội đối với hành vi của họ. Chuẩn mực xã hội quy định những giới hạn của cái có thể và cái được phép trong hành vi của mỗi cá nhân xã hội. Chuẩn mực xã hội là tập hợp các yêu cầu hoặc sự mong đợi mà cộng đồng xã hội (nhóm, tổ chức, giai cấp ) đưa ra nhằm tạo lập các khuôn mẫu hành vi và hành động cho các thành viên trong xã hội. 3 Chuẩn mực xã hội có thể được biểu hiện dưới dạng ngôn ngữ (pháp luật,nội quy,hương ước…),những quy tắc và yêu cầu xã hội có thể được ghi vào văn bản có tính pháp quy như văn kiện chính trị, đạo luật, điều lệ văn bản tôn giáo.v.v…có thể được nêu ra hoặc phản ánh trong sách báo chính trị, văn học…Đồng thời,nhiều chuẩn mực đươc biểu hiện dưới dạng bất thành văn, định hành vi của cá nhân thông qua dư luận, cách nhìn cảu cá nhân hoặc xã hội ; thông qua mẫu ứng xử được lặp đi lặp lại từ thể hệ này sang thế hệ khác ( phong tục, tập quán truyền thống) hoặc tái hiện một cách tương đối thường xuyên trên phạm vi phổ biến. Chuẩn mực là thức đo của giá trị, việc tuân thủ nó được các thành viên khác trông đợi và thừa nhận. b. Vai trò, chức năng của chuẩn mực: Chuẩn mực có ý nghĩa hết sức đặc biệt đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Điều này được thể hiện ở những khía cạch sau: - Chuẩn mực tạo điều kiện để thống nhất hành vi của các cá nhân trong xã hội và để thực hiện các mục tiêu của xã hội - Chuẩn mực quyết đinh phương hướng ứng xử trong quan hẹ giữa các cá nhân và sợ dây rang buộc giữa các cá nhân với xã hội, làm cho họ thuộc về xã hội - Chuẩn mực đảm bảo cho sự hình thành và tồn tại một trật tự của xã hội, một hệ thống ứng xử của các thành viên trong xã hội. Và xã hội cố gắng giữ gìn chuẩn mực đó bằng áp lực, bằng các biện pháp trừng phạt Như vậy, hiệu quả của chuẩn mực là đẻ ra một sự đồng nhất nào đó của xã hội, tạo ra một trật tự vững chắc, trong đó các thành viên ứng xử đồng nhất với nhau Chuẩn mực thực hiện các chức năng liên kết, điều chỉnh, duy trì quá trình hoạt động của xã hội như là một hệ thống của các mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cá nhân và các nhóm xã hội Ngoài ra, chuẩn mực còn có chức năng giảm bớt tình hỗn tạp, góp phần tạo nên cái chung của xã hội – cái đồng nhất và cái thống nhất, củng cố lập trường của các cá nhân bằng một hệ thống, làm cho họ vững tin lại, cho phép họ làm chủ bản than tốt hơn. 4 Chuẩn mực làm cho các thành viên trong xã hội chấp nhận và gặp nhau qua các dánh giá, chính kiến và gạt bỏ các xung đột, khiến cho các c. Phạm vi của chuẩn mực: Phạm vi của chuẩn mực xã hội rất rộng là những quy tắc,đạo luật trong xã hội, nó còn bao gồm cả những quy tắc nhất và cả những quy tắc lỏng lẻo nhất giữa một số người với nhau và giữa con người với xã hội.  Khi tiếp nhận và thực hiện các chuẩn mực xã hội mà con người đã lựa chọn cần thực hiện đúng giá trị chuẩn mực đề ra nếu không những chuẩn mực đó tự mất đi và trở thành hành vi lệch chuẩn.  Mỗi thành viên trong xã hội có các địa vị và vị thế khác nhau. Mỗi địa vị lại bị quy định bởi những chuẩn mực riêng. Ở các địa vị khác nhau con người nhận được ở xã hội sự mong đợi và yêu cầu từ các mức độ khác nhau,phù hợp với chính bản thân mỗi cá nhân đó.  Trong mỗi nhóm và tổ chức xã hội, các cá nhân phải tự giác tuân theo và tiếp nhận chuẩn mực từ nhóm và tổ chức đó một cách chuẩn xác.Trong trường hợp cá nhân nào không tuân theo các chuẩn mực,quy định đó có nghĩa là tự tách mình ra khỏi nhóm và tổ chức của mình. Một nhóm, một tổ chức xã hội sẽ không tồn tại nếu thiếu đi những quy tắc, những chuẩn mực vì vậy những chuẩn mực ở đây luôn được coi trong và khắt khe. Chính vì thế, các cá nhân trong nhóm đôi khi cũng phải từ bỏ và hạn chế những mục tiêu, giá trị riêng của cá nhân để hòa nhập vào tập thể.  Môi trường tiếp nhận các chuẩn mực chính là gia đình, nhà trường hay chính là các nhóm và các tổ chức xã hội… Môi trường quan trọng và giữ vị chí cốt lõi chính là gia đình. - Gia đình là môi trường quan trọng nhất của cá nhân,bởi hầu hết các cá nhân đều được sinh ra và lớn lên trong gia đình. Đây là nơi cá 5 nhân được tiếp nhận những kinh nghiệm sống, các quy tắc ứng xử và các giá trị chuẩn mực trong gia đình. Điều này có tác động rất tốt và góp phần hình thành lên các chuẩn mực khác đối với nhóm và xã hội. - Nhà trường cũng có ảnh hưởng lờn tới việc hình thành nhân cách và chuẩn mực của từng cá nhân. Nhà trường là nơi vui choi và học tập, ở đây các cá nhân được tiếp xúc, được trao đổi với nhau nhằm củng cố và làm giàu kiến thức cho bản thân,Ở đây, mỗi cá nhân phải tuân theo những chuẩn mực, quy định mà nhóm đặt ra cụ thể là nhà trường…  Chuẩn mực quy định hành vi và cách ứng xử của con người trong gia đình và xã hội. Nó luôn giữ vai trò điều chỉnh hành vi theo những giá trị, mục tiêu, tri thức và xúc cảm, tình cảm. Không có chuẩn mực thì hành động xã hội sẽ khó mà thực hiện được, chuẩn mực chi phối hành động và đảm bảo cho hành động diễn ra có quy tắc hơn. d. Phân loại chuẩn mực: Có nhiều cơ sở để phân chia các chuẩn mực xã hội ra thành nhiều loại chuẩn mực khác nhau. - Căn cứ vào mức độ cồng đồng ta có thể phân thành chuẩn mực của toàn xã hội và chuẩn mực của các hệ thống xã hội nhỏ (chuẩn mực nhóm). - Căn cứ vào mức độ thiết chế hoá ta có thể phân thành chuẩn mực được thiết chế hoá và chuẩn mực không được thiết chế hóa. - Căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của sự trừng phạt có thể phân ra thành lề thói và phép tắc. Chuẩn mực quan trọng nhất đối với mọi xã hội chính là pháp luật. Đây là những chuẩn mực có tính pháp chế. Pháp luật không đơn thuần quy định hành vi nào là không được phép, mà còn đưa ra những hình phạt đối với ai vi phạm pháp luật. 6 Như vậy có thể thấy, sự thích ứng với những chuẩn mực không bắt nguồn từ việc tuân thủ các pháp luật chính thức mà từ mối quan hệ không chính thức giữa các thành viên trong xã hội. Lề thói và phép tắc là các thành tố của văn hoá nên chúng khác nhau trong các xã hội khác nhau, và trong các nhóm văn hoá khác nhau. Cơ chế xã hội quan trọng trong việc thi hành chuẩn mực trong xã hội gọi là kiểm soát xã hội. Hay nói cách khác, kiểm soát xã hội chính là những phương pháp và cách thức mà xã hội thiết lập nhằm củng cố nhằm duy trì những chuẩn mực xã hội, nhằm ngăn ngừa sự lệch lạc và trừng phạt những hành vi lệch lạc. Chuẩn mực được xem như sự đặc thù hóa, gắn với hoàn cảnh của các hệ giá trị và tạo nên cầu nối giữa hệ thống văn hoá và xã hội, chuẩn mực bổ sung và cụ thể hoá các giá trị. Chúng tác động như là các cơ chế phối hợp các giá trị, hoàn cảnh xã hội và mối quan tâm của người hành động, chuẩn mực phải được hiểu như sụ cụ thể hoá của giá trị.Như vậy, các hệ thống cửa giá trị xã hội được chuyển vị trong quá trình xã hội với một bình diện thấp hơn, trong đó ở hoàn cảnh hành động cụ thể,có thể dẫn đến xung đột về chuẩn mực. Hoặc là vấn đề được giải quyết thông qua kiểm soát xã hội hoặc là sẽ dẫn tới việc sửa đổi chuẩn mực.Sư thay đổi này nói nên sự biến đổi xã hội.Có thể nảy sinh những sai lệch về chuẩn mực,có khi có những chuẩn mực mâu thuẫn với nhau, có những chuẩn mực không được biết đến, có những chuẩn mực được đánh giá cao hơn, những chuẩn mực một khoảng không tự do, trong đó cách thức hành vi ít hay nhiều phù hợp với chuẩn mực vẫn còn được chấp nhận. 5.3.2 Kiểm soát xã hội - Thuật ngữ “kiểm soát xã hội” trong xã hội học có nội dung chỉ sự diễn tiến xã hội, là sự mở rộng quá trình xã hội hóa nhằm giữ gìn trạng thái thăng bằng của các tổ chức xã hội và ổn định trật tự xã hội. Đó cũng là quá trình con người học hỏi và thực hiện những khuôn mẫu tác phong mà xã hội chấp nhận và mong đợi. Cũng có thể hiểu sự kiểm soát xã hội là cơ chế vĩnh hằng nhằm duy trì sự tuân thủ các khuôn mẫu tác phong ở con người ( nói “vĩnh hằng” ở đây chỉ có nghĩa là thời đại nào trong thực tế cũng có cơ chế này, nếu có khác chỉ là ở cách thể hiện hoặc mức độ cao thấp của áp lực xã hội ). 7 Sự sắp xếp các khuôn mẫu theo tầng bậc, từ những phép tắc thông thường cho tới những quy phạm chặt chẽ ( ví dụ từ cách giao tiếp, ứng xử thông thường cho đến các tục lệ về hôn nhân gia đình…) thường được dựa trên các tiêu chí về giá trị, sự nhất trí và áp lực xã hội và tất nhiên thông qua các quan hệ xã hội và định chế được tôn trọng trong nền văn hóa. Tất nhiên cũng không nên hiểu áp lực xã hội và kiểm soát xã hội chỉ thu hẹp trong phạm vi của sự kiểm soát về thống trị của chính quyền. Sự kiểm soát xã hội được thực hiện trên nhiều phương diện khác nhau, ví dụ trên phương diện con người xã hội, thì đó là sự kiểm soát của xã hội, của các đoàn thể vì trên thực tế những vai trò xã hội chính là sợi dây liên hệ giữa nhiệm vụ của con người với các đoàn thể mà họ là thành viên. Rõ ràng trong trường hợp này nhờ vai trò ( đóng vai trò trung gian ) mà xã hội và các định chế ( gia đình, kinh tế, đoàn thể, tôn giáo… ) thực hiện sự kiểm soát đối với con người. Cũng có trường hợp sự kiểm soát xã hội được thực hiện theo cơ chế ngược lại khi người lãnh đạo, nhà tổ chức tác động đến đoàn thể, đến cá nhân với ý nghĩa những khuôn mẫu, coi giá trị là do người “cầm lái” thiết kế, đề xướng và được tập thể và xã hội tán đồng. Trong điều kiện xã hội cũ, có các tầng lớp thống trị, đôi khi họ chỉ là một tập hợp nhỏ bé nhưng chỉ phối được sở hữu, có uy lực ( quân sự, chính trị ) nên họ vẫn khống chế, kiểm soát được toàn bộ xã hội, hướng xã hội đi theo các khuôn mẫu tác phong mà họ đề xướng. - Phân loại kiểm soát xã hội tùy theo mục tiêu và lợi ích của việc nghiên cứu xã hội, thường quy về 3 kiểu kiểm soát chính sau đây: Kiểm soát tiêu cực và tích cực. + Kiểm soát chính thức và phi chính thức. + Kiểm soát tập thể và địch chế. + Khi muốn khuyến dụ con người ( gợi ý, thuyết phục, giáo dục ) tuân thủ các khuôn mẫu tác phong, có thái độ tán thành, chấp nhận các yêu cầu xã hội, tránh các hành vi phản xã hội – đó chính là sự kiểm soát tích cực và kiểm soát này thường đi kèm sự tuyên dương, tặng thưởng, gắn yếu tố tinh thần với lợi ích cụ thể. 8 Ngược lại đôi lúc xã hội phải dùng tới sự cảnh cáo, răn đe, sự chế tài và kể cả trừng phạt để ngăn ngừa, chống lại các thái độ hành vi phản xã hội. Tất nhiên con người rất phức tạp, mỗi thái độ, hành vi cua con người thường có động cơ rất phức tạp, cùng một biểu hiện như nhau (tán thành hoặc phản đối) có thể là do nhiều yếu tố chế tài cùng một lúc. - Về mặt lí luận cũng như về thực tiễn, con người khi tự giác tuân thủ những quy tắc và áp lực văn hóa – đối với số đông là điều bình thường vì ai cũng muốn có vị trí xã hội, muốn được xã hội và đồng loại tán thành, và xét cho cùng cũng vì lợi ích chính đáng của mình. Tuy vậy, nếu đi sâu để tìm động cơ của sự chấp nhận và tuân thủ lại là vấn đề rất phức tạp, nhưng xét một cách tổng quát thì con người bình thường đều có ý thức rõ ràng về cái thiện, cái ác, những gì là công bằng và những gì là bất công phải khắc phục. Đây còn là vấn đề đạo đức xã hội sâu xa, có liên quan đến lương tâm của mỗi con người. Nếu xét theo mức độ thì sự kiểm soát xã hội của các đoàn thể, của gia đình và giáo dục là chặt chẽ nhất, tiếp đến là sự kiểm soát của các hội đoàn kinh tế và chính trị, các tổ chức tôn giáo, các đoàn thể xã hội có tính giải trí, phúc lợi, sự kiểm soát mềm dẻo và ít nhất đối với các thành viên. Tất nhiên đó cũng chỉ là nhận xét khái quát, tùy theo đặc điểm xã hội, của thể chế, của phong tục tập quán mà sự kiểm soát trên có những sắc thái đặc điểm rõ nét hơn. Trong các công trình nghiên cứu xã hội học người ta thường nhấn mạnh đến sự kiểm soát của định chế - đó là con người và xã hội sử dụng những khuôn mẫu, đoàn thể sử dụng các định chế và xã hội sử dụng văn hóa để thực hiện việc kiểm soát – thông qua sự kiểm soát như vậy chúng ta sẽ hiểu rõ con người đang làm gì và cũng mong muốn chờ đợi những gì ở mỗi con người. Sự phân tích sự kiểm soát xã hội đòi hỏi chúng ta hiểu vấn đề ở cả hai khía cạnh: vừa dùng áp lực xã hội vừa dùng áp lực của định chế, cả hai yếu tố này phối hợp với nhau, tạo ra điều kiện lặp đi lặp lại các khuôn mẫu tác phong như nhau, tương đối giống nhau tạo ra tâm lí thừa nhận của xã hội đối với chúng. Chính vì vậy các phong tục vừa có tính chất cưỡng chế vừa là thái độ tự cưỡng chế của con người ( người ta chấp nhận chúng như là tất yếu, là thói quen, không cần lí sự gì nhiều ). 9 Ví dụ: người bình thường dĩ nhiên phải có gia đình; ngoài xã hội đương nhiên là phải kính trọng người già; trẻ em tất nhiên phải được xã hội nâng niu, chăm sóc… khỏi cần phải hỏi vì sao làm như vậy. - Cũng cần nhấn mạnh rằng tùy từng hoàn cảnh định chế kiểm soát tác phong của mỗi chúng ta – tùy theo truyền thống văn hóa, mỗi nền văn hóa đều có định chế nòng cốt, đòi hỏi sự tuân thủ cao hơn so với các định chế khác. Ví dụ trong xã hội châu Á cổ xưa – người ta rất đề cao vai trò của gia đình, gia tộc, xem đó là đầu mối căn bản, từ đó tạo ra các ảnh hưởng tới các giá trị khác; xem xét thái độ của con người, cách ứng xử của một người đối với gia tộc, gia đình ra sao để đoán định nhân cách của người đó… tất nhiên là một định chế có giá trị đối với xã hội này, nền văn hóa này lại rất có thể lại ít tác dụng,ít giá trị áp dụng vào nền văn hóa, vào xã hội khác. Mỗi một định chế có thể thay đổi ưu thế của nó theo sự phát triển và tiến bộ của xã hội và nhu cầu cơ bản của xã hội. - Kiểm soát xã hội không chính thức: Kiểm soát xã hội không chính thức tồn tại trong các nhóm sơ cấp, như trong gia đình, nhóm bạn bè, nhóm làm việc hoặc những nhóm xã hội nhỏ khác. Các nhóm xã hội sơ cấp thực hiện được việc kiểm soát các thành viên trong nhóm của mình vì các nhóm đó có giữ một số vai trò khá đặc biệt trong đời sống của cá nhân, chúng chiếm giữ hầu hết các quan hệ xã hội tới các cá nhân. Phạm vi mà cơ chế kiểm soát xã hội không chính thức này hoạt động rất rộng lớn. Kiểm soát xã hội không chính thức đối với cá nhân biểu hiện ở sự chế giễu, xa lánh, ly khai, khinh bỉ, giễu cợt, trừng phạt hoặc là cả sự đe dọa. Việc cá nhân sợ hãi sự tẩy chay, ly khai của cộng đồng mà mình đang sống trong đó thể hiện một cách rất có hiệu quả. Bởi lẽ sự thừa nhận của nhóm là có tầm quan trọng đặc biệt. Đánh mất sự thừa nhận là mất tất cả. - Kiểm soát xã hội chính thức: Hình thức kiểm soát xã hội chính thức tồn tại trong một số thiết chế xã hội và một vài cơ quan trọng yếu. Các tổ chức đó bao gồm cơ quan cảnh sát, nhà tù, tòa án, trại giáo dưỡng, trung tâm quản lý người bệnh tâm thần gây nguy hiểm cho xã hội… Hệ thống chủ yếu của kiểm soát xã hội chính thức 10 có một cơ chế điều luật kèm theo. Trong đó có các điều luật qui tắc xã hội được viết thành văn bản. Và thường thì kèm theo những hình phạt tương ứng dành cho những ai vi phạm. Ví dụ như: tội tù giam cho kẻ phạm tội; bệnh viện tâm thần dành cho người bất bình thường về tâm sinh lí gây ra những hành động ngớ ngẩn, hoang tưởng; những người lạm dụng ma túy bị quản thúc và đặt trong tình trạng thử thách… 5.5 Hành vi lệch chuẩn 5.5.1 Khái niệm Những hành vi, lối ứng xử của cá nhân hay tập thể vi phạm các chuẩn mực, giá trị chung(đã được thể chế hóa thành những văn bản, những quy định, luật lệ được xã hội thừa nhận) được gọi là hành vi sai lệch, là lệch chuẩn.[P.U.Pavlenok,cơ sở của công tác xã hội] Sai lệch chuẩn mực xã hội (lệch chuẩn) là một khái niệm chỉ những sự bất bình thường và lệch lạc các hành vi của cá nhân và của các nhóm xã hội, nó chỉ ra tính quy luật của những hậu quả xã hộị của các hành vi sai lệch và thái độ phản ứng của xã hội trước các hành vi lệch lạc này. Cho đến nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề sai lệch xã hội:  A.Cô-en, nhà tội phạm học Mỹ, quan niệm hành vi sai lệch là hành vi đi ngược với những dự tính đã được thể chế hóa.  Đ.U-ôn-sơ, nhà XHH Anh cho rằng :”sai lệch xã hội là trạng thái gán ghép”, do con người dán nhãn hiệu cho. Như vậy, sai lệch xã hội mang tính chủ quan chứ không phải là hiện tượng xã hội mang tính khách quan.  Theo Smelser, sai lệch xã hội là sự lệch hướng khỏi chuẩn mực của nhóm mà dẫn tới sự cô lập cách ly, chữa trị, kết án hay trừng phạt một người hay một nhóm người hoạc của xã hội nói chung đối với người bị vi phạm.  Theo quan niệm của các nhà xã hội học Marxist: Sai lệch xã hội hay lệch chuẩn là hành vi của một cá nhân hay của một nhóm xã hội không phù hợp với những giá trị, chuẩn mực đang được xã hội thừa nhận, đi lệch với những gì mà số đông đang chờ đợi hoặc mong muốn ở họ trong những hoàn cảnh nhất định. 11 Theo những khái niệm trên nếu quan niệm lệch chuẩn chỉ là hành vi của cá nhân thì chưa khái quát hết bởi sai lệch xã hội không chỉ xảy ra trong hành vi cá nhân mà còn phát sinh trong hành vi tập thể, mỗi nhóm xã hội. Ở cá nhân sai lệch xã hội được xem là những hành động vi pham các chuẩn mực xã hôi như chuẩn mực luật pháp, đạo đức và các quy tắc sinh hoạt công cộng.Đối với nhóm và cộng đồng xã hội, sai lệch được coi là những hành động chống phá xã hội có tính chất nguy hiểm hơn,quy mô và hậu quả lớn hơn. 1. Đặc điểm của lệch chuẩn  Lệch chuẩn mang tính phổ biến: Mặc dù lệch chuẩn có tính chất đa dạng, theo nhiều hướng khác nhau, nhưng về cơ bản, nó lại có nhiều nét chung cơ bản giống nhau mang tính xã hội rõ rệt. - Thứ nhất: lệch chuẩn là một hệ thống hành động trong xã hội, nó có thể của một cá nhân, một nhóm người,một xã hội. - Thứ hai: lệch chuẩn có khuynh hướng giống nhau ở những nhóm, những tầng lớp dân cư giống nhau trong những điếu kiện ít nhiều giống nhau. - Thứ ba: tính chất gần giống, thống nhất với nhau về nguyên nhân mà do tác động của chúng sai lệch nảy sinh và thể hiện ra bên ngoài. - Thứ tư: sai lệch có tính lặp lại và ổn định trên một địa bàn không gian nhất định,trong thời gian nhất định.  Lệch chuẩn có tính thay đổi và tính tương đối: Thực chất lệch chuẩn xuất hiện khi có chuẩn mực,chuẩn mực chính là mốc để so sánh để biết hành vi lệch chuẩn.Tuy nhiên không chuẩn mực không phải là cố định mà nó luôn là khác nhau trong những nhóm khác 12 nhau, xã hội khác nhau,trong khoảng thời gian và không gian văn hóa khác nhau,do vậy lệch chuẩn sẽ có sự thay đổi,và tương đối. 2. Phân loại lệch chuẩn Có nhiều cách phân loại lệch chuẩn:  Căn cứ vào quy mô có 2 loại hành vi lệch chuẩn: - Lệch chuẩn của cá nhân: hành động của một cá nhân đi lệch khỏi những quy tắc xã hội được một nhóm hay một cộng đồng xã hội thừa nhận, không phù hợp với những quy tắc văn hóa của nhóm đã được xác lập. - Lệch chuẩn nhóm: một nhóm các thành viên có hành vi trái ngược với những quy tắc, những hệ thống giá trị và chuẩn mực xã hội đã được một nhóm lớn hơn hay một cộng đồng xã hội thừa nhân, tuân theo.  Căn cứ vào mức độ chia lệch chuẩn làm 2 loại: - Lệch chuẩn mức thấp: là những hành động của cá nhân vi phạm giá trị và chuẩn mực xã hội có tính tạm thời, không lặp đi lặp lai, không có tính hệ thống.Vì vậy, lệch chuẩn này không chiếm đa số trong tổng số các hành vi của từng cá nhân và ảnh hưởng đến xã hội cũng thấp. - Lệch chuẩn mức cao: Là những hành động có tính toán,có hệ thống của một người hay một nhóm người đi lệch khỏi chuẩn mực, giá trị xã hội.Họ tổ chức đời sống cá nhân mình,của nhóm mình trên cơ sở những hành vi lệch lạc này.Hậu quả của những hành vi lệch chuẩn ở mức cao này là nghiêm trọng, phản ứng của xã hội là gay gắt. Ví dụ như nghiện ma túy, tham nhũng có tổ chức…  Căn cứ vào tính chất có thể chia lệch chuẩn thành 2 loại: 13 - Lệch chuẩn tích cực: là những hành vi vi phạm những chuẩn mực giá trị thông thường,vi phạm những quy tắc xã hội thậm chí cả luật pháp hiên hành,nhưng tác động tích cực đến xã hội,khuyến khích xu hướng tiến bộ, văn inh phát triển cả trước mắt hoặc lâu dài - Lệch chuẩn tiêu cực: là những hành động của 1 người hay của một nhóm người đi chệch khỏi những chuẩn mực luật pháp và đạo đức, quy tắc và nguyên tắc sống của xã hội,có khi cả nhwngxvi phạm trong hoạt động của các tổ chức nhà nước và tổ chức xã hội, chúng dẫn đến rối loạn các thể chế xã hội, gây ra những hậu qua xã hội xấu, cản trở quá trình phát triển xã hội và tiến bộ văn minh của nhân loại.ví dụ như tham ô hối lộ,ăn cắp của công….  Căn cứ vào phạm vi lệch chuẩn ta có thể chia làm 2 loại: - Lệch chuẩn mực dân tộc:là những hành vi của một người hoặc một nhóm người vi phạm chuẩn mực đạo đức, luật pháp của một nước. - Lệch chuẩn mực quốc tế: là hành vi cá nhân hay một nhóm vi phạm chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật quốc tế.  Căn cứ vào tiêu chuẩn của hành vi lệch chuẩn gồm 2 nhóm: - Hành vi sai lệch so với tiêu chuẩn về sức khỏe và tinh thần, tức là người có bệnh tâm thần thể hiện rõ hay là đang còn tiềm ẩn.Ví dụ như những người bị tâm thần phân liệt, người bị mắc bệnh đông kinh, người bị ảo giác…. - Hành vi sai lệch so với các tiêu chuẩn luân lí đạo đức của cộng đồng và biểu hiện ở các hình thức bệnh học xã hội như say rượu,hút chích,ma túy,bán dâm… 3. Nguyên nhân và cơ chế của các hành vi lệch chuẩn 14  Nguyên nhân của các hành vi lệch chuẩn đa dạng và có nhiều mức độ khác nhau.Thông thường có hai loại nguyên nhân:Bên ngoài(khách quan) – Bên trong(chủ quan). -Nguyên nhân bên ngoài: Thứ nhất,nguyên nhân về kinh tế xã hội. Những thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế xã hội tác động trực tiếp vào đời sống của mỗi gia đình làm suy giảm mức sống bình thường trong cuộc sống về vật chất và tinh thần của một bộ phận dân cư nhất định sẽ là đông lực thúc đẩy hành vi lệch chuẩn tiêu cực như tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế… Thứ hai, nguyên nhân về lối sống.Nền kinh tế thị trường bên cạnh những mặt tích cực có rất nhiều mặt tiêu cực nảy sinh lối sống chậy theo đồng tiền,giá trị đồng tiền chà đạp lên phẩm giá con người.cá nhân lừa đảo,buôn lậu,cướp giật để làm giàu.Đây là những hành vi lệch chuẩn cần được sớm kiểm soát và ngăn ngừa. Thứ ba, sự phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo:sự phân tầng và phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc,càng gia tăng khoảng cách giữa hai bộ phận:Bộ phận dân cư nghèo có xu hướng nghèo đi (đây cũng là nguyên nhân làm xuất hiên hành vi lệch chuẩn) – Bộ phận dân cư giàu ngày càng giàu trong đó có một bộ phận làm giàu không chính đáng do vi phạm chuẩn mực luật pháp như buôn lậu,trốn thuế,tham nhũng…Cả hai nhóm này nếu không được kiểm soát tốt thì dễ rơi vào hành vi sai lệch tiêu cực,dẫn tới con đường phạm tội. Thứ tư,sự sa sút về đạo đức lối sống,thuần phong mĩ tục:Trong cơ chế thị trường thang đo giá trị đạo đức xã hội đã biến đổi trọng vật chất nhẹ tinh thần,trọng hiện tại nhẹ tương lai.Chính những định hướng này là nguyên nhân quan trọng dẫn đến tâm lí sùng bái đồng tiền – Đây là nguy cơ tiềm tàng của hành vi lệch chuẩn. Thứ năm,những yếu kém,thiếu sót trong công tác xây dựng pháp luật:Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh,các văn bản thiếu tính thực tiễn dẫn đến những chế địnhkém hiệu quả.Việc tuyên truyền luật không hiệu quả,thi hanh pháp luật không kịp thời nghiêm minh,ý thức chấp hành pháp luật kém do đó khó tránh khỏi sai lệch xã hội. 15 Thứ sáu,công tác giáo dục bi giảm sút ở một số nơi.Trình độ dân trí thấp,giáo dục nhân cách thiếu được quan tâm đã thúc đẩy hành vi vi phạm pháp luật,đạo đức. - Nguyên nhân bên trong (là các yếu tố tâm lí cá nhân,sinh học): + Một là,ý thức sai về cách thức,con đường thỏa mãn nhu cầu.Yếu tố tâm lí tiêu cực vụ lợi mà biểu hiện của nó là sự tham lam,tính vị kỉ,ý thức coi thường pháp luật luôn luôn là cơ sở động lực của sự xuống cấp và suy thoái đạo đức. + Hai là,bản thân con người không được tu dưỡng thường xuyên.Dù ở phương diện nào thì sai lệch chuẩn mực xã hội cũng do bản thân cá nhân không chăm chỉ tự rèn luyện tu dưỡng đạo đức.Trau dồi đạo đức đươc coi là phanh hãm,có tác dụng ngăn chặn hành vi lệch chuẩn cảnh báo sự tha hóa đạo đức. + Ba là,các yếu tố sinh học như sự rối loạn thần kinh được xem la nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn.  Cơ chế của hành vi lệch chuẩn: Thực chất,sự đi lệch chuẩn mực xã hội là kết quả tác động qua lại của một phức hợp rất nhiều những đặc điểm của nhân cách trong các tình huống và điều kiện tác động khác nhau.Kết quả này có thể khác nhau đối với các kiểu nhân cách và dặc điểm tình huống khác nhau. Cơ chế của hành vi lệch chuẩn Tình huống có vấn đề Bộ máy điều tiết giá trị chuẩn mực 16 Không biết chuẩn mực Biết chuẩn mực Thái độ với chuẩn mực Định hướng giá trị Những đặc điểm tâm sinh lí cá nhân Thông qua quyết định Sai lầm Vi phạm có ý thức Hành vi lệch chuẩn 5.5.2 Giải thích hành vi lệch chuẩn theo xã hội học: Các nhà xã hội học thực hiện cách tiếp cận rộng rãi hơn, đó là cách nghiên cứu theo phạm vi ảnh hưởng tác động tới hành vi lệch chuẩn. Các lý thuyết này dựa trên chuẩn mực, giá trị và quy tắc xã hội để xác định phạm vi 17 lệch chuẩn khi xuất hiện. Lý thuyết xã hội học về lệch chuẩn có những trường phái sau đây: nhóm khác biệt, tương tác, kiểm soát. Lý thuyết nhóm khác biệt: Lý thuyết này được nhà xã hội học Edwin H.Sutherland (1) xây dựng. Ông cho rằng điều đầu tiên phải hiểu cho đúng như thế nào là lệch lạc, và cần phải hiểu lệch lạc này có sự biến đổi khác nhau từ nhóm người này sang nhóm người khác. Hầu hết các cá nhân có cả hai thứ trong tự thân là “lệch lạc” và “không lệch lạc”. Cá nhân sẽ phô diễn cả hai điều này trong một nhóm xã hội nào đó. Dựa trên cơ sở lý thuyết này Edwin H.Sutherland tiến hành đo lường các nhóm theo bốn chỉ số: - Tần số hoạt động - Sự ưu đãi - Khoảng thời gian - Cường độ giao tiếp H.Sutherland đưa ra một ví dụ về những người có hành vi lệch lạc ở mức cao ở những người có cổ áo trắng (2). Những người có cổ áo trắng này là những người có địa vị xã hội cao, quan hệ xã hội rộng, có tư cách và được trọng nể, chính vì những điều kiện thuận lợi như thế đã dễ dàng đưa họ đến phạm pháp ngay trong hoạt động nghề nghiệp của họ. Chẳng hạn như ăn hối lộ, đút lót, quà cáp không minh bạch. Bởi vì họ có sự tiếp xúc thường xuyên lâu dài và cường độ lớn với bạn đồng nghiệp, cấp dưới, với khách hàng. Họ bao giờ cũng nhận được sự ưu đãi trong quan hệ và những sự thuận lợi đó làm cho họ sớm phạm tội. Một số nhà lý thuyết hành vi còn xác định hơn nữa rằng hành vi lệch lạc sẽ phát triển cao hơn nếu như những biểu hiện hành vi lệch lạc đó được coi là phần thưởng đối với họ. (1): Edwin H.Sutherland. Lippincott, 1939) Principles of criminology (Philadelphia: (2): Những người công nhân quí tộc có vị trí xã hội và thu nhập cao – ND Lý thuyết phi quy tắc: Lý thuyết này nhằm giải thích hành vi lệch lạc như là kết quả của hoạt động trong trạng thái không quy tắc, không nguồn gốc đưa đến việc là mong 18 đợi văn hóa không tồn tại trong quan hệ xã hội. Robert K.Merton (1) đã cố gắng tìm cách liên kết phi qui tắc với hành vi xã hội, và ông đưa ra bốn kiểu hành vi lệch lạc xuất hiện do tình trạng phi quy tắc mang lại: 1. Sáng kiến: sáng kiến nảy ra khi mà cá nhân hướng tới mục tiêu và cố gắng đạt được nó, nhưng trong khi tiến hành thì lại loại bởi các phương cách thực hiện theo những quy tắc thông thường. Ví dụ như: tất cả mọi người đều cố gắng đạt được mục tiêu là sự giàu có và thực hiện mục tiêu ấy bằng các phương thức thông thường là chịu khó, tiết kiệm, nỗ lực thì những tên cướp nhà băng lại phá vỡ những qui tắc đó để đạt đến mục tiêu một cách bất hợp pháp. 2. Chủ nghĩa nghi thức: chủ nghĩa nghi thức xảy ra khi người ta tiếp nhận các phương cách hợp lý theo nghĩa thông thường nhưng lại quên hoặc bác bỏ mục đích cuối cùng. Ví dụ như: một nữ hộ lí quá quan tâm đến các nghi thức của bệnh viện (giấy tờ, thủ tục) hơn là lo cấp cứu cho bệnh nhân đang trong tình trạng nguy cấp. 3. Chủ nghĩa thoát ly: chủ nghĩa này xảy ra khi mà cá nhân bác bỏ cả hai là mục tiêu cần đạt đến và phương cách để đạt được mục tiêu. Ví dụ như: người nghiện rượu hoặc ma túy sẽ từ bỏ gia đình, sự nghiệp, công việc, bạn bè để đắm mình vào các hành vi lệch lạc. Họ tự chọn lấy trạng thái cô đơn xa lánh khỏi xã hội. 4. Nổi loạn: điều này xảy ra khi mà cả mục tiêu lẫn phương cách bị chối bỏ và các cá nhân cố gắng đạp đổ hệ thống mục tiêu và phương cách hiện tồn được xã hội chấp nhận để tạo dựng thay thế nó bằng mục tiêu và phương cách khác hẳn. K.Merton còn nhận thấy trong hành vi lệch lạc còn có một yếu tố nữa là cơ hội hợp pháp hay bất hợp pháp sẵn có để đưa tới hành vi. Những cơ hội này thường chứa đựng sẵn trong trạng thái xã hội của cá nhân như màu da, dân tộc, sắc tộc, chủng tộc, thu nhập, giáo dục, giới tính, gia đình, lứa tuổi. Để đạt đến được các hành vi đặc biệt hay những vai trò đặc biệt thì chắc chắn phải có những cơ hội hợp pháp hay không hợp pháp. Mỗi cá nhân dường như có cách thức học hỏi kỹ năng thể hiện vai trò riêng và khi có cơ hội thì nó sẽ thể hiện ra. Theo lý thuyết phi quy tắc thì không phải cá nhân nào cũng có đủ kỹ năng cần thiết qua sự học hỏi và cơ hội để trở thành tên ăn trộm hay một tên giết người hoàn hảo. 19 Tóm lại, hành vi lệch lạc, theo K.Merton, đó là hiện tượng ra đời từ sự vênh giữa cấu trúc xã hội và văn hóa. Nguồn gốc của loại hành vi này nằm trong các tổ chức xã hội nhiều hơn là trong cá nhân. Lý thuyết điều tiết: Lý thuyết này phát biểu rằng điều tiết xã hội ảnh hưởng đến hành vi của mỗi người. Travis Hirschi (1) cho rằng trong xã hội tồn tại mối quan hệ giữa các cá nhân và qui ước xã hội. Một khi các cá nhân tiếp thu tốt các qui ước xã hội sẽ giảm thiểu sự lệch hướng khỏi các qui ước đó. Travis Hirschi cho rằng mối quan hệ đó được giới hạn trong 4 thành phần: 1. Sự gắn bó: sự gắn bó biểu hiện sự ảnh hưởng và sự đáp lại của cá nhân này tới cá nhân khác. Sự gắn bó càng mật thiết thì việc thu nhận các qui tắc xã hội càng hiệu quả. 2. Tín ngưỡng: tín ngưỡng được qui vào giá trị tự thân. Người ta nhận thấy một khi tín ngưỡng lành mạnh thì sự lệch lạc ít xảy ra. 3. Mục tiêu văn hóa được tán đồng: một cá nhân có sự cam kết tự nguyện về mục tiêu giáo dục, hoạt động nghề nghiệp lâu dài thì ít khi đi chệch khỏi mục tiêu đó và do vậy ít đi chệch khỏi quĩ đạo của xã hội. 4. Sự ràng buộc: khi mà các cá nhân có sự ràng buộc với nhau trong một thiết chế khu vực hay một tổ chức xã hội thì chắc chắn là hiện tượng lệch lạc ít xảy ra. Ví dụ như là một sinh viên là thành viên tích cực của đội văn nghệ, đội bóng đá… thì sinh viên đó ít có biểu hiện lệch lạc hơn so với sinh viên không hề tham gia bất kỳ một tổ chức nào có sự ràng buộc. So sánh các lý thuyết phi qui tắc, điều tiết, và nhóm khác biệt: Qua các lý thuyết trên, ta nhận thấy sự không giống nhau ở các nguyên nhân đưa đến hành vi lệch lạc. Lý thuyết phi qui tắc cho rằng không có sự nhất quán giữa mục tiêu văn hóa đã được chấp nhận với phương cách hợp logic đạt đến mục tiêu, và đó là nguyên nhân chính. Còn lý thuyết điều tiết lại cho rằng nếu các cá nhân học hỏi được các qui tắc xã hội và phương cách hợp lí thực hiện các mục tiêu thì hành vi lệch lạc sẽ được giảm thiểu. Lý thuyết nhóm khác biệt thì lại quả quyết là hành vi lệch lạc là do cấu trúc nhóm xã hội tạo ra nhiều điều kiện để đưa đến hành vi lệch lạc. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan