Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trần việt khánh_anh 11qt_k47_qtkdqt...

Tài liệu Trần việt khánh_anh 11qt_k47_qtkdqt

.PDF
87
204
59

Mô tả:

1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH ---------***-------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh quốc tế PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở NHẬT BẢN VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM Họ và tên sinh viên: Trần Việt Khánh Mã sinh viên: 0852010102 Lớp: Anh 11 – Khối 3 QT Khóa: 47 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung Hà Nội, tháng 5 năm 2012 2 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN ..................... 9 1.1. Một số khái niệm cơ bản...................................................................................9 1.1.1. Kinh tế tư nhân ...........................................................................................9 1.1.2. Phân biệt sự khác nhau giữa kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản tư nhân .11 1.2. Các hình thức của kinh tế tư nhân ..................................................................12 1.3. Đặc điểm của kinh tế tư nhân .........................................................................14 1.3.1. Đặc điểm chung của kinh tế tư nhân tại tất cả các quốc gia ...................14 1.3.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường .....................17 1.3.3. Đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân tại các nước đang phát triển và chuyển đổi trong đó có Việt Nam .......................................................................20 1.4. Vai trò của kinh tế tư nhân..............................................................................20 1.4.1. Vai trò xã hội học của kinh tế tư nhân .....................................................21 1.4.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân tại các quốc gia 23 1.4.3. Vai trò đặc biệt của kinh tế tư nhân đối với Việt Nam ............................. 26 1.5. Những hạn chế của kinh tế tư nhân ................................................................ 27 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở NHẬT BẢN ................................................................................................... 29 2.1. Vài nét về Nhật Bản và khu vực kinh tế tư nhân Nhật Bản............................29 2.2. Các giai đoạn phát triển của kinh tế tư nhân Nhật Bản ..................................32 2.2.1. Giai đoạn tái kiến thiết đất nước (1945 – 1954) ......................................32 2.2.2. Giai đoạn đầu của thời kỳ tăng trưởng cao độ (1955 – 1962) ................35 2.2.3. Giai đoạn thứ hai của thời kỳ tăng trưởng cao (1963 – 1972) ................39 3 2.2.4. Giai đoạn tăng trưởng ổn định (1973 – 1984) .........................................41 2.2.5. Giai đoạn thay đổi cơ cấu nền kinh tế lần thứ nhất (1985 – 1999) .........43 2.2.6. Giai đoạn thay đổi cơ cấu nền kinh tế lần thứ hai (2000 – đến nay) .......47 2.3. Kinh nghiệm rút ra từ phát triển kinh tế tư nhân của Nhật Bản .....................51 2.3.1. Về phía Nhà nước .....................................................................................51 2.3.2. Về phía doanh nghiệp ...............................................................................57 CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............ 59 3.1. Kinh tế tư nhân Việt Nam và yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới .............59 3.1.1. Quan điểm của Nhà nước về khu vực kinh tế tư nhân ............................. 59 3.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân của Việt Nam hiện nay .................61 3.1.3. Yêu cầu phát triển trong bối cảnh mới .....................................................74 3.2. Một số đề xuất trong việc vận dụng kinh nghiệm của Nhật Bản nhằm phát triển kinh tế tư nhân của Việt Nam ........................................................................77 3.2.1. Về phía Nhà nước .....................................................................................77 3.2.2. Về phía doanh nghiệp ...............................................................................83 KẾT LUẬN.................................................................................................... 85 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 86 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Viết tắt Tên đầy đủ Chương trình Phát triển Dự án Mê kông: Mekong Project Development Facility Doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNVV Hệ số sử dụng vốn: Incremental Capital – Output Rate Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch: General Agreement of Tariffs and Trade Hợp tác xã Public Private Partnerships Ngân hàng Thế giới: World Bank GATT Monetary Fund Tập đoàn Tài chính Quốc tế: International Finance Corporation Tổ chức Thương mại Thế giới: World Trade Organization Tổng sản phẩm quốc dân: Gross National Product phẩm Domestic Product trong nước: PPP WB Quỹ Tiền tệ Quốc tế: International sản ICOR HTX Mô hình hợp tác Nhà nước – tư nhân: Tổng MPDF Gross IMF IFC WTO GNP GDP 5 DANH MỤC ĐỒ THỊ – BẢNG BIỂU Đồ thị: STT Ký hiệu 1 Đồ thị 2.1 Tên đồ thị Tỷ lệ doanh nghiệp Nhật Bản gia nhập và rút lui qua các thời kỳ Số Trang 40 Bảng biểu: STT Ký hiệu 1 Bảng 2.1 2 Bảng 3.1 Tên bảng biểu Phân bố doanh nghiệp theo quy mô các ngành phi nông nghiệp Vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế thực hiện năm 2011 Số Trang 26 56 Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá 3 Bảng 3.2 thực tế phân theo ngành hoạt động giai 58 đoạn 2006 – 2010 Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp theo 4 Bảng 3.3 giá thực tế phân theo thành phần kinh tế 59 giai đoạn 2006 – 2010 Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và 5 Bảng 3.4 doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá 59 thực tế giai đoạn 2006 – 2010 6 Bảng 3.5 Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế trong giai đoạn 2001– 2010 62 6 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế tư nhân là một giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa. Trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, Thuyết Tự do hóa đã được vận dụng ở nhiều nước và cải cách, mở cửa trở thành phương thức thúc đẩy tăng trưởng của các nước đang phát triển, và nhất là các nền kinh tế chuyển đổi. Kinh tế tư nhân có thể khẳng định là một trong những cấu thành quan trọng của mọi nền kinh tế, có thể thấy chưa nước nào có thể thành công trong phát triển nền kinh tế thị trường mà lại thiếu vắng khu vực kinh tế này. Nước ta đang trong tiến trình trở thành nền kinh tế thị trường được quản lý bởi Nhà nước, trong đó có sự tham gia và đóng góp rất tích cực của khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù vậy, những tồn tại và hạn chế trong hệ thống chính sách của Việt Nam đã bị bộc lộ rõ trong bối cảnh kinh tế mới hiện nay, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu thêm, tìm hiểu kinh nghiệm từ các nước phát triển. Từ đó, Việt Nam có thể tránh được sai lầm mà các nước này đã vấp phải đồng thời học tập được những cái hay, áp dụng vào nền kinh tế, sao cho phù hợp với điều kiện của đất nước. Tóm lại, việc nhận thức về vai trò, thực trạng và xu thế phát triển của kinh tế tư nhân đang trở thành nhu cầu cấp thiết của không chỉ các nhà hoạch định chính sách vĩ mô mà còn với bất kỳ ai quan tâm tới tình hình kinh tế đất nước hiện nay. 2. Mục tiêu nghiên cứu - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về kinh tế tư nhân: khái niệm, đặc điểm, vai trò… - Nghiên cứu thực trạng phát triển của thành phần kinh tế tư nhân Nhật Bản để tìm ra các kinh nghiệm. - Phân tích, đánh giá thực trạng của kinh tế tư nhân Việt Nam. Từ đó dự báo xu hướng phát triển trong bối cảnh mới và đề xuất các giải pháp phát triển thông qua việc vận dụng kinh nghiệm của Nhật Bản. 7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: + Kinh tế tư nhân Nhật Bản (chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa vì thành phần này chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp Nhật Bản): tình hình, xu hướng, các kinh nghiệm rút ra. + Kinh tế tư nhân Việt Nam: tình hình, xu hướng, các giải pháp phát triển. - Thời gian: + Nhật Bản: từ sau chiến tranh thế giới thứ II (1945) đến nay (nửa đầu năm 2012). + Việt Nam: từ sau thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay (nửa đầu năm 2012). 4. Cơ sở trong việc lựa chọn đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trong nhiều thập kỷ qua, Nhật Bản được cả thế giới trầm trồ thán phục vì những thành tựu về khoa học kỹ thuật mà họ đã làm được. Có được thành quả to lớn trên chính là do họ đã sớm ý thức được tiềm năng và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân nội địa từ hàng trăm năm trước đây. Sự thành công này đã biến nước Nhật trở thành một điểm đến lý tưởng cho các chuyên gia, nhà nghiên cứu kinh tế nhằm tìm kiếm những nguyên lý về sự thành công trong hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân phát triển và rút ra được các bài học kinh nghiệm, áp dụng vào đất nước mình. Nhật Bản cũng là một quốc gia châu Á, họ có các điều kiện về tự nhiên, dân số và những đặc điểm cổ truyền rất thân quen, gần gũi với Việt Nam. Nhật Bản trong giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ II và Việt Nam trong thời kỳ sau Đổi Mới (1986) đều có những nét khá tương đồng. Sau chiến tranh, Nhật Bản đã mau chóng phục hồi kinh tế và có bước phát triển nhảy vọt trong một thời gian dài. Sự thành công của Nhật Bản thể hiện ở việc điều hòa thu nhập giữa hai khu vực kinh tế là Nhà nước và tư nhân cũng như ở việc điều hòa phúc lợi xã hội. Đó là cơ sở để kích thích sản xuất và tạo ra tăng trưởng mới trong thời kỳ về sau. 8 Chính vì vậy, việc phân tích các nhân tố, đặc điểm kinh tế dẫn đến sự phát triển của Nhật Bản, và nghiên cứu mô hình kinh tế tư nhân Nhật Bản để so sánh và tìm ra các kinh nghiệm cần thiết, áp dụng vào thực tiễn ở Việt Nam thời kỳ sau Đổi Mới là một việc rất cần thiết và có ý nghĩa khoa học, tính thực tiễn rất cao. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp logic kết hợp duy vật lịch sử, các phương pháp thu thập thông tin, phân tích, so sánh, đối chiếu, dự báo. Thêm vào đó, khóa luận kết hợp sử dụng phương pháp bảng số liệu, các đồ thị… để trình bày thông tin và phân tích nhằm tìm ra các xu hướng, đặc điểm biến động của hiện tượng…. 6. Kết cấu của khóa luận Ngoài các phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục đồ thị - bảng biểu, Danh mục chữ viết tắt, Danh mục tài liệu tham khảo, thì khóa luận được bố cục theo 3 chương chính như sau: Chương 1: Lý luận chung về kinh tế tư nhân Chương 2: Thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở Nhật Bản Chương 3: Vận dụng kinh nghiệm của Nhật Bản vào phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay. Với những hiểu biết còn hạn chế cũng như giới hạn về mặt thời gian nên trong quá trình thực hiện chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, người viết rất mong nhận được sự thông cảm, góp ý chân thành của thầy cô và các bạn có quan tâm đến vấn đề này để giúp cho bài viết được hoàn thiện hơn. Qua đó người viết cũng xin chân thành cảm ơn đến tất cả các thầy cô giáo trong trường vì những chỉ bảo, hướng dẫn trong suốt bốn năm đại học vừa qua và nhất là cô giáo, TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn người viết trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. 9 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Kinh tế tư nhân1 Tính tất yếu khách quan của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân: Cùng với trình độ phát triển lực lượng sản xuất mà nhân loại đã đạt được như ngày nay, mục đích theo đuổi lợi ích cá nhân của mỗi con người vẫn chưa hề mất đi, điều này đòi hỏi cần hình thành một cơ chế có thể kích thích con người đồng thời thực hiện các mục tiêu của xã hội. Đó là tiền đề cho sự ra đời của cơ chế thị trường với sự tồn tại khách quan của những hình thức sở hữu đa dạng. Trong số đó, sở hữu tư nhân, tương ứng với kinh tế tư nhân được xem như động lực quan trọng cho sự phát triển. Khi đem so sánh với những hình thức sở hữu khác trong lịch sử phát triển nhân loại, có thể nhận thấy rằng, trong một nền kinh tế thị trường, hình thức sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là phù hợp hơn cả. Tuy nhiên đã có thời kỳ mà không ít người, nhất là những nhà lý luận đi theo mô hình Xô Viết đã lên án thành phần kinh tế tư nhân một cách gay gắt và đưa ra chủ trương xóa bỏ nó. Nghiêm trọng hơn, họ đã coi khu vực kinh tế này là vật cản lớn trong tiến trình xây dựng xã hội mới. Vậy nhưng thực tiễn đã chứng minh ngược lại, Chủ nghĩa Xã hội Xô Viết đã bị sụp đổ trong khi kinh tế tư nhân lại đang phát triển không ngừng, càng ngày càng thể hiện được sức mạnh rất to lớn của nó. Từ hiện tượng lịch sử này cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân không những liên quan đến việc thành hay bại của một quốc gia, nó còn có tác động rất lớn đến tiến trình phát triển đi lên của toàn thể nhân loại. Nói tóm lại, sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân được nhìn nhận là một tất yếu khách quan, nằm trong tiến trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. 1 : Trong khóa luận này, để tránh lặp lại từ, người viết sẽ sử dụng các cụm từ: “khu vực tư nhân”, “tư nhân”, “doanh nghiệp”, “DNNVV”, “khu vực kinh tế tư nhân” đều để chỉ “kinh tế tư nhân”. Trong những trường hợp cần phân biệt với doanh nghiệp Nhà nước, người viết sẽ giải thích cụ thể hơn. 10 Nó vẫn đang tiếp tục phát huy những ưu thế, tác dụng trong thời đại mới và sẽ còn tồn tại lâu dài trong tương lai về sau. Sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân: Có thể nói, nền kinh tế ở mọi quốc gia trên thế giới đều gồm hai bộ phận cấu thành cơ bản là khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân, tương ứng với đó là hai hình thức: sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Trong đó, sở hữu Nhà nước là hình thức sở hữu mà Nhà nước chính là người đại diện cho nhân dân để nắm giữ các tư liệu sản xuất, còn sở hữu tư nhân là sở hữu cá nhân của những người sản xuất kinh doanh ở cả trong và ngoài nước. Tại Việt Nam, theo điều 211, Bộ Luật Dân sự 2005: “Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân”. Định nghĩa về kinh tế tư nhân: Trên thế giới hiện nay, vẫn chưa có một định nghĩa và cách hiểu thống nhất về kinh tế tư nhân. Ví dụ như tại Trung Quốc, “kinh tế tư nhân” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: doanh nghiệp tư nhân, khu vực tư nhân trong Nhà nước, khu vực phi nông nghiệp,… và theo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XVI của Trung Quốc lại gọi đó là khu vực doanh nghiệp dân doanh. Cho dù được định nghĩa theo cách nào đi chăng nữa thì kinh tế tư nhân vẫn được hiểu “là một hình thức kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với quy mô nhỏ, tổ chức quản lý sản xuất dựa vào sức lao động của mình là chính và do vậy sản phẩm làm ra do tư nhân chi phối2”. Cách hiểu này là phù hợp với cách hiểu của xã hội về hình thức sở hữu tư nhân tương ứng với đó là thành phần kinh tế tư nhân của mọi nền kinh tế trên thế giới. 2 : www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com, ngày truy cập 03/04/2012, Phát triển kinh tế tư nhân, http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/03/29/2543 11 1.1.2. Phân biệt sự khác nhau giữa kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản tư nhân Hiện nay, có không ít người còn nhầm lẫn và không phân biệt được giữa hai khái niệm là “kinh tế tư nhân” và “kinh tế tư bản tư nhân” vì vốn dĩ chúng cũng có khá nhiều điểm giống nhau. Việc nhầm lẫn này đôi khi khiến cách hiểu về các khái niệm trên trở nên sai lạc, ảnh hưởng nhiều đến việc nghiên cứu và vận dụng nó vào quá trình phát triển của nền kinh tế. Để phân biệt được sự khác nhau giữa “kinh tế tư nhân” và “kinh tế tư bản tư nhân”, trước hết cần tìm hiểu qua về các khái niệm “sản phẩm thặng dư”, “giá trị sản phẩm thặng dư” và “giá trị thặng dư”. 1.1.2.1. Sản phẩm thặng dư và giá trị sản phẩm thặng dư Từ khi con người xuất hiện và biết tham gia quá trình sản xuất ra của cải vật chất thì “sản phẩm thặng dư” đã xuất hiện, đây là điều đã được lịch sử chứng minh. “Sản phẩm thặng dư” thực chất là sản phẩm xuất hiện sự dư thừa. Nó làm thỏa mãn nhu cầu cho con người đồng thời là điều kiện cần thiết cho việc tái sản xuất mở rộng và tăng trưởng kinh tế. Tổng sản phẩm xã hội trong mỗi nền kinh tế hàng hóa luôn được biểu hiện trên cả hai mặt là giá trị và hiện vật, thế nên một lẽ tất yếu là “sản phẩm thặng dư” cũng phải được biểu hiện trên cả hai mặt là giá trị sản phẩm thặng dư và hiện vật. Như vậy có thể kết luận, phạm trù “giá trị sản phẩm thặng dư” tồn tại ở tất cả các nền sản xuất hàng hóa, nó cũng là điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế. 1.1.2.2. Giá trị thặng dư “Giá trị thặng dư” là một phạm trù kinh tế duy nhất có ở Chủ nghĩa Tư bản, nó xuất hiện ở phương thức sản xuất của Tư bản Chủ nghĩa và có thể nói rằng: “ở đâu có tư bản thì ở đó sẽ có giá trị thặng dư”. Phần giá trị tăng thêm (dôi ra so với giá trị lúc ban đầu) được gọi là giá trị thặng dư. Nó có các đặc điểm sau: i) là “giá trị”, tức “lao động vật hóa”; ii) là “giá trị thặng dư”, hay “lao động thặng dư vật hóa”. Luôn luôn tồn tại liên hệ bên trong giữa “giá trị” và “giá trị thặng dư”, được thể hiện ở việc, nếu lao động đã hao phí mà không mang “giá trị” (không sản xuất hàng hóa) thì lao động thặng dư không thể biểu hiện được thành giá trị thặng dư. Lịch sử đã chứng minh rằng, lao động 12 thặng dư mà không được trả công vốn đã tồn tại trong cả hai nền kinh tế là Phong kiến và Chiếm hữu nô lệ, tuy nhiên lao động thặng dư mà không được trả công đó đã không sản xuất ra giá trị thặng dư. Trên cơ sở nền sản xuất hàng hóa có sự phát triển cao thì nền sản xuất của Tư bản chủ nghĩa mới có thể ra đời. 1.1.2.3. Kinh tế tư nhân và kinh tế tư bản tư nhân Kinh tế tư nhân, về mặt lịch sử, đã xuất hiện từ giai đoạn cuối ở phương thức sản xuất của Công xã nguyên thủy khi mà chế độ tư hữu bắt đầu xuất hiện, nhưng đây vẫn là “kinh tế tư nhân” và chưa là “kinh tế tư bản tư nhân”. Ở đây, cả hai phạm trù là “sản phẩm thặng dư”, “giá trị sản phẩm thặng dư” đã xuất hiện và được phát triển, song phạm trù “giá trị thặng dư” chưa hề xuất hiện. Kinh tế tư bản tư nhân lại ra đời trên cơ sở đã sẵn có các điều kiện nhất định, bao gồm: i) Thứ nhất, để tiền biến thành tư bản thì nó phải được tập trung trong tay của một số cá nhân, đủ khả năng thành lập những doanh nghiệp tư bản. Ở trong xã hội tư bản, đặc biệt là tại nước Anh đã tiến hành quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản thông qua việc dùng bạo lực nhằm tước đoạt các tư liệu sản xuất từ những người sản xuất nhỏ, khiến họ thực sự trở thành những kẻ vô sản. ii) Thứ hai, sức lao động cần phải trở thành hàng hóa. Như vậy, trên cơ sở của nền sản xuất hàng hóa có sự phát triển cao thì kinh tế tư bản tư nhân mới ra đời và phạm trù “giá trị thặng dư” cũng bắt đầu xuất hiện. Từ những phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng thành phần kinh tế tư bản tư nhân chính là một bộ phận cấu thành của kinh tế tư nhân, nó ra đời sau khi kinh tế tư nhân đã xuất hiện được một thời gian dài trước khi quá trình tích lũy tư bản được diễn ra. 1.2. Các hình thức của kinh tế tư nhân Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều cách xác định về cơ cấu của kinh tế tư nhân. Ví dụ như tại Nga, sau thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), kết cấu của khu vực tư nhân nước Nga lúc bấy giờ đã được Lênin chỉ ra, nó bao gồm các thành phần: kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế nông dân kiểu gia trưởng và kinh tế tư bản tư nhân. 13 Tại Việt Nam, thời kỳ từ khi Đổi Mới (1986) đến nay, trong các văn kiện qua các kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản đã đề ra đường lối phát triển nền kinh tế có nhiều thành phần, và trong đó có thành phần kinh tế tư nhân. Về nhận thức đối với kinh tế tư nhân, Đảng ta khẳng định đây là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất, với lao động của các chủ thể kinh tế và lao động làm thuê, nó bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Trong đó: - Kinh tế cá thể: là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân, hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ hay cá nhân đó, không thuê mướn lao động làm thuê. - Kinh tế tiểu chủ: là hình thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên hình thức sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động thuê mướn ngoài lao động của chủ. Quy mô vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. - Kinh tế tư bản tư nhân: bao gồm tất cả các loại hình doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam, được quy định rất đầy đủ, chi tiết trong Luật Doanh nghiệp 2005 như sau: + Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp có toàn quyền quyết định về quy mô, phương thức hoạt động, quản lý kinh doanh và sử dụng lợi nhuận sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước. + Công ty trách nhiệm hữu hạn: là doanh nghiệp trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân nhưng số lượng không quá 50. Có hai loại hình là: Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (có từ hai thành viên trở lên). Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các 14 nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. + Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia nhỏ thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, nó do các cổ đông nắm giữ. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng tối thiểu là ba và không giới hạn số lượng tối đa. Cổ đông góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. + Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên hợp danh là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một cái tên chung. Ngoài ra có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. 1.3. Đặc điểm của kinh tế tư nhân 1.3.1. Đặc điểm chung của kinh tế tư nhân tại tất cả các quốc gia Có thể nhận thấy một thực tế rằng sự phát triển của lực lượng sản xuất dù ở trong xã hội có giai cấp hay trong nền kinh tế thị trường ngày nay, đều không thể tách rời sự phát triển hài hòa giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân, hai khu vực kinh tế cơ bản của mọi quốc gia. Mặc dù giữa chúng tồn tại những điểm khác biệt nhau cơ bản nhưng luôn có sự gắn bó mật thiết, là điều kiện để cùng tồn tại và phát triển. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao ở hầu hết các nước, khu vực kinh tế tư nhân luôn tỏ rõ sự năng động, có sức sống và phát triển hơn hẳn? Đáp án nằm ở chính sự tương thích rất cao của kinh tế tư nhân với kinh tế thị trường. Nhất là hiện nay, tính chất “mở cửa” đang ngày càng tăng, sự cạnh tranh quốc tế vô cùng gay gắt, đòi hỏi những thực thể kinh tế phải thực sự linh hoạt cũng như tự chủ trong các hoạt động của mình, đây vốn là nhược điểm rất khó khắc phục của kinh tế Nhà nước. Mặc dù vậy, tính cạnh tranh cao của khu vực tư nhân không phải ngẫu nhiên mà được hình thành, nó đã tồn tại và phát triển chính nhờ hàng chuỗi những vụ phá sản công ty – sự chọn lọc tự nhiên của quá trình phát triển. Ở 15 đó, chỉ những công ty tư nhân mà có đủ tiềm lực về các mặt như: tài chính, con người, … mới có thể đứng vững và đi lên được trong sản xuất kinh doanh. Đối với mọi quốc gia trên thế giới, khu vực kinh tế tư nhân luôn có các đặc điểm chính là: 1.3.1.1. Hoạt động vì mục đích hàng đầu là lợi nhuận Đây là điểm khác biệt lớn nhất của doanh nghiệp tư nhân khi so sánh với doanh nghiệp Nhà nước. Thực tế cho thấy, vấn đề lợi nhuận trong một số doanh nghiệp thuộc khu vực công không phải là mục tiêu hàng đầu và có một số doanh nghiệp sẵn sàng hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận, ví dụ như hoạt động trong lĩnh vực công cộng chẳng hạn. Kinh tế tư nhân thì lại hoàn toàn khác, nếu không thể sinh lời thì đồng nghĩa với sự phá sản, đóng cửa nhà máy nên họ bắt buộc phải đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Do vậy, mức độ sinh lời cũng được coi là thước đo phản ánh sự phát triển trong khu vực kinh tế này. Và để có thể sinh lời thì nhất thiết kinh tế tư nhân phải có sự nâng cao về hiệu quả sản xuất kinh doanh, khoa học công nghệ và hệ thống quản lý nội bộ…. Đây cũng là nguyên nhân lý giải cho việc kinh tế tư nhân luôn thể hiện tính năng động, linh hoạt cũng như là động lực phát triển của nền kinh tế. 1.3.1.2. Hoạt động trên sự thống nhất giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản. Cho dù tồn tại ở các hình thức khác nhau (doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân sản xuất nhỏ) thì về bản chất chúng vẫn thuộc kinh tế tư nhân vì đều dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất – đặc trưng của thành phần kinh tế tư nhân. Ở đây, chủ doanh nghiệp sẽ quyết định hoàn toàn quá trình hoạt động kinh doanh, gắn trực tiếp với quyền lợi và trách nhiệm của bản thân. Quá trình “tự bỏ vốn – tự tổ chức – tự chủ trong kinh doanh – tự bù lỗ”, gắn kết quả với năng lực chính là cơ chế hoạt động của kinh tế tư nhân. Chủ doanh nghiệp tự bỏ ra vốn liếng sẵn có hay đi vay bên ngoài nên mọi quyết định cần cân nhắc kỹ càng và phải mang lại hiệu quả cao, không ngừng sinh lời từ hoạt động sản xuất kinh doanh. 16 Các doanh nghiệp Nhà nước thì lại hoạt động dựa trên nguồn vốn sở hữu của Nhà nước hay tập thể. Quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản thường không thống nhất, nên trách nhiệm và quyền lợi không đi liền cùng nhau. Kết quả là những quyết định được đưa ra sẽ không có sự thận trọng, hiệu quả đạt được thấp và thường phải đi qua nhiều cấp trung gian khác nhau. Mục đích lãnh đạo của những nhà quản lý trong các doanh nghiệp này ngoài lợi nhuận còn là để thăng tiến cũng như lạm dụng công quyền. 1.3.1.3. Quy mô đa dạng và khả năng tối ưu hóa tổ chức sản xuất kinh doanh Kinh tế tư nhân luôn phải chọn lựa quy mô phù hợp nhất nhằm tối ưu hóa tổ chức sản xuất ở các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Nó tồn tại với các quy mô rất đa dạng, từ những công ty xuyên quốc gia khổng lồ cho tới doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa. Nhờ khả năng mở rộng hoặc thu hẹp quy mô như trên mà các doanh nghiệp này luôn sử dụng lao động rất hiệu quả. Họ đều căn cứ vào yêu cầu của công việc nhằm tuyển dụng đồng thời dựa vào năng lực lao động mà đưa ra cơ chế trả công thích đáng, thu hút và đào tạo được đội ngũ doanh nhân và công nhân tay nghề cao cho đất nước. Bên cạnh đó, chủ doanh nghiệp hoàn toàn có thể sa thải ngay lập tức những lao động yếu kém, không đạt hiệu quả. Các doanh nghiệp Nhà nước thì thường có quy mô khá lớn vì một số trong đó chuyên cung cấp hàng hóa công cộng hoặc được tồn tại độc quyền nên phải có quy mô lớn mới đem lại hiệu quả. Điển hình như các ngành điện, nước… thường do Nhà nước độc quyền về sản xuất và cung cấp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Nhà nước thường mở rộng quy mô không vì sự tối ưu hóa sản xuất kinh doanh mà vì động cơ có thêm các đặc quyền cho người lãnh đạo. Cơ chế trả công trong những doanh nghiệp Nhà nước là “bình quân chủ nghĩa” và đó cũng là một vật cản lớn đối với sự hiệu quả của những doanh nghiệp này. 1.3.1.4. Tính năng động và linh hoạt cao trong sản xuất kinh doanh Các doanh nghiệp Nhà nước thường được thành lập nhờ những nỗ lực nhân tạo từ Nhà nước, sau đó nó phát triển với hàng loạt các ưu đãi. Trong khi đó, nhờ sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hóa, kinh tế tư nhân đã ra đời và phát triển hoàn 17 toàn tự nhiên. Có thể ngay lập tức hiện thực hóa một ý tưởng kinh doanh khả thi bởi các doanh nghiệp thuộc khu vực này. Quá trình ra quyết định nhanh chóng và gọn nhẹ đó sở dĩ có được là vì quá trình từ đề xuất đến thực hiện ý tưởng kinh doanh không phải thông qua nhiều cấp trung gian như doanh nghiệp thuộc khu vực công. Kinh tế tư nhân có thể tồn tại và thích nghi với mọi hoàn cảnh khó khăn nhất trong đời sống kinh tế. Tại các nước Xã hội Chủ Nghĩa trước đây, trong một thời gian dài, nó thực tế vẫn xuất hiện ở những hình thức, mức độ khác nhau thuộc một số lĩnh vực cho dù bị cấm đoán và phong tỏa bởi Nhà nước. Tuy vậy, khi các chính sách cấm đoán này được nới lỏng thì kinh tế tư nhân đã hồi sinh và phát triển thực sự mạnh mẽ. Điều này đã khẳng định sự năng động và linh hoạt cao của kinh tế tư nhân ở bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào. Trên đây là tất cả các đặc điểm chung rõ nét nhất của khu vực tư nhân khi so sánh với khu vực Nhà nước ở các quốc gia về tính hiệu quả trong hầu hết các hoạt động. Và để hiểu rõ hơn về kinh tế tư nhân thì cần đặt nó trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay để biết được thành phần kinh tế này có những đặc điểm mới nào phát sinh và tại những quốc gia đang phát triển – chuyển đổi giống như Việt Nam, kinh tế tư nhân đang phát triển ra sao. 1.3.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường 1.3.2.1. Kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là phương thức kinh tế trong đó, thông qua thị trường mà lợi ích được điều hòa và các nguồn tài nguyên được phân bổ một cách hợp lý. Trong thời đại ngày nay, nguồn tài nguyên trên toàn cầu thực sự hữu hạn và quá trình kinh tế đang trở nên vô cùng phức tạp. Những nhân tố: vốn, tri thức, công nghệ thông tin… đang trực tiếp tham gia và làm biến đổi về chất những quá trình kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần tham gia đều phải cạnh tranh bình đẳng theo luật chơi “mạnh thắng, yếu thua” – quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Do sự tồn tại của nền sản xuất lớn với động lực chính là lợi nhuận nên nền kinh tế thị trường đang định hướng sang công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Trong 18 đó, các phương thức sản xuất chính là máy móc, công nghệ và chất xám. Trong cạnh tranh, lợi ích là sống còn đối với các doanh nghiệp nên họ buộc phải nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh. Các giá trị xã hội cũng hoàn toàn mang tính thị trường và rất năng động thể hiện ở việc chúng lên và xuống giá rất nhanh chóng theo thời gian. Tại thị trường lao động, người lao động hoàn toàn bình đẳng với chủ doanh nghiệp về mặt pháp lý. Ở họ có sự mua – bán sức lao động theo các yếu tố thị trường và chỉ ràng buộc với nhau bằng hợp đồng lao động. Toàn xã hội giống như một thị trường lao động lớn và cung ứng lao động thường nhiều hơn so với nhu cầu tuyển dụng, do vậy nạn thất nghiệp tồn tại thường xuyên. Mặc dù vậy, nguy cơ thất nghiệp lại kích thích người lao động nâng cao tay nghề để bảo vệ chỗ làm việc của mình và điều này rất có lợi cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Hiện nay, kinh tế thị trường là một xu thế không thể đảo ngược nhưng nó cũng mang đến sự phân hóa giàu nghèo cũng như tồn tại bất bình đẳng trong xã hội ở rất nhiều quốc gia, nhất là khi tiến trình toàn cầu hóa đang trở nên sâu rộng thì tình trạng này càng thể hiện rõ ràng hơn lúc nào hết. 1.3.2.2. Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường Kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng đã phá vỡ sự trói buộc của chính trị: Trong quá khứ, khá nhiều quốc gia trên thế giới đã gắn kết kinh tế và hoạt động kinh doanh hằng ngày với chính trị, do vậy sẽ luôn tạo ra rủi ro đối với nền kinh tế. Nó làm năng lực cạnh tranh bị suy giảm, đẩy dân tộc đó vào vòng suy thoái cũng như nguy cơ bị đào thải. Nửa cuối của thế kỷ XX, nhân loại đã chứng kiến một thay đổi rất quan trọng, đó là việc phát triển kinh tế không còn cùng nhịp điệu với sự phát triển của chính trị, nó đã bứt ra khỏi chính trị để hình thành cho mình một vũ hội riêng. Kinh tế tư nhân vốn có tính bản năng hoàn toàn tự nhiên của con người, do đó “không gian kinh tế có sự tự chủ” sẽ là cơ sở để hình thành không gian rộng mở để các giá trị cá nhân tồn tại và phát triển. Nhân loại đứng trước cơ hội bảo tồn và phát huy các bản năng kinh tế, khả năng tạo ra giá trị gia tăng hay mở rộng ra không 19 gian tự do của các cá nhân về kinh tế. Không gian kinh tế hoàn toàn tự do này là vô cùng cần thiết, nó không chỉ là giải pháp phát triển kinh tế mà cũng đảm bảo an ninh chính trị cho mỗi quốc gia. Kinh tế tư nhân có sự biến đổi về chất: Khi chưa phát triển đủ mạnh, kinh tế tư nhân chỉ là lực lượng đại diện cho quyền lợi một quốc gia. Và sở hữu tư nhân đang phát triển đi lên một trình độ mới trong thời đại ngày nay. Nhiều doanh nghiệp đang sở hữu quy mô đồ sộ với giá trị tài sản thậm chí lớn hơn GDP tại một số nước. Nhân loại ngày càng hình thành nhiều hình thức sở hữu mới trong quá trình phát triển. Bên cạnh những tài sản hữu hình như đất đai, máy móc,…, người ta còn sở hữu các tài sản vô hình là thương hiệu, bí kíp công nghệ, không gian ảo trên Internet. Đây cũng là thời đại mà những rào cản về đầu tư, thương mại dần bị dỡ bỏ, tạo điều kiện cho sự lớn mạnh không ngừng của kinh tế tư nhân trong mô hình kinh tế thị trường mở. Kinh tế tư nhân đã từng tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau như kinh tế cá thể, các công ty và công ty đa quốc gia. Những năm cuối thế kỷ XX, nó có sự phát triển vượt bậc về chất, trong đó công ty đa quốc gia trở thành lực lượng lớn mạnh nhất đã được quốc tế hóa của kinh tế tư nhân. Hiện nay, sức mạnh của những công ty đa quốc gia đang thực sự bao trùm ranh giới các nước và không còn đại diện cho riêng quốc gia nào mà đã đại diện cho chính nó. Tại vũ đài kinh tế - chính trị, sức mạnh của lực lượng này là rất đáng quan tâm, nó ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ tới hệ thống kinh tế trên toàn cầu cũng như sự phát triển ở mỗi quốc gia. Dựa trên bối cảnh kinh tế thị trường mở, nước nào có thành phần kinh tế tư nhân có sự tham gia đầy đủ, sâu rộng nhất thì sẽ càng có ưu thế lớn trong cạnh tranh trên toàn cầu. Mỗi quốc gia cần có những chính sách phát triển thích hợp nhất cho mình, nhất là quan tâm tới sự hợp tác giữa kinh tế tư nhân nội địa và những công ty đa quốc gia đồng thời có thể tham gia trực tiếp vào những công ty này. 20 1.3.3. Đặc điểm của khu vực kinh tế tư nhân tại các nước đang phát triển và chuyển đổi trong đó có Việt Nam Không giống những quốc gia phát triển trên thế giới như Mỹ, Nhật,… nơi mà khu vực tư nhân sở hữu sức mạnh khổng lồ cũng như có ưu thế tuyệt đối, đủ khả năng thoát ra khỏi sự trói buộc bởi chính trị, nói chung, tại những quốc gia đang phát triển – chuyển đổi, kinh tế tư nhân còn có sức mạnh hạn chế và ở quy mô khá thấp. Cụ thể: - Khu vực kinh tế tư nhân tại những nước này vốn được hình thành từ khá nhiều con đường khác nhau: tự phát triển, đăng ký thành lập mới, chuyển đổi sở hữu và tư nhân hóa những xí nghiệp do Nhà nước quản lý. - Nguồn vốn trong khu vực tư nhân tại những nước này vẫn còn rất hạn chế, đóng góp vào cơ cấu GDP quốc gia chiếm tỷ trọng chưa cao, chưa đổi mới thường xuyên về khoa học công nghệ, kỹ năng quản trị yếu, thiếu sự hiểu biết rõ ràng về pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế đối ngoại,…. - Quy mô của hầu hết doanh nghiệp tư nhân ở những nước này là vừa và nhỏ, dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp đồng thời yếu kém về năng lực cạnh tranh, chịu nhiều thiệt thòi trong các quan hệ thương mại nhất là trong xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay. Như vậy, ở các nước đang phát triển và chuyển đổi, kinh tế tư nhân phải chịu sự chi phối, kiểm soát rất chặt chẽ bởi hệ thống chính trị, hệ quả là hoạt động kinh tế đang bị bóp méo, không đi theo đúng quy luật phát triển tự nhiên. Các nguy cơ này đang hiện hữu, rất cần những lực lượng xã hội, nhất là những nhà chính trị phải có sự nhận thức đúng đắn nhằm đưa đất nước mình tránh được các rủi ro, trở ngại trên. Vấn đề hiện nay của các nước này là phải bảo tồn cũng như tạo điều kiện phát triển cho các loại hình kinh doanh, các thành phần kinh tế, đặc biệt chú trọng tới khu vực kinh tế tư nhân – động lực phát triển chủ yếu của mỗi nền kinh tế. 1.4. Vai trò của kinh tế tư nhân Thực tế đã cho thấy, khu vực tư nhân tại hầu hết các nền kinh tế trên thế giới luôn đóng vai trò trực tiếp tạo ra sự nhạy cảm về kinh tế - chính trị - xã hội, nó rất
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan