Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự việ...

Tài liệu Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hà nội)

.PDF
62
208
116

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THANH TÙNG TR¸CH NHIÖM H×NH Sù §èI VíI TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THANH TÙNG TR¸CH NHIÖM H×NH Sù §èI VíI TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Vũ Thanh Tùng MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN ............. 8 1.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, các biện pháp cưỡng chế và trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp đặc biệt............................... 8 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, các biện pháp cƣỡng chế của trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hình sự trong một số trƣờng hợp đặc biệt................................................................................................. 8 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, hình thức của trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hình sự trong một số trƣờng hợp đặc biệt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................................ 19 1.2. Cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............................................................................ 24 1.3. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự một số nước ...................................................... 40 1.3.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa .................. 40 1.3.2. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự Thụy Điển .................................................................. 43 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 49 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TNHS ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (TỪ SỐ LIỆU THỰC TẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI) VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG VIỆC ÁP DỤNG TNHS ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢNError! Bookmark not defined. 2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)............................. Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Thực tiễn định tội danh đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sảnError! Bookmar 2.1.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp cƣỡng chế của TNHS đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ............ Error! Bookmark not defined. 2.2. Những hạn chế trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .. Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Hạn chế trong định tội danh .............. Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Hạn chế trong quyết định hình phạt .. Error! Bookmark not defined. 2.2.3. Hạn chế trong áp dụng các biện pháp tƣ phápError! Bookmark not defined. 2.3. Những biện pháp khắc phục những hạn chế trong quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam ..... Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN CHUNG ................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 52 PHỤ LỤC ....................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CHND: Cộng hòa nhân dân TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự TTHS: Tố tụng hình sự THTT: Tiến hành tố tụng MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong pháp luật hình sự, việc xác định Trách nhiệm hình sự của một tội phạm hay một nhóm tội phạm là rất quan trọng bởi trách nhiệm hình sự là một trong những chế định cơ bản và quan trọng của Luật hình sự Việt Nam. Tính chất và mức độ thể hiện của các nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự Việt Nam nhƣ pháp chế, nhân đạo, dân chủ xã hội chủ nghĩa phụ thuộc chủ yếu vào việc giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự. Việc xác định đúng trách nhiệm hình sự cho một loại tội phạm là kết quả phản ánh chính xác hiệu quả của nhà làm luật cũng nhƣ phát huy đƣợc tác dụng răn đe của pháp luật hình sự trong việc phòng chống tội phạm. Đối với các loại tội phạm xâm phạm sở hữu thì trách nhiệm hình sự đƣợc quy định có nhiều mức độ khác nhau. Hình phạt thấp nhất là cải tạo không giam giữ và cao nhất là tử hình. Trong đó, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đƣợc quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 1999 có năm khung hình phạt và mức cao nhất là chung thân (Bộ Luật Hình Sự của Nƣớc Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Số 15/1999/QH10 Sửa đổi bổ sung 2009/QH12 Ngày 19/6/2009 đã bỏ hình phạt tử hình). Hà Nội là một trong hai trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất của cả nƣớc, là nơi diễn các hoạt động kinh tế lớn, dân cƣ từ các tỉnh thành di chuyển và tập trung sinh sống, học tập tại Hà Nội chiếm tỷ lệ cao, vì vậy nhu cầu xã hội về mọi mặt tại Hà Nội là rất lớn. Trong những năm qua, loại tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Hà Nội diễn biến theo chiều hƣớng gia tăng và thƣờng xuyên với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Từ hành vi phạm tội, chủ thể thực hiện tội phạm đến các đối tƣợng bị xâm hại đều rất đa dạng, phong phú. Các đối tƣợng phạm tội thƣờng lợi dụng những sơ hở phát sinh trong nền 1 kinh tế thị trƣờng, lợi dụng lòng tin, nhu cầu xã hội và thông qua các giao dịch dân sự, quan hệ kinh tế…. để thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả có vụ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, làm ảnh hƣởng đến nền kinh tế thị trƣờng, gây thiệt hại hàng chục tỷ đồng của nhà nƣớc, các tổ chức, các nhân, nhiều doanh nghiệp đứng trƣớc nguy cơ phá sản, gây mất trật tự an ninh và làm hoang mang tâm lý của ngƣời dân Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” còn chƣa hợp lý, chƣa phù hợp với tình hình tội phạm thực tế, việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với loại tội này trên cả nƣớc nói chung và Hà Nội nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến việc phòng chống loại tội phạm này ở nƣớc ta và Hà Nội chƣa đƣợc nâng cao, chƣa đủ tính răn đe. Bởi vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)” làm đề tài tốt nghiệp cao học Luật. Việc nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về Trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng là việc làm hết sức cần thiết. Từ đó, có thể đƣa ra các giải pháp hoàn thiện về kỹ thuật lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án hình sự về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và mang tính cấp thiết, góp phần nâng cao chất lƣợng giải quyết vụ án hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu Trách nhiệm hình sự là một vấn đề đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu dƣới nhiều góc độ khác nhau. Ở nƣớc ta tính đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về TNHS đƣợc công bố, đáng chú ý là các công 2 trình nhƣ: Trách nhiệm hình sự và hình phạt do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (2001) chủ biên, NXB. CAND, Hà Nội; Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự của các tác giả GS.TSKH. Lê Cảm (chủ biên), TS. Phạm Mạnh Hùng, TS. Trịnh Tiến Việt (2005), NXB. Tƣ Pháp, Hà Nội; Tội phạm và TNHS của tác giả TS. Trịnh Tiến Việt (2013), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Luận án tiến sĩ Chế định TNHS theo luật hình sự Việt Nam của tác giả Phạm Mạnh Hùng, bảo vệ tại Trƣờng đại học Luật Hà Nội năm 2004; Về TNHS của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt của GS.TSKH. Lê Cảm, tạp chí Luật học, số 4/2012; Chế định miễn TNHS trong luật hình sự Việt Nam của tác giả PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, tạp chí Khoa học, số 4/2017; Về chế định miễn TNHS trong BLHS năm 1999 của PGS.TS. Phạm Hồng Hải, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/2001; Chương 12: Trách nhiệm hình sự và hình phạt, giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập I) của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2015… Trong đó, luận án tiến sĩ Chế định TNHS theo luật hình sự Việt Nam của tác giả Phạm Mạnh Hùng, bảo vệ tại Trƣờng đại học Luật Hà Nội năm 2004 là một công trình nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm hình sự khá đầy đủ, toàn diện. Các nghiên cứu về các tội xâm phạm sở hữu trong đó có tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản đáng chú ý nhƣ: Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu của TS. Lê Đăng Doanh (2013), NXB. Tƣ pháp, Hà Nội, trong đó, tác giả phân tích các dấu hiệu đặc trƣng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đồng thời phân tích các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên thực tế mà còn có nhiều ý kiến về vấn đề định tội danh, qua đó đƣa ra quan điểm của cá nhân đối với từng vụ việc; Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, PGS.TS. Cao Thị Oanh (2015), NXB. Tƣ Pháp, Hà Nội, trong đó, tác giả đã đƣa ra một số vấn đề vƣớng mắc về thực tiễn định tội danh, định khung hình phạt và quyết định hình phạt đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài 3 sản dựa trên kết quả khảo sát 100 bản án về tội lùa đảo chiếm đoạt tài sản trên cả nƣớc, đồng thừi kiến nghị các giải pháp khắc phục cụ thể; Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999 của tác giả Nguyễn Mai Bộ (2001), NXB. CAND, Hà Nội; Cần xác định hành vi chiếm đoạt trong trường hợp không có khả năng trả nợ của tác giả Đinh Văn Quế, tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/1995; Bàn về yếu tố chiếm đoạt tài sản trong các tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản của tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, tạp chí Kiểm sát, số 9, tháng 5/2012; Các tội xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1999 của tác giả Trƣơng Quang Vinh, tạp chí Luật học, số 4/2000; Thực trạng tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản có sử dụng công nghệ cao và một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm này ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập WTO của tác giả Lê Đăng Doanh; các luận văn, luận án nhƣ: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, những vấn đề lí luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ, Trần Thị Phƣơng Hiền, 2007; Đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ; Đấu tranh phòng chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở Việt Nam, luận án tiến sĩ, Lê Đăng Doanh, 2008; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Nam Định, luận văn thạc sĩ, Nguyễn Tiến Dũng, 2014… Các công trình này nghiên cứu vấn đề TNHS và về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản một cách độc lập trên nhiều góc độ. Tuy nhiên, có thể nói rằng chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và cụ thể về “Trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự” với tƣ cách là một đề tài độc lập, chuyên biệt. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về đề tài này là cần thiết. 3. Mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích, yêu cầu: làm rõ một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề 4 lý luận và thực tiễn các quy định và việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự để từ đó tìm ra những điểm còn tồn tại, bất cập và đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện về mặt lập pháp có liên quan đến trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó nâng cao hiệu qua áp dụng nó trong thực tiễn và góp phần nâng cao chất lƣợng giải quyết các vụ án hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nhiệm vụ: + Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm về xâm phạm sở hữu; + Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; + Đánh giá các quy định hiện hành về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đƣa ra những ƣu điểm và nhƣợc điểm trong các quy định này; + Đánh giá thực tiễn việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam; + Đƣa ra giải pháp hoàn thiện các quy định của Luật hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và giải pháp nâng cáo hiệu quả thực tiễn áp dụng những quy định đó của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đối tượng: đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Bộ luật hình sự về trách nhiệm hình sự, về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 100 bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2016. Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về trách nhiệm hình sự của tội lừa 5 đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự một cách tổng thể trong phạm vi chung của các giai đoạn tố tụng ở Việt Nam từ năm 1985 đến nay. Nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự và một số nƣớc về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đánh giá thực tiễn việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam trong khoảng thời gian 05 năm trở lại đây. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, logic học, tội phạm học, điều tra hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý. Cơ sở sự thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật hình sự và việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các cơ quan THTT cũng nhƣ các văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hƣớng dẫn về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự. Phƣơng pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phƣơng pháp: hệ thống, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Luận văn phát hiện những điểm còn bất cập trong luật hình sự Việt 6 Nam về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Những thiếu sót, hạn chế trong hoạt động của các cơ quan THTT hình sự Việt Nam liên quan đến trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tìm ra những nguyên nhân của những thiếu sót, hạn chế đó. Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những quy định của luật TTHS Việt Nam về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của luật TTHS về đối tƣợng chứng minh nói chung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể đƣợc khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của các cơ quan THTT hình sự và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi BLTTHS và một số văn bản pháp luật khác có liên quan đến trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản để hoàn thiện hơn. Về mặt thực tiễn: Các cơ quan THTT có thể khai thác vận dụng những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của mình trong việc áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 2 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lí luận về trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Chương 2: Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khái niệm, đặc điểm, cơ sở, các biện pháp cưỡng chế và trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp đặc biệt 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở, các biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp đặc biệt 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm hình sự Theo đại từ điển tiếng Việt, thuật ngữ trách nhiệm đƣợc hiểu là: “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình” [47, tr.1621]. Trong thực tiễn đời sống xã hội chính trị và pháp lí, thuật ngữ “trách nhiệm” thƣờng đƣợc hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận của một ngƣời trƣớc ngƣời khác, trƣớc xã hội hoặc nhà nƣớc. Ví dụ: trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ môi trƣờng sống, trách nhiệm của bố mẹ trong chăm sóc, bảo vệ và giáo dục con cái… Thứ hai, trách nhiệm là hậu quả bất lợi mà một ngƣời phải gánh chịu trƣớc ngƣời khác, trƣớc xã hội hoặc Nhà nƣớc do đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó [19, tr.8]. Trách nhiệm pháp lí trong đó có trách nhiệm hình sự đƣợc dùng theo nghĩa thứ hai. Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau trong khoa học luật hình sự về khái niệm “trách nhiệm hình sự”, có thể kể đến một vài quan điểm nhƣ sau: Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, là trách nhiệm của ngƣời khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà ngƣời đó đã thực hiện [25, tr.14]; 8 Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ ngƣời đã gây ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trƣớc Nhà nƣớc [45, tr.41]; Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lí, bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cƣỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tƣ pháp) và chịu mang án tích [18, tr.21]; Trách nhiệm hình sự là sự phản ứng của Nhà nƣớc đối với ngƣời thực hiện tội phạm, thể hiện tập trung ở sự áp dụng hình phạt với chủ thể đó [40, tr.157]. Các quan điểm đó tuy có sự khác nhau về một số nội dung nhƣ thời điểm bắt đầu trách nhiệm hình sự, các yếu tố của trách nhiệm hình sự… nhƣng tựu chung lại, đa số các quan điểm đều phản ánh thống nhất một số đặc điểm của trách nhiệm hình sự là: Thứ nhất, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lí của việc thực hiện hành vi phạm tội. Hậu quả này chỉ phát sinh khi có ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm hoặc không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự yêu cầu phải thực hiện. Điều này có nghĩa, không có việc thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm thì không thể có trách nhiệm hình sự. Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, để quy kết hành vi nào đó là tội phạm và buộc ngƣời thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự, ngƣời áp dụng pháp luật phải trên cơ sở đối chiếu hành vi đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, chứ không đƣợc áp đặt theo ý thức chủ quan, bất chấp những quy định của pháp luật. Nếu trong quá trình áp dụng pháp luật, ngƣời áp dụng pháp luật xác định đƣợc hành vi của một ngƣời thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm 9 đƣợc Bộ luật hình sự quy định thì mới có thể buộc ngƣời thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự [19, tr.17]. Thứ hai, trách nhiệm hình sự chỉ có thể được xác định bằng trình tự đặc biệt theo quy định của pháp luật mà các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải thực hiện. Việc xác định các căn cứ để có thể áp dụng trách nhiệm hình sự là kết quả của cả một quá trình điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tố tụng có thẩm quyền. Quá trình này đƣợc thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền và phải tuân theo các quy định của luật Tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục… Song, cần lƣu ý rằng, “quá trình giải quyết vụ án cùng với việc áp dụng các biện pháp đó của cơ quan tiến hành tố tụng không phải là quá trình thực hiện trách nhiệm hình sự mà chỉ là quá trình xác định những điều kiện cần và đủ” [19, tr.31] để có thể truy tố ngƣời phạm tội và buộc tội họ trƣớc Tòa án. Thứ ba, trách nhiệm hình sự được biểu hiện tập trung nhất ở việc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt. Trách nhiệm hình sự bao gồm hai nội dung cơ bản là ngƣời phạm tội phải bị kết tội (bởi cơ quan có thẩm quyền duy nhất là Tòa án) và ngƣời phạm tội phải chịu biện pháp cƣỡng chế của TNHS bao gồm hình phạt và các biện pháp tƣ pháp. Trong đó, hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nƣớc nhằm tƣớc bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của ngƣời phạm tội. “Trách nhiệm hình sự có nội hàm rộng hơn hình phạt. Hình phạt chỉ là một dạng đặc trưng, điển hình và phổ biến do Tòa án áp dụng trên thực tế của trách nhiệm hình sự” [46, tr.227]. Trong nhiều trƣờng hợp, ngƣời phạm tội đƣợc miễn hình phạt. Điều đó không đồng nghĩa với việc ngƣời phạm tội không có trách nhiệm hình sự, bởi họ vẫn bị Tòa án kết tội, mà chỉ là ngƣời phạm tội trong trƣờng hợp đó không phải chịu biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nƣớc do đã thực hiện hành vi phạm tội mà thôi. 10 Thứ tư, trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu là trách nhiệm trước nhà nước chứ không phải với ngƣời mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Trách nhiệm hình sự chỉ đƣợc thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, đó là Nhà nƣớc và ngƣời phạm tội. Trong đó “Nhà nước, mà đại diện cho Nhà nước là các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền – có quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội” [46, tr.225] có nghĩa vụ chỉ đƣợc xử lí ngƣời phạm tội dựa trên các căn cứ và trong các giới hạn của pháp luật quy định: Ngƣời phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tƣớc bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do nhất định, nhƣng đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu sự tuân thủ nghiêm minh, đầy đủ và thực hiện đúng quy định của pháp luật từ phía nhà nƣớc, từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền và từ các cán bộ thực thi pháp luật [46, tr.226]. Thứ năm, trách nhiệm hình sự phải được phản ánh trong bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Nhƣ đã trình bày ở nội dung trên, căn cứ vào kết quả điều tra và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án sẽ ra phán quyết về việc có kết tội ngƣời bị truy tố hay không. Nếu có đủ cơ sở, Tòa án sẽ ra bản án kết tội đối với ngƣời đó. Bản án kết tội của Tòa án chính là sự thể hiện của trách nhiệm hình sự áp dụng đối với ngƣời phạm tội. Việc thực hiện trách nhiệm hình sự từ phía nhà nƣớc và việc phải chịu trách nhiệm hình sự từ phía ngƣời phạm tội chỉ bắt đầu khi bản án kết tội của Tòa án đối với ngƣời bị kết tội có hiệu lực pháp luật. Nhƣ vậy, từ các phân tích trên, tác giả xin đƣa ra khái niệm trách nhiệm hình sự nhƣ sau: trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, là hậu quả pháp lí bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu trước nhà nước do việc 11 người đó thực hiện tội phạm, được thể hiện ở việc người phạm tội phải chịu bị kết tội bởi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án và phải chịu các biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (bao gồm hình phạt và các biện pháp tư pháp). 1.1.1.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự Cơ sở của TNHS là một trong những vấn đề quan trọng của TNHS. Cơ sở của TNHS bao gồm cơ sở triết học của TNHS, cơ sở pháp lí của TNHS và cơ sở thực tế của TNHS. Trong đó, vấn đề cơ sở triết học của TNHS nhằm giải quyết câu hỏi “dựa trên cơ sở nào mà xã hội có thể buộc con người phải chịu TNHS về hành vi của họ?” [16, tr.219]. Còn vấn đề cơ sở pháp lí của TNHS nhằm trả lời câu hỏi “căn cứ vào đâu mà Nhà nước có thể buộc con người phải chịu TNHS về hành vi của mình” [16, tr.219]. Về cơ sở triết học của TNHS: xã hội có thể buộc con ngƣời phải chịu TNHS về hành vi của họ là bởi hành vi của con ngƣời vừa có tính tất yếu vừa có tính tự do. Tính tất yếu của hành vi của con ngƣời thể hiện ở chỗ hành vi đƣợc hình thành không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời những điều kiện xã hội mà đƣợc hình thành một cách có quy luật. Nó là kết quả của sự tác động qua lại giữa những điều kiện xã hội và con ngƣời. Nhƣng, điều đó không có nghĩa hành vi của con ngƣời trong một tình huống cụ thể là tất yếu, là duy nhất, là không thể tránh đƣợc. Mọi xử sự của con ngƣời đều chịu sự chi phối của quy luật khách quan nhƣng con ngƣời, nhờ hoạt động ý thức, có khả năng nhận thức đƣợc quy luật là lợi dụng quy luật thực hiện mục đích của mình. Đó là sự tự do của con ngƣời [16, tr.138]. Lí giải cụ thể hơn: Các nguyên nhân bên ngoài tác động đến con ngƣời không phải một cách máy móc mà phải thông qua sự suy xét (lí trí) và sự quyết định (ý chí) của họ. Để thỏa mãn bất kì nhu cầu nào trong 12 đời sống cũng đều có nhiều biện pháp giải quyết và việc lựa chọn biện pháp nào là kết quả của hoạt động lí trí và ý chí. Chính vì vậy, trong những điều kiện khách quan giống nhau, mỗi ngƣời có thể lựa chọn biện pháp xử sự khác nhau. Con ngƣời khi đã có quyền lựa chọn là có tự do [16, tr.139]. Nhƣ vậy, tự do là cơ sở triết học của trách nhiệm và tránh nhiệm chỉ đặt ra cho con ngƣời khi họ có tự do. Cơ sở pháp lí của TNHS: Theo Điều 2 BLHS năm 1999 thì “chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Để kết luận hành vi đã đƣợc thực hiện của ngƣời nào đó có phải là tội phạm không và là tội gì, hình phạt áp dụng đối với họ ra sao, cần phải xác định hành vi đó thỏa mãn những dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể chƣa? Nếu đã thỏa mãn tức là ngƣời ấy đã thực hiện tội phạm cụ thể đƣợc quy định trong BLHS và ngƣời thực hiện hành vi này phải chịu TNHS. Nhƣ vậy, “cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự, là điều kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự” [16, tr.219]. Cơ sở thực tế của TNHS: tội phạm là sự kiện pháp lí làm phát sinh TNHS. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự [16, tr.50). Cơ sở thực tế của trách nhiệm hình sự “là việc thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được luật hình sự quy định” [19, tr.74]. Trên thực tế, để có thể xác định một hành vi nào đó là hành vi phạm tội để áp dụng trách nhiệm hình sự đối với ngƣời thực hiện hành vi, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định đƣợc sự thỏa mãn, sự phù hợp của hành vi đã thực hiện với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm đƣợc quy định trong luật hình sự. 1.1.1.3. Các biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự Các biện pháp cƣỡng chế của trách nhiệm hình sự bao gồm hình phạt và biện pháp tƣ pháp. Cụ thể: 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan