Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người qua thực tiễ...

Tài liệu Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người qua thực tiễn của tỉnh hải dương tt

.PDF
27
80
118

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HUY TÀI TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHOẺ CỦA CON NGƢỜI TỪ THỰC TIỄN CỦA TỈNH HẢI DƢƠNG Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 9.38.01.04 TOM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019 Công trình được hoàn hành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn Phản biện 1: PGS.TS. Trần Đình Nhã Phản biện 1: GS.TS Đƣờng Minh Giới Phản biện 1: PGS.TS. Đỗ Thị Phƣợng Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Học viện họp tại ............................................................................ vào hồi.............giờ........ phút, ngày........... tháng...... năm 2019 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia Thư viện Học viện Khoa học xã hội MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Điều 3 Tuyên ngôn nhân quyền thế giới ngày 10/12/1948, đã quy định: "Mọi người đều có quyền sống, được tự do và bảo đảm an ninh". Quyền được bảo hộ về sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con người, của công dân. Điều 20 Hiến pháp 2013 Việt Nam quy định: " Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về, sức khoẻ, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe ....”. PLHS là một công cụ sắc bén, hữu hiệu để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói chung, các tội phạm XPSK của con người nói riêng, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo cho mọi người sống trong một môi trường xã hội an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Xét về thực tiễn, tỉnh Hải Dương có tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, có chiều hướng gia tăng, trong đó các tội XPSK của con người. Tội phạm diễn ra ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh với cơ cấu tội phạm, tính chất tội phạm, hình thức tội phạm, quy mô tội phạm khác nhau. Tuy nhiên việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này còn chậm, nhiều trường hợp xử lý còn thiếu chính xác, đặc biệt tình hình tội phạm n tội phạm xảy ra nhưng chưa được phát hiện và xử lý còn nhiều; vấn đề áp dụng pháp luật, nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương còn chưa thống nhất, dẫn đến việc giải quyết án kéo dài Xét về mặt lý luận, mặc dù có một số công trình khoa học luật hình sự đề cập đến các tội XPSK của con người dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng không nhiều. PLHS của nước ta quy định về các tội XPSK của con người còn những bất cập; nhiều quy định chưa mang tính toàn diện, nhiều vấn đề nảy sinh trong điều kiện tình hình mới đã gây khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật. Các tình tiết “ người già yếu “, “ phạm tội…trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác” , “ trạng thái tinh thần bị kích 1 động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng”, “ phòng vệ chính đáng”,….. vẫn chưa được hướng dẫn, giải thích của cơ quan có th m quyền dẫn đến có nhiều cách hiểu, đánh giá, áp dụng khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Vấn đề giám định thương tích sức khoẻ để làm căn cứ xem xét TNHS đối với người phạm tội còn nhiều bất cập. Từ những bất cập trong thực tiễn và lý luận nêu trên đã tác động tiêu cực đến việc áp dụng TNHS đối với loại tội phạm này trong thực tiễn, làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và bảo vệ sức khỏe của con người nói riêng, đồng thời dễ dẫn đến oan sai, bỏ lọt tội phạm và giải quyết vụ án quá hạn luật định. Do vậy tác giả lựa chọn đề tài “ Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khoẻ của con người từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương” để nghiên cứu làm luận án luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Góp phần làm rõ hơn những vấn đề về TNHS đối với các tội XPSK của con người, đánh giá việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này từ thực tiễn tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện PLHS về TNHS đối với các tội XPSK của con người, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, xử lý loại tội phạm này trong tình hình mới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận án xác định nhiệm vụ nghiên cứu chính như sau: - Phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận của TNHS cơ sở của TNHS, các đặc điểm của TNHS, hình thức của TNHS,.. . - Phân tích các quy định của pháp luật về TNHS đối với các tội XPSK của con người trong lịch sử pháp luật Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến nay. - Đánh giá thực tiễn áp dụng TNHS đối với các tội XPSK của con người từ thực tiễn ở tỉnh Hải Dương. 2 - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội XPSK của con người. 3. Đối tƣợng và ph m vi nghiên cứu của luận án 3.1. ối tư ng nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng chế định TNHS đối với các tội phạm XPSK của con người trong PLHS Việt Nam. 3.2. hạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến TNHS đối với các tội XPSK của con người dưới góc độ luật hình sự. - Về không gian, địa bàn: tỉnh Hải Dương - Về thời gian: từ năm 2006 đến năm 2018 4. Phƣơng pháp luận nghiên cứu của luận án 4.1. hương pháp luận: Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và các cặp phạm trù như: phạm trù cái chung và cái riêng, phạm trù bản chất và hiện tượng, phạm trù nội dung và hình thức, phạm trù nguyên nhân và kết quả, phạm trù khả năng và hiện thực và phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên... được vận dụng để nghiên cứu các tội XPSK của con người trong sự liên hệ với các nhóm tội khác trong BLHS; Nguyên lý về sự phát triển và các quy luật như: quy luật mâu thuẫn, quy luật phủ định, quy luật lượng- chất và và được vận dụng nghiên cứu các vụ việc, hành vi phạm tội trong thực tiễn luôn có sự phát triển; nhất là những sự vụ việc, hành vi phát sinh mới, xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của con người để kịp thời kiến nghị hoàn thiện pháp luật về TNHS đối với các tội XPSK của con người. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể Trong qua trình nghiên cứu luận án, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thê sau đây: + Phương pháp phân tích tài liệu 3 + Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh số liệu thống kê + Phương pháp chuyên gia, + Phương pháp điều tra điển hình,. Ở từng nội dung nghiên cứu luận án, vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp quy nạp, diễn dịch, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích quy phạm, phương pháp so sánh luật, phương pháp lịch sử, phương pháp logic pháp lý. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn. Luận án là công trình khoa học đầu tiên trong khoa học hình sự Việt Nam nghiên cứu cụ thể về khái niệm, cơ sở của TNHS và hình phạt- hình thức của TNHS đối với các tội XPSK của con người; thực tiễn áp dụng TNHS đối với các tội XPSK của con người ở tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 13 năm ( 2006 - 2018 ; kết quả đấu tranh của các cơ quan bảo vệ pháp luật và đưa ra các đề xuất hoàn thiện các quy định của BLHS và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng và cả nước nói chung. Luận án hệ thống hóa lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người từ thời phong kiến đến nay, đồng thời nghiên cứu các quy định liên quan đến TNHS đối với các tội XPSK của con người trong BLHS Việt Nam và của một số nước trên thế giới để đưa ra các nhận xét, đánh giá. Thông qua những đánh giá, phân tích về thực tiễn xét xử các tội XPSK của con người còn làm tư liệu cho các nhà làm luật nước ta nghiên cứu, tham khảo khi thực hiện việc sửa đổi, bổ sung BLHS về các tội phạm này dưới góc độ lập pháp hình sự. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Việc Luận án nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TNHS đối với các tội XPSK của con người là rất cần thiết; góp phần bổ 4 sung thêm vào hệ thống lý luận của Luật hình sự Việt Nam về các tội XPSK của con người và nâng cao nhận thức của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đúng quy định, hạn chế oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Qua đó bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe con người, bảo vệ quyền con người. Ngoài ra, Luận án còn là nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án làm cơ sở để đưa ra giải pháp, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS về TNHS đối với các tội XPSK của con người; góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng trong việc xét xử và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, trong đó có các tội về XPSK của con người, hạn chế oan, sai bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền con người. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án chia làm 4 chương, 13 mục và các tiểu mục. Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc Các tài liệu nghiên cứu về TNHS đối với các tội XPSK của con người được chia thành các nhóm chủ đề: Thứ nhất, nhóm tài liệu nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, cơ sở của TNHS, hình thức và mục đích của TNHS đối với các tội XPSK của con người. Thứ hai, nhóm các tài liệu nghiên cứu khác có liên quan đến TNHS và TNHS đối với các tội XPSK của con người. 5 Phần lớn các công trình nghiên cứu đều tập trung nghiên cứu các dấu hiệu CTTP của các tội XPSK của con người. Chỉ có một số không nhiều công trình có đề cập, nghiên cứu cả vấn đề TNHS đối với các tội XPSK của con người nhưng chỉ dừng lại ở việc phân tích thuần tuý các quy định của BLHS, chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề TNHS đối với tội XPSK của con người. Đặc biệt chưa có những nghiên cứu từ góc độ so sánh pháp luật nên chưa có một cái nhìn tổng quát, toàn diện về TNHS đối với các tội XPSK của con người. 1.2. Tình hình nghiên cứu nƣớc ngoài Dưới góc độ khoa học luật hình sự, các tài liệu nghiên đã tập trung và làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản chung nhất của luật hình sự, chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội XPSK. Đồng thời làm rõ lý thuyết, chính sách và vấn đề thực tiễn trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình trong đó có tội cố ý gây thương tích với cách tiếp cận đa ngành đối với vấn đề bạo lực gia đình, ... Trong khoa học luật hình sự nước ngoài cũng chưa có công trình nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về lý luận, thực tiễn và tiếp cận dưới khía cạnh pháp lý hình sự Việt nam về TNHS đối với các tội XPSK của con người. 1.3. Nhận xét, đánh giá các công trình khoa học và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 1.3.1. Nhận xét, đánh giá các công trình khoa học trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án Một là, điểm nổi bật của những công trình khoa học nêu trên đã hình thành hệ thống quan điểm, học thuyết về tội phạm, lí luận về CTTP và các yếu tố CTTP; TNHS và hình phạt trong luật hình sự. Hai là, Nội dung các công trình trong nước về cơ bản đã thông nhất trong việc nêu khái niệm những dấu hiệu pháp lí hình sự và hình phạt hoặc nội dung TNHS của nhóm các tội XPSK của con người. Ba là, Việc nghiên cứu một số khía cạnh khác về các tội XPSK của con người ở trong nước cũng được tiếp cận dưới góc độ khác nhau, qua 6 nghiên cứu cho thấy có một số công trình có giá trị tham khảo về khoa học và thực tiễn. Bốn là, các công trình khoa học ở nước ngoài chỉ đề cập đến các tội phạm về bạo lực trong đó có tội cố ý gây thương tích như luật hình sự của Việt Nam , đồng thời tập trung làm rõ lí thuyết, chính sách và xây dựng các báo cáo chuyên đề và khuyến nghị các giải pháp phòng, chống bạo lực. Năm là, chưa có công trình nghiên cứu tiếp cận toàn diện, khách quan, đầy đủ các vấn đề về lí luận, thực tiễn và dưới khía cạnh pháp lí hình sự Việt Nam về TNHS đối với các tội XPSK của con người. 1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Thứ nhất, Làm rõ hơn những vấn đề lý luận về TNHS đối với các tội XPSK của con người như: khái niệm và đặc điểm, nội dung, hình thức của TNHS đối với các tội XPSK của con người. Thứ hai, Nghiên cứu quá trình lập pháp, các quy định của BLHS Việt Nam, của nước ngoài về TNHS đối với các tội XPSK của con người; đồng thời phân tích, đánh giá rút ra những ưu điểm và hạn chế trong quy định của BLHS về các tội phạm này và trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm ở nước ta hiện nay. Thứ ba, phân tích, đánh giá đúng và chính xác thực tiễn áp dụng quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người của BLHS trong hoạt động xét xử của TAND các cấp trong những năm ( 2006- 2018) trên địa bàn cả nước và của tỉnh Hải Dương. Từ đó chỉ ra những bất cập trong quá trình áp dụng để làm cơ sở cho kiến nghị tiêp tục hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam năm 2015. Thứ tư, kiến nghị bằng việc tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội XPSK của con người trong BLHS Việt Nam năm 2015 Thứ năm, Đề xuất một số yêu cầu, giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng đúng và chính xác quy định của BLHS về TNHS đối với các tội XPSK của con người dưới góc độ thực tiễn xét xử. 7 Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHOẺ CỦA CON NGƢỜI 2.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời 2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hình sự Dưới góc độ khái quát chung nhất, TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Luật hình sự quy định đối với người phạm tội. 2.1.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự Cơ sở của TNHS là một trong những vấn đề rất quan trọng trong PLHS. Cơ sở TNHS được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, tập trung nhất là góc độ triết học và góc độ pháp lý. Trong BLHS của các quốc gia coi chủ thể của tội phạm vừa là con người cụ thể thể nhân , vừa là pháp nhân thì TNHS được áp dụng cho cả thể nhân và pháp nhân. Theo PLHS hiện hành của Việt Nam thì chỉ người nào phạm một tội mà BLHS quy định mới phải chịu TNHS. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm tột tội đã được quy định tại Bộ luật hình sự mới phải chịu TNHS. 2.1.3. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm hình sự đối với các tội X SK của con người 2.1.3.1. Khái niệm các tội XPSK của con người Dưới góc độ luật hình sự, có thể đưa ra khái niệm về các tội XPSK của con người như sau: Các tội XPSK của con người là những hành vi ( hành động và không hành động ) nguy hiểm cho xã hội, do người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý XPSK của con người mà theo quy định của BLHS quy định phải xử lý bằng chế tài hình sự. 8 2.1.3.2. Khái niệm TNHS đối với các tội XPSK của con người Có thể đưa ra một cách diễn đạt về TNHS đối với các tội XPSK của con người theo cách vừa trực tiếp thể hiện nội dung cơ bản của TNHS, vừa phản ánh được mối quan hệ giữa các bên chủ thể của TNHS. Đó là: TNHS đối với các tội XPSK của con người là hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải gánh chịu do đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm XPSK của con người được thể hiện trong các biện pháp mang tính cưỡng chế nhà nước do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. 2.1.3.3. Đặc điểm của TNHS đối với các tội XPSK của con người Từ khái niệm khoa học nêu trên, có thể chỉ ra các đặc điểm TNHS đối với các tội XPSK của con người như sau: Một là, TNHS đối với các tội XPSK của con người là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý mà người thực hiện các tội XPSK của con người bị áp dụng. Hai là, TNHS đối với các tội XPSK của con người là sự lên án của Nhà nước đối với những người thực hiện tội XPSK của con người. Ba là, TNHS đối với các tội XPSK của con người là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, TNHS chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội xảy ra. Bốn là, TNHS đối với các tội XPSK của con người chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là đại diện cho Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội. Năm là, TNHS đối với các tội XPSK của con người áp dụng đối với cá nhân người phạm tội. Sáu là, TNHS đối với các tội XPSK của con người mang tính chất công. 2.1.4. Ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người. Thứ nhất, góp phần bảo đảm pháp chế và xử lý nghiêm minh, kịp thời, công minh và đúng pháp luật các hành vi phạm các tội XPSK của con người. 9 Thứ hai, góp phần bảo đảm nguyên tắc công bằng, bình đẳng theo PLHS Việt Nam. Thứ ba, xác định rõ ranh giới giữa tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật khác và với các hành vi không phải là tội phạm, đồng thời phản ánh chính sách hình sự của Nhà nước đối với các tội XPSK của con người. 2.2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời Dưới góc độ khoa học, có thể đưa ra khái niệm cơ sở pháp lý của TNHS đối với các tội XPSK của con người này như sau: Cơ sở của TNHS đối với các tội XPSK của con người là CTTP của những tội XPSK của con người ghi nhận trong BLHS. Như vậy, cơ sở pháp lý của TNHS đối với các tội XPSK chính là CTTP của các tội XPSK của con người; bao gồm: khách thể; mặt khách quan; chủ thể và mặt chủ quan của các tội XPSK của con người. 2.3. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với các tội ph m xâm ph m sức khoẻ của con ngƣời Khái niệm hình thức TNHS chưa được ghi nhận trong PLHS. Trong khoa học LHS, khái niệm này có được đề cập nghiên cứu nhưng không nhiều. Trong số những quan điểm được nêu ra trong khoa học LHS về khái niệm hình thức TNHS, chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng: Hình thức TNHS là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong LHS để thực hiện TNHS và chỉ được áp dụng đối với người phạm tội. 2.3.1. Hình phạt Hình phạt được hiểu là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Toà án áp dụng đối với người phạm tội. Trong BLHS các hình phạt được nhà làm luật quy định thành hệ thống bao gồm hai loại hình phạt: các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung. 10 * Hình phạt chính là hình phạt có mức độ nghiêm khắc cao được Toà án áp dụng một cách độc lập đối với mỗi tội phạm, gồm: phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn * Hình phạt bổ sung là hình phạt có tính chất hỗ trợ cho hình phạt chính để đạt được mục đích hình phạt và là hình phạt không được tuyên một cách độc lập mà chỉ có thể được tuyên kèm theo hình phạt chính Đối với các tội XPSK của con người,BLHS quy định ba loại hình phạt chính được áp dụng, đó là: cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù và hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Chỉ áp dụng hình phạt tù như một biện pháp cuối cùng khi xét thấy không còn cách nào khác là phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội thì mới đạt được mục đích cải tạo, giáo dục họ. 2.3.2. Miễn hình phạt Tòa án áp dụng biện pháp miễn hình phạt trong trường hợp đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS Điều 54 BLHS 1999 . 2.3.3. Miễn trách nhiệm hình sự Là một trong những chế định quan trọng của luật hình sự Việt Nam, miễn TNHS thể hiện chính sách phân hóa TNHS và nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội, đồng thời động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo, nhanh chóng hòa nhập cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội 2.3.4. Các biện pháp tư pháp Các biện pháp tư pháp cụ thể được áp dụng là: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh. 2.3.5. Án tích 2.3.6. Trách nhiệm hình sự trong một số trường h p đặc biệt TNHS trong một số trường hợp đặc biệt như: TNHS trong đồng phạm, TNHS trong trường hợp chu n bị phạm tội, phạm tội chưa đạt hay tự ý nửa 11 chừng chấm dứt việc phạm tội trên cơ sở những nguyên tắc và quy định chung, bảo đảm sự phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt. 2.3.7. Các trường h p loại trừ TNHS Một số trường hợp có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được loại trừ TNHS là các hành vi có ích, được Nhà nước động viên, khuyến khích và động cơ của người thực hiện là vì bảo vệ lợi ích chung, đó là trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội. Chƣơng 3 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI 3.1. Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ trƣớc năm 1945 về TNHS các tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời 3.1.1. Thời kỳ Hậu Lý Năm 1042, Lý Thái Tông, vị vua thứ hai triều Lý đã cho biên soạn và ban hành bộ luật Hình Thư, đó là bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử pháp chế Việt Nam. Thời kì nhà Lê 1428 - 1789 , Lê Thánh Tông đã ban hành Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật, đánh dấu một bước tiến mạnh mẽ về kỹ thuật lập pháp, trong đó có lập pháp hình sự. 3.1.2. Thời kỳ Gia Long Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long )đầu thế kỷ XIX thời Nguyễn tuy có nhiều hạn chế do mô phỏng luật hình của Triều Mãn Thanh Trung Quốc, nhưng vẫn có ý nghĩa lịch sử nhất định Từ việc nghiên cứu 02 Bộ luật Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ có thể rút ra các nhận xét sau: Thứ nhất, Nhà nước phong kiến Việt Nam đặc biệt quan tâm đến nhóm tội XPSK của con người. Số lượng các điều luật cũng như tỷ trọng các điều luật quy định về các tội XPSK của con người trên tổng số các điều luật của hai Bộ luật này khá nhiều. Thứ hai, các nhà lập pháp phong kiến đã thực hiện triệt để nguyên tắc phân hóa tội phạm và cá thể hóa hành vi phạm tội đối với nhóm tội XPSK của con người. Thứ 12 ba, quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người trong PLHS phong kiến được ghi nhận tương đối toàn diện. 3.1.3. Thời kỳ háp thuộc Thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, đã ban hành 3 BLHS áp dụng trên ba miền Bắc- Trung- Nam. 3.2. Pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ năm 1945 đến nay về TNHS các tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời 3.2.1. Từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ Luật hình sự năm 1985 Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày 10-10-1945 với nội dung là cho đến khi ban hành được những bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam. Sau khi miền Bắc giải phóng năm 1954 , PLHS dần dần được bổ sung. Các tội XPSK của con người được quy định tại Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt với 7 loại tội phạm, trong đó có quy định về các tội XPSK của con người. TAND tối cao đã hướng dẫn pháp ban hành Chỉ thị số 07TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá phòng vệ chính đáng. 3.2.2. Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người trong Bộ luật Hình sự năm 1985 BLHS 1985 ra đời là một thành tựu lớn của trí tuệ lập pháp hình sự nước ta. Các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người gồm 03 điều, gồm các tội: Tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ Điều 103 ;btội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác Điều 109 , tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác Điều 110 . Hình phạt và trong mỗi khung thì có mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ 13 nguy hiểm của hành vi phạm tội, trong đó, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là 20 năm tù. 3.2.3. Các quy định về TNHS đối với các tội X SK của con người trong Bộ luật Hình sự năm 1999 Tập trung làm sáng tỏ những dấu hiệu pháp lý hình sự, hình phạt và một số đặc trưng trong từng tội danh tương xứng XPSK của con người Điều 104 đến 119 BLHS, Điều 117, Điều 118 theo hai nhóm chính căn cứ vào dấu hiệu lỗi lỗi cố ý hoặc vô ý . 3.2.3.1. Những dấu hiệu pháp lý hình sự của nhóm tội cố ý xâm phạm sức khỏe của con người Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Điều 104 , tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trangj thái tinh thần bị kích động mạnh Điều 105), tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Điều 106 , tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ Điều 107), tội hành hạ người khác Điều 110), tội lây truyền HIV cho người khác Điều 117 và tội có ý truyền HIV cho người khác Điều 118 3.2.3.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự của nhóm tội vô ý xâm phạm sức khỏe của con người - Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác Điều 108 và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc hành chính Điều 109) 3.2.3.3. Hình phạt TNHS đối với các tội XPSK của con người được nhà làm luật quy định đầy đủ trong BLHS. Hình phạt chính gồm : cảnh cáo, cải cạo không giam giữ, tù có thời hạn và tù chung thân; trong đó cải tạo không giam giữ cao nhất đến ba năm, tù có thời hạn cao nhất là hai mươi năm. Hình phạt cảnh cáo được quy định đối với 04 CTTP khoản 1 các Điều 105, 106, 108 và 110 . Hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định với 06 CTTP 14 khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 107, 108 và 110 . Hình phạt tù có thời hạn được quy định đối với tất cả các tội. Hình phạt tù chung thân được quy định với 02 CTTP khoản 4 Điều 104 và khoản 2 Điều 109 . Hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được áp dụng đối với 03 CTTP Điều 107, 109 và 119 . 3.2.4. Quy định về TNHS đối với các tội X SK của con người trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 sau đây gọi là BLHS năm 2015 đã kế thừa các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người trong BLHS năm 1999 và kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người, khắc phục một số tồn tại hạn chế 3.3. Các quy định của pháp luật về TNHS đối với các tội xâm ph m sức khỏe của con ngƣời ở một số nƣớc trên thế giới và những vấn đề đặt ra đối với pháp luật hình sự Việt Nam 3.3.1. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội X SK của con người của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 3.3.2. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội X SK của con người của Nhật Bản 3.3.3. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội X SK của con người của Liên bang Nga 3.3.4. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội X SK của con người của Thụy iển 3.3.5. Quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội X SK của con người của Liên bang ức Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về TNHS đối với các tội XPSK của con người của các nước trên thế giới, trong đó có của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Nhật Bản, Liên bang Nga, Thụy Điển và Đức; chúng ta cần tiếp thu những quy định tiến bộ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của 15 nước ta để nghiên cứu, áp dụng trong việc sửa đổi bổ sung các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người trong BLHS phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Chƣơng 4 ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHOẺ CỦA CON NGƢỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 4.1. Tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dƣơng 4.1.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội 4.1.2. Khái quát tình hình tội phạm 4.1.3. Tình hình các cơ quan tiến hành tố tụng của tỉnh Hải Dương 4.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sức khỏe của con người từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương 4.2.1. Kết quả đạt đư c Trong những năm qua, mặc dù các quy định của pháp luật hình sự, nhất là BLHS đã phát huy tác dụng tích cực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Nổi bật là cố ý gây thương tích, xuất hiện tình trạng trẻ hóa tội phạm, hoạt động tội phạm theo các băng nhóm tội phạm có tổ chức, hoạt động theo kiểu xã hội đen mặc dù chỉ là nhóm nhỏ nhưng hoạt động hết sức manh động và liều lĩnh. 4.2.2. Hạn chế, vướng mắc Qua nghiên cứu 385 bản án sơ th m và phúc th m của TAND 2 cấp tỉnh Hải Dương và thực tiễn việc áp dụng các quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương trong giai đoạn 13 năm 2006 đến 2018 ; qua việc kiểm tra, hướng dẫn của VKSND tỉnh và 16 TAND tỉnh Hải Dương thấy nhóm tội phạm này vẫn còn tồn tại một số hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng. Điển hình là: 4.2.2.1. Việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chưa đầy đủ nên áp dụng hình phạt chưa chính xác. 4.2.2.2. Việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh chưa đúng theo quy định. 4.2.2.3. Việc áp dụng các quy định về TNHS chưa thống nhất ( tình tiết phạm tội với người già yếu ), chưa được hướng dẫn kịp thời; dẫn đến việc giải quyết vụ án kéo dài 4.2.2.4. Việc đánh giá chứng cứ, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội chưa đúng, dẫn đến việc quyết định hình phạt chưa đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng. Điển hình là các vụ án: + Cùng tỷ lệ thương tích nhưng mức hình phạt khác nhau. + Cùng một hậu quả nhưng Tòa án các huyện lại tuyên mức hình phạt khác nhau 4.2.2.6. Việc giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của Cơ quan giám định không chính xác, dẫn đến việc giải quyết vụ án kéo dài. 4.2.3. Nguyên nhân và những hạn chế, vướng mắc 4.2.3.1. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc - Quy định về TNHS đối với các tội XPSK của con người chưa đầy đủ - Việc giám định tỷ lệ thương tích còn nhiều bất cập - Các văn bản pháp luật có liên quan chưa đồng bộ 4.2.3.2. Những vướng mắc cụ thể trong thực tiễn Một là, Những quy định của BLHS hiện hành về nhóm tội XPSK của con người có một số CTTP chưa phù hợp với thực tế, khó chứng minh trên thực tế, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm ( quy định hậu quả tỷ lệ % thương tích . 17 Hai là, Ngoài ra, có thể thấy hầu hết Khoản 1 của các tội XPSK của con người chỉ có thể coi là tội phạm khi có yêu cầu khởi tố của người bị hại theo quy định của BLTTHS. Ba là, vấn đề giám định thương tích sức khoẻ để làm căn cứ khởi tố, truy tố người phạm tội XPSK của con người còn nhiều bất cập. Bốn là, Một số tội XPSK của con người còn quy định chung chung, chưa rõ ràng và chưa được sự hướng dẫn của cơ quan có th m quyền nhất là các quy định mang tính chất định tính. Năm là, một số tình tiết định khung tăng nặng quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 BLHS gần tương tự tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS do vậy đã gây không ít khó khăn trong việc định tội cũng như định khung hình phạt. Sáu là, Mức hình phạt đối với một số tội phạm quá nghiêm khắc, không còn phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Bẩy là, trong cấu thành cơ bản của một số tội XPSK của con người chưa phù hợp. Tám là, Đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác quy định về hành vi cố ý gây tổn hại sức khỏe của người khác được quy định trong BLHS không mô tả rõ ràng dấu hiệu của hành vi khách quan gây không ít khó khăn cho việc xác định chính xác tội danh; có trường hợp gây thương tích cho nạn nhân chỉ 1% hoặc 2% có thể bị khởi tố, truy tố và xét xử về tội Cố ý gây thương tích là điều thực sự không cần thiết, chỉ làm tăng thêm mâu thuẫn trong nội bộ quần chúng nhân dân. Trường hợp này có thể xử lý hành chính hoặc thông qua hoà giải Chín là, BLHS quy định nhiều loại tội phạm có hành vi khách quan tương tự với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất