Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh quảng ...

Tài liệu Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh quảng nam

.DOC
87
475
100

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TỪ VĂN HOÀNG LĨNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TỪ VĂN HOÀNG LĨNH TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 838.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỂN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn này bảo đảm độ tin cậy, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn kế thừa từ các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ. Tác giả luận văn Từ Văn Hoàng Lĩnh MỤC LỤC MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM..................................................................................................................................................7 1.1. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội............................................7 1.2. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước trên thế giới..........................................................................16 CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM...................22 2.1. Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội theo Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành................................................................................................................................22 2.2. Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.............................................................................................................51 2.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập từ thực tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam...........58 CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG........................................................................................................................61 3.1. Một số đề xuất tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.....................................................61 3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng trách nhiệm hình sự với người dưới 18 tuổi...........................................................................................................................................................69 KẾT LUẬN...............................................................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Bộ luật Hình sự BLHS Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 BLHS 1999 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 BLHS 2015 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 BLTTHS 2015 Tòa án nhân dân TAND Trách nhiệm hình sự TNHS DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Thống kê số lượng người 18 tuổi phạm tội theo nhóm tuổi và giới tính trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.............................................................................................................52 Bảng 2.2: Các nhóm tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam................................................................................................................................................53 Bảng 2.3: Tỷ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.........................................................................54 Bảng 2.4: Các hình phạt áp dụng với người dưới 18 tuổi phạm tội của TAND trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.............................................................................................................55 Bảng 2.5: Các biện pháp tha miễn TNHS và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.................................................57 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và công tác tổ chức, thực thi pháp luật ở nước ta vẫn còn một số điểm hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động điều tiết xã hội của pháp luật. Bên cạnh đó, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường cũng gây nên những ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức, tiến bộ xã hội, đặc biệt là đối với nhóm đối tượng thanh thiếu niên, những người vẫn còn đang trong quá trình phát triển, hoàn thiện về thể chất, tâm sinh lý cũng như nhân cách sống. Một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên trở nên hư hỏng, không lo tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao năng lực bản thân mà chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, có lối hành xử côn đồ, hung hãn. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy chủ thể thực hiện tội phạm hiện nay không chỉ có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi mà còn tinh vi, xảo quyệt trong hành vi phạm tội. Luật hình sự với tư cách là một trong những ngành luật ra đời sớm nhất, mang nhiệm vụ rất quan trọng trong hệ thống pháp luật đó là bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội. Chính sách pháp luật hình sự của nước ta trong việc truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ nhận thức được hành vi sai trái cũng như rèn luyện, tu dưỡng bản thân trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, góp sức mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. Vì vậy, Bộ luật hình sự nước ta đã dành một chương riêng để quy định về những vấn đề đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Điều này đã thể hiện sự quan tâm, tư tưởng nhân đạo, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng và thanh thiếu niên nói chung phù hợp với xu hướng quốc tế về yêu cầu bảo vệ ngày một tốt hơn quyền và lợi ích của người dưới 18 tuổi. Trong bối cảnh BLHS 2015 vừa ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lập pháp hình sự khi đề cao hơn nữa hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm 1 tội mà đặc biệt là người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Cần thiết có một nghiên cứu khoa học mang tính tổng hợp đối với các quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như sự đánh giá về mặt thực tiễn thi hành các quy định của BLHS 2015 để kịp thời có phương hướng, giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì những lý do đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, ở các mức độ khác nhau đã có những công trình khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này hoặc trong các giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận khi nghiên cứu về vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc về TNHS. Tiêu biểu, có các công trình nghiên cứu sau đây: Đối với các sách bình luận, sách chuyên khảo, sách giáo trình có các công trình nghiên cứu sau: “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội” trong giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung) của Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân; “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội” trong giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần chung) của Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh; “Chương XVI: Trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội” trong sách giáo trình Luật hình sự Việt Nam của tập thể tác giả do GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên. Đối với các công trình dưới dạng bài viết được đăng trên tạp chí khoa học pháp lý có thể kể đến các công trình như: “Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật hình sự” của TS. Lê Thị Sơn đăng trên tạp chí Luật học số 3/2015; “Hoàn thiện những quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội” của Ths. Cao Thị Oanh đăng trên tạp chí Luật học số 10/2007; “Quy định về hình phạt và tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị” của PGS.TS Dương Tuyết Miên đăng trên tạp chí Luật học số 3/2014. 2 Một số đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng đã khai thác, nghiên cứu các khía cạnh xung quanh vấn đề TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội như: luận văn “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của Dương Thị Ngọc Thương, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; “Các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” của Trần Hồng Nhung, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2017; “Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Tiến Hoàn, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013; “Chính sách hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: khía cạnh so sánh” của Ngô Thị Tuyết Thanh, Học viện khoa học xã hội, năm 2018; luận án “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Minh Đức, Học viện khoa học xã hội, năm 2016. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã góp phần không nhỏ vào hệ thống lý luận khoa học pháp lý về TNHS nói chung cũng như về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Tuy nhiên, đa số các công trình kể trên vẫn chưa đề cập một cách hệ thống, toàn diện về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhất là trong bối cảnh BLHS vừa được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/1/2018. Chính vì vậy, việc nghiên cứu TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội với sự thay đổi trong quy định pháp luật hình sự trong tương quan với các quy định về TNHS của người phạm tội nói chung cũng như những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật quốc tế về tư pháp người chưa thành niên là một vấn đề mới mà tác giả mong muốn giải quyết. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng đã có sự kế thừa, tiếp thu có chọn lọc nhiều tri thức từ các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên trong việc hoàn thiện nghiên cứu khoa học của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam, bên cạnh đó, trên cơ sở phân tích, đánh giá số liệu thống kê từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến 3 năm 2018, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong thực tiễn từ đó đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài phải giải quyết các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống về trách nhiệm pháp lý, TNHS của người phạm tội nói chung và TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. Thứ hai, nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong đó làm rõ các nguyên tắc xử lý, các quy định về hình thức cũng như nội dung của TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như hình phạt, biện pháp tư pháp, án tích,… Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua số liệu được thu thập từ thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Từ đó, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi. Thứ tư, đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và một số giải pháp góp phần bảo đảm áp dụng đúng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn của TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn có một số giới hạn về phạm vi nghiên cứu như sau: Thứ nhất, tác giả nghiên cứu các quy định về TNHS của người dưới 18 tuổi 4 phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam trong sự so sánh với các quy định trong Bộ luật hình sự các nước Liên Bang Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và các văn bản pháp lý của Liên Hợp Quốc. Thứ hai, tác giả tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Nam thông qua số liệu thống kê từ thực tiễn xét xử trong vòng 5 năm từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề thanh niên, giáo dục thanh niên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,… nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên đề cập đến việc làm sáng tỏ một cách toàn diện và có hệ thống về vấn đề TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong bối cảnh BLHS vừa được ban hành năm 2015 và sửa đổi, bổ sung năm 2017. Qua đó, là cơ sở cho việc nhận thức một cách đúng đắn về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh việc phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, luận văn còn nghiên cứu quy định của pháp luật quốc tế cũng như pháp luật một số nước qua đó có sự đánh giá một cách toàn diện về TNHS đối với người dưới 18 tuổi. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Về mặt thực tiễn, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, quy định của pháp luật quốc tế, quy định của một số nước, và thực tiễn áp dụng trên bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế và 5 đề xuất các giải pháp liên quan đến công tác lập pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với người dưới 18 tuổi và một số giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Qua đó, góp phần bảo vệ quyền lợi của người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng để tham khảo trong quá trình tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Danh mục các chữ viết tắt, Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua. Chương 3: Hoàn thiện các quy định của BLHS về TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng TNHS. 6 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái quát chung về trách nhiệm hình sự của người phạm tội 1.1.1.1. Trách nhiệm pháp lý Trách nhiệm pháp lý là một trong những vấn đề quan trọng của lý luận về pháp luật. Trong các sách báo và tài liệu khoa học pháp lý ở Việt Nam, trách nhiệm pháp lý thường được gắn với vi phạm pháp luật, gắn liền với yếu tố lỗi và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng. Tác giả cho rằng, cách hiểu này vẫn chưa hoàn toàn bao quát hết thực tiễn phong phú của đời sống pháp lý. Vi phạm pháp luật chỉ là một trong các “nguồn” phát sinh của trách nhiệm pháp lý. Trên thực tế, trách nhiệm pháp lý không chỉ đến từ hành vi vi phạm pháp luật mà còn có nguồn gốc từ các quan hệ pháp luật khác như giao dịch dân sự, thương mại, quan hệ hôn nhân - gia đình,…Xã hội càng phát triển thì các mối quan hệ pháp luật càng phát triển, và do đó nguồn của trách nhiệm pháp lý cũng ngày càng mở rộng. Tác giả đồng ý với khái niệm trách nhiệm pháp lý mà TS Nguyễn Văn Quân đưa ra, theo đó “trách nhiệm pháp lý là một liên hệ, ràng buộc pháp lý giữa các chủ thể pháp luật. Theo đó, một bên có nghĩa vụ thực hiện một hành vi nào đó, bảo đảm cho một việc gì đó, thực hiện cam kết của mình, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của bên liên quan” [27, tr.5]. 1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm cơ bản của trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội Trong khoa học pháp lý, TNHS của người phạm tội là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, đặc biệt là trong những năm gần đây tại Việt Nam. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nhận thức thống nhất về TNHS trong khoa học luật hình sự. Theo quan điểm của GS.TSKH Đào Trí Úc thì TNHS của người phạm tội là “hậu quả pháp lý của việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người đã gây 7 ra tội phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước Nhà nước” [39, tr.41]. GS.TSKH Lê Cảm cho rằng TNHS của người phạm tội là “hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của nhà nước do luật hình sự quy định” [6, tr. 122]. GS.TS Đỗ Ngọc Quang lại cho rằng TNHS của người phạm tội là “một dạng trách nhiệm pháp lý, là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó đã thực hiện” [26, tr.41]. GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và GS.TS Lê Thị Sơn thì cho rằng TNHS của người phạm tội là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả bất lợi về hành vi phạm tội của mình” và là “một dạng trách nhiệm pháp lý bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích” [12, tr. 281-282]. Quan điểm của Đại học Luật Hà Nội cho rằng TNHS của người phạm tội là “trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lý bất lợi về hành vi phạm tội của mình” [38, tr. 245]. Quan điểm khác cho rằng TNHS của người phạm tội là “nghĩa vụ của một người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về hành vi phạm tội của mình thể hiện ở việc người phạm tội bị tước đoạt hoặc bị hạn chế quyền và lợi ích nhất định theo quy định của pháp luật” [13, tr. 316]. Nhìn chung, các quan điểm nêu trên đều thống nhất cho rằng TNHS của người phạm tội là hậu quả pháp lý phải chịu của việc thực hiện tội phạm và là một dạng trách nhiệm pháp lý. Liên quan đến nội dung cụ thể của TNHS của người phạm tội cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất. Trong số các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước có tính chất pháp lý hình sự áp dụng đối với người phạm tội thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế chủ yếu. Tuy nhiên, TNHS là khái niệm rộng hơn khái niệm hình phạt. TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, còn hình phạt chỉ là một trong những biện pháp cưỡng chế thể hiện nội dung của TNHS. Chính vì thế, quan điểm coi TNHS của người phạm tội chỉ là trách nhiệm của người phải chịu 8 biện pháp cưỡng chế của Nhà nước là hình phạt là không phù hợp. Quan điểm coi TNHS của người phạm tội là nghĩa vụ của một người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về hành vi phạm tội của mình theo tác giả cũng không phù hợp. Về bản chất thì nghĩa vụ pháp lý hình sự và trách nhiệm pháp lý hình sự là khác nhau. Khi đề cập đến nghĩa vụ pháp lý của một người là đề cập đến khả năng người đó có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý, còn khi nói đến trách nhiệm pháp lý hình sự của một người chính là nói đến việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý trái với ý chí của người có nghĩa vụ. TNHS của người phạm tội, với tính cách là một dạng của trách nhiệm pháp lý, không phải là nghĩa vụ mà một người có thể phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc người đó thực hiện tội phạm mà chính là việc phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của người phạm tội trước Nhà nước do việc người đó đã thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, theo quan điểm của tác giả thì, nếu không có bản án kết tội có hiệu lực của Tòa án thì không thể nói đến TNHS đối với một người. Tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 13 BLTTHS 2015 đã khẳng định một nguyên tắc quan trọng nhằm bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp hình sự - nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo đó, “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Bản án kết tội có hiệu lực do Tòa án tuyên chính là cơ sở pháp lý xác nhận người bị buộc tội chính thức bị coi là có tội. Vì vậy, có thể nói, TNHS được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa án và TNHS mà một người phải chịu trước Nhà nước chỉ có thể được xác nhận một cách chính thức khi bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, tác giả cho rằng, để xác định khái niệm TNHS của người phạm tội trước hết nhận biết các đặc điểm vốn có của nó. Qua nghiên cứu các quan điểm nêu trên về khái niệm TNHS của người phạm tội, đồng thời căn cứ vào các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến việc giải quyết vấn đề TNHS của người phạm tội cũng như thực tiễn áp dụng các quy phạm ấy. Chúng ta nhận thấy TNHS của người phạm tội có các đặc điểm sau: Thứ nhất, TNHS của người phạm tội là hậu quả pháp lý của việc thực hiện 9 tội phạm. Thứ hai, TNHS là một dạng trách nhiệm nghiêm khắc nhất trong các trách nhiệm pháp lý. Thứ ba, TNHS của người phạm tội là trách nhiệm cá nhân của người phạm tội trước Nhà nước. Thứ tư, TNHS của người phạm tội được xác định bằng trình tự đặc biệt được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự. Thứ năm, TNHS được phản ánh trong bản án hoặc quyết định có hiệu lực của Tòa án. Như vậy, từ sự tìm hiểu các quan điểm khác nhau về TNHS của người phạm tội kết hợp với việc nhận thức một số vấn đề mang tính lý luận có liên quan đến TNHS của người phạm tội, theo tác giả, khái niệm TNHS của người phạm tội có thể được định nghĩa như sau: “Trách nhiệm hình sự của người phạm tội là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm mà người phạm tội phải chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự trước Nhà nước gồm bản án kết tội của Tòa án, hình phạt mà Tòa án quyết định và án tích.” 1.1.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự của người phạm tội Việc tìm hiểu về cơ sở của TNHS đòi hỏi chúng ta phải phân tích dưới góc độ cơ sở triết học và cơ sở pháp lý. - Cơ sở triết học Nghiên cứu về cơ sở triết học của TNHS là trả lời câu hỏi: dựa trên cơ sở nào mà Nhà nước có quyền buộc một người phải chịu TNHS về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện? Trả lời cho câu hỏi này đòi hỏi phải giải quyết vấn đề triết học về tự do ý chí, về mối quan hệ giữa tính tất yếu và tính tự do trong hành vi của con người. TNHS của người phạm tội chỉ đặt ra đối với hành vi của con người và nhằm điều chỉnh hành vi của con người. Hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hoặc không hành động. Những ý tưởng, ý nghĩ, đặc tính cá nhân của con người chưa được biểu hiện ra dưới dạng hành vi cụ thể thì không phải chịu sự điều chỉnh của 10 pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Mối quan hệ giữa tính tất yếu và tính tự do trong hành vi của con người thể hiện ở sự tương tác giữa các điều kiện khách quan bên ngoài với con người. Tính tất yếu trong hành vi của con người thể hiện ở chỗ, hành vi của con người được hình thành và thực hiện một cách có quy luật, là kết quả của sự tác động của các điều kiện tự nhiên, xã hội đến con người. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con người lệ thuộc tuyệt đối vào hoàn cảnh khách quan. Hành vi phạm tội là kết quả của sự suy xét của lý trí và sự quyết định của ý chí. Vì vậy, trong cùng một hoàn cảnh, cùng chịu sự tác động như nhau của điều kiện bên ngoài, nhưng mọi người lại có cách xử sự khác nhau. Tính tự do trong hành vi thể hiện ở chỗ tuy bị hoàn cảnh khách quan tác động đến nhưng con người không mất đi khả năng tự do lựa chọn hành vi của mình. Cơ sở quy kết TNHS đối với người phạm tội chính là ở chỗ họ đã thể hiện tự do ý chí trong việc lựa chọn xử sự trái pháp luật trong khi có thể lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. - Cơ sở pháp lý Cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội là căn cứ có tính chất bắt buộc chung do luật hình sự quy định và phải dựa vào đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới có thể đặt vấn đề TNHS của người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam chưa có quan điểm thống nhất về cơ sở pháp lý của TNHS. Có quan điểm cho rằng “cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần và đủ của TNHS” [38, tr.246]. Quan điểm khác cho rằng cơ sở pháp lý của TNHS là “việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm” [5, tr.133]. Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng cơ sở pháp lý của TNHS chính là cấu thành tội phạm. Ở nước ta, cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội được ghi nhận tại khoản 1 Điều 2 BLHS 2015: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Quy định này thể hiện tinh thần của nguyên tắc pháp chế XHCN, theo đó, những căn cứ là cơ sở của TNHS của người 11 phạm tội, của việc áp dụng hình phạt hoặc miễn hình phạt cũng như các hình thức TNHS khác với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội đều phải do pháp luật hình sự quy định. Nói cách khác, quy định của pháp luật hình sự về một hành vi bị coi là tội phạm là cơ sở pháp lý của TNHS của người phạm tội. 1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Trong Bộ luật hình sự hiện hành, vấn đề TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội được nhà làm luật quy định trong một chương riêng thuộc Phần chung – Chương XII. Trong đó quy định các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội; các biện pháp phi hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (bao gồm các biện pháp giám sát, giáo dục và biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng); vấn đề hình phạt, quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các vấn đề khác có liên quan. Thuật ngữ người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm. TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội là TNHS người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm, hành vi của họ xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đây là đối tượng mang những đặc điểm về thể chất và tâm sinh lý đặc biệt, đòi hỏi phải áp dụng TNHS với họ thông qua những trình tự, thủ tục tố tụng nhất định. Bên cạnh những đặc điểm nói chung của TNHS của người phạm tội thì TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội còn mang những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, đây là dạng TNHS đặc biệt áp dụng đối với người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm, được quy định trong một chương riêng, thể hiện rõ nét tính nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng cũng như sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước ta đối với nhóm chủ thể này. Thứ hai, phạm vi chịu TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội hẹp hơn so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Ngoài các căn cứ miễn TNHS đối với người phạm tội thì người dưới 18 tuổi phạm tội còn được miễn TNHS đối với một số tội phạm nếu 12 đáp ứng các điều kiện luật định. Bên cạnh đó, về loại hình phạt có thể áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng hẹp hơn so với người phạm tội từ đủ 18 tuổi. Các hình phạt tù chung thân, tử hình, các hình phạt bổ sung không thể được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Các hình phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn tuy được phép áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng cũng tùy vào loại tội phạm mà họ thực hiện. Thứ ba, TNHS áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội về mức độ nghiêm khắc có giảm nhẹ hơn so với người đủ 18 tuổi phạm tội. Biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và các biện pháp giám sát, giáo dục đều là những biện pháp ít hà khắc hơn và được ưu tiên áp dụng thay vì áp dụng hình phạt. Các hình phạt nhằm cách ly hoàn toàn người phạm tội ra khỏi xã hội như tù chung thân và tử hình đều không áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khung hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng thấp hơn so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Thứ tư, TNHS áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mang ý nghĩa giáo dục, cải tạo là chính. Việc thu hẹp phạm vi chịu TNHS cũng như mức độ nghiêm khắc trong việc áp dụng TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm giảm tính trừng trị và tăng tính giáo dục, cải tạo qua đó giúp họ trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội. Dựa trên nền tảng khái niệm TNHS của người phạm tội và những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau: “Trách nhiệm hình sự của người dưới 18 tuổi phạm tội là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tại thời điểm thực hiện tội phạm phải chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự trước Nhà nước gồm bản án kết tội của Tòa án, hình phạt mà Tòa án quyết định và án tích.” 1.1.3. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Nghiên cứu các đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội trong mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố độ tuổi, môi trường, gia định, nhà trường 13 và xã hội, có thể rút ra một số đặc thù sau: Thứ nhất, từ những hạn chế về mặt thể chất cũng như tâm sinh lý của lứa tuổi này, có thể thấy năng lực TNHS của người dưới 18 tuổi phạm tội hạn chế hơn so với người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Người dưới 18 tuổi là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm sinh lý. Ở giai đoạn này, sự mất cân bằng bên trong cơ thể diễn ra do các bộ phận phát triển không đồng đều. Đồng thời, tuyến nội tiết hoạt động mạnh gây ra sự hoạt động thiếu ổn định của hệ thần kinh, dễ bị xúc động mạnh, có những phản ứng nóng nảy vô cớ cũng như hành vi bất thường. Đôi khi, chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt mà họ có những hành vi thái quá, thiếu kiềm chế dẫn đến hậu quả đáng tiếc. Bên cạnh đó, cảm nhận về “tính người lớn” của bản thân cũng chính là nét tâm lý đặc trưng của nhóm đối tượng này. Yếu tố tâm lý này tạo nên khoảng cách trong hoạt động giao tiếp giữa họ với cha mẹ, khiến họ có nhu cầu giao tiếp cao hơn đối với bạn đồng trang lứa. Những phát triển mạnh mẽ về thể chất và chức năng sinh lý càng khiến họ có ấn tượng sâu sắc rằng bản thân đã trưởng thành và đòi hỏi nhu cầu độc lập, muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định theo ý kiến riêng. Tuy nhiên, khi nhu cầu độc lập phát triển theo hướng thái quá, dễ dẫn đến các hành vi như ngang bướng, bảo thủ, dễ tự ái, khoe khoang, phô trương, hành động mang tính phiêu lưu, mạo hiểm. Không giống với sự phát triển như “vũ bão” về mặt thể chất cũng như tâm lý của nhóm đối tượng này, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ vẫn còn quá ít ỏi đặc biệt là nhận thức về pháp luật. Dẫn đến dễ bị kích động, dễ bị lôi kéo vào các hoạt động phạm pháp. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng bản thân họ lại không biết mình phạm tội, không nhận thức được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình mang lại. Một số còn cho rằng hành vi của mình là hợp pháp, là tự bảo vệ quyền lợi của bản thân, hay góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Nhìn chung, khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của người dưới 18 tuổi phạm tội hạn chế hơn so với người đã thành niên, vì thế, không thể coi người dưới 18 tuổi phạm tội có năng lực TNHS toàn phần như người từ đủ 18 tuổi phạm tội. Mặt khác, tuy người dưới 18 tuổi dễ bị dụ dỗ, kích động tham gia thực hiện tội 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan