Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp l...

Tài liệu Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật việt nam

.PDF
97
286
71

Mô tả:

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam : Luận văn ThS / Vũ Tiến Vinh ; Nghd. : TS. Phùng Trung Tập . H. : Khoa Luật, 2006 . - 84 tr. + Đĩa mềm + Tóm tắt Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt 1 Mở đầu ……………………………………………….…… 2 1. Tính cấp thiết của đề tài …………………………… 2 2. Tình hình nghiên cứu ……………………………… 4 3. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, phương pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn …………… 4 4. Mục đích nghiên cứu của luận văn ………………… 5 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn 6 …… 6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ……… 7 7. Kết cấu của luận văn ……………………………… 7 Chương 1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự và Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự 1.1. Trách nhiệm dân sự 9 9 4 1.2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự 11 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự …………………………… 11 1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự ……………………… 14 1.3. Khái quát các quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự ……………………… 20 1.4. So sánh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng … Chương 2. 24 Các điều kiện phát sinh và nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự …… 27 2.1. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng …………………………… 28 2.1.1. Có hành vi vi phạm hợp đồng ……………… 28 2.1.2. Có thiệt hại xảy ra …………………… 35 2.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra ………………… 2.1.4. Người vi phạm hợp đồng có lỗi ………… 38 42 2.2. Nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự ……………………………………… 45 2.2.1. Trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp đồng 47 2.2.2. Trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại … 56 2.2.3. Bị phạt vi phạm nếu có thỏa thuận ………… 60 5 Chương 3. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự ………………………………….. 63 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện những quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự …………………………… 63 3.1.1. Những quan điểm chỉ đạo nhằm hoàn thiện pháp luật dân sự …………………………… 64 3.1.2. Thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân các cấp đối với các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự ……………... 66 3.2. Đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định liên quan và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án các cấp đối với các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự 77 Kết luận ……………………… 82 Tài liệu tham khảo ……………………………………… 88 6 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự Nxb : Nhà xuất bản TAND : Toà án nhân dân TTLT : Thông tư liên tịch XHCN : Xã hội chủ nghĩa 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự ra đời của Nhà nước và Pháp luật, bên cạnh chế định quyền nhân thân, quyền sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng dân sự, trách nhiệm dân sự được xem là một trong những chế định pháp luật quan trọng. Xã hội loài người đã trải qua nhiều kiểu nhà nước khác nhau, và ở mỗi kiểu Nhà nước lại có một hình thái kinh tế - xã hội tương ứng nhưng bất kỳ kiểu nhà nước nào cũng đều thông qua pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với thực tiễn phát triển của kiểu nhà nước và pháp luật đó. Hợp đồng dân sự là một hình thức thỏa thuận phổ biến trong xã hội có tư hữu. Nghiên cứu về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một vấn đề rất thiết thực, được nhiều người quan tâm tìm hiểu. Dựa trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự (“BLDS”) năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 là một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự của Việt Nam. Trách nhiệm dân sự và Hợp đồng dân sự đã được pháp điển hóa trong Bộ luật Dân sự, bảo vệ trực tiếp quyền lợi của các cá nhân, tổ chức khi tham gia các giao dịch dân sự. Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (“XHCN”) Việt Nam. Ngày 2 tháng 1 năm 2002, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ/BCT “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và ngày 2 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng 8 sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu lực và hiệu quả cao”. Ngày 22 tháng 2 năm 2006, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã đề ra “Chương trình trọng tâm công tác tư pháp năm 2006” với nội dung: “Nghiên cứu đề xuất các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới theo tinh thần và nội dung Chiến lược cải cách tư pháp vào Bộ luật dân sự. Đẩy nhanh tiến độ và khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự”. Có một điều khó tránh khỏi là với xu thế phát triển ngày càng phổ biến và đa dạng của Hợp đồng, nhiều quan hệ dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng nói riêng lại chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa triệt để đã gây ra không ít khó khăn cho cơ quan xét xử. Hàng năm, có hàng chục nghìn vụ án tranh chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự được tòa án nhân dân các cấp thụ lý và giải quyết nhưng lại gặp phải sự thiếu đồng bộ và chưa thống nhất trong các quy định pháp luật dân sự hiện hành khiến nhiều vụ án phải xét xử nhiều lần hoặc tính thuyết phục của bản án chưa cao. Tranh chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một loại tranh chấp mang tính đặc thù, đặc biệt là số lượng các giao dịch dân sự ngày một tăng. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết các tranh chấp về trách nhiệm trong hợp đồng dân sự cũng đã gặp nhiều vướng mắc, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Bộ luật Dân sự năm 2005 đang đặt ra một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách là trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự hiện hành, phải phân tích để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận về trách nhiệm dân sự và hợp đồng dân sự, từ đó đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về những tranh chấp hợp đồng. Trước đòi hỏi của công dân và xã hội, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ 9 pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Từ năm 1991 trở lại đây, pháp luật về hợp đồng dân sự của Việt Nam được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với các quan hệ xã hội theo định hướng XHCN, theo đó quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức trong quan hệ hợp đồng được pháp luật bảo. Đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu của các nhà luật học trong nước viết về hợp đồng dân sự và trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dân sự chỉ được đề cập đến như là một phần của một công trình nghiên cứu nào đó, hoặc chỉ là những nghiên cứu nhỏ lẻ, riêng rẽ. Tác giả Ngô Văn Thâu có tác phẩm “Một số điều cần biết trong các quyền dân sự của công dân” (Nxb. Pháp lý, 1987); Tác giả Đỗ Văn Đại với bài viết “Về điều chỉnh nguy cơ không thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam” (Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, 1-2005). Có thể thấy những nghiên cứu về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dân sự là những nghiên cứu có ý nghĩa nhưng đều được thực hiện trước khi có Bộ luật Dân sự năm 2005. Trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự là một vấn đề phức tạp và chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện, có hệ thống về chế định này. Tính đến thời điểm hiện nay thì chưa có công trình nào phân tích sâu về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng để rút ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự nhằm nâng cao hiệu quả xét 10 xử của tòa án các cấp đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. 3. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, phƣơng pháp nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn  Cơ sở lý luận của luận văn: Là cơ sở lý luận về nhà nước và pháp luật, bộ luật dân sự hiện hành của Việt Nam, pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới, các cơ sở khoa học về lịch sử pháp luật, xã hội học pháp luật, triết học. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các văn bản pháp luật có liên quan, các công trình nghiên cứu, các sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên các báo và tạp chí.  Cơ sở thực tiễn của luận văn: Dựa trên tình hình thực tế của các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự; tính khả thi trong việc áp dụng các quy định điều chỉnh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự trong pháp luật dân sự hiện hành.  Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Trong khi thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgic để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật dân sự về trách nhiệm dân sự và hợp đồng dân sự.  Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. 4. Mục đích nghiên cứu của luận văn  Mục đích của luận văn 11 Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống để hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án, góp phần ổn định các quan hệ xã hội về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng.  Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Phân tích khái niệm trách nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự; - Phân tích điều kiện phát sinh và nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự để thấy được những tồn tại trong việc áp dụng pháp luật dân sự trong giải quyết trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, tìm ra sự cần thiết và từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng; - Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự nhằm góp phần nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, 12 có hệ thống về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Thông qua việc phân tích những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, đưa ra vấn đề tổng quan và toàn diện về trách nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự trong pháp luật dân sự hiện hành của Việt Nam. - Giúp người đọc nắm rõ và đầy đủ về các điều kiện phát sinh và nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự; nhận định đúng về tầm quan trọng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng dân sự, từ đó tránh được các vi phạm hợp đồng dân sự. - Đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về phân định trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. 6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện những quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp có liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự tại các cấp tòa án ở Việt Nam. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn góp phần nghiên cứu khiêm tốn của mình vào hệ thống lý luận luật dân sự, cũng như ổn định các quan hệ xã hội về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự có tính thiết thực và phức tạp này. 13 Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật dân sự, trách nhiệm dân sự và hợp đồng dân sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan pháp luật có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn này gồm có ba chương: Chương 1: Khái niệm về trách nhiệm dân sự, trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự. Chương 2: Các điều kiện phát sinh và nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự. Chương 3: Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật dân sự về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. 14 Chƣơng 1 KHÁI NIỆM VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ 1.1. Trách nhiệm dân sự Trách nhiệm dân sự là một phạm trù rộng bao hàm những công việc phải làm (phần trách nhiệm) của một cá nhân, một tổ chức đối với các công việc trong lĩnh vực dân sự. Nội hàm của trách nhiệm dân sự cho ta thấy mọi cá nhân, tổ chức là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự đều phải tự mình chịu trách nhiệm đối với những công việc mà họ đã cam kết thực hiện. Đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật nói chung là nội dung của quan hệ pháp luật được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo bằng sự cưỡng chế nhà nước. Cũng như vậy, ở quan hệ pháp luật dân sự nói riêng, tổng hợp các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự tạo thành nội dung của quan hệ đó, các bên vừa có quyền đồng thời vừa có nghĩa vụ với nhau. Nghĩa vụ dân sự trong quan hệ pháp luật dân sự là một bộ phân không thể tách rời của nội dung quan hệ đó. Khái niệm nghĩa vụ dân sự được quy định tại Điều 258 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 như sau: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định của pháp luật thì một hoặc nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (gọi là người có quyền)” [2]. Trách nhiệm dân sự ràng buộc các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các giao dịch dân sự phải thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết. Nếu họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự bằng việc bồi thường thiệt hại do có hành vi vi phạm hợp đồng. Việc giải quyết các vi phạm liên quan đến trách nhiệm dân sự bằng phương thức 15 bồi thường chính là việc các chủ thể đã tự nguyện hoặc bị bắt buộc phải gánh chịu hậu quả của những vi phạm dân sự đó để thực hiện trách nhiệm dân sự giữa người có nghĩa vụ và người có quyền trong một giao dịch hoặc quan hệ dân sự. Việc thực hiện trách nhiệm dân sự theo nguyên tắc bên có hành vi vi phạm phải bồi thường đối với cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm. Theo nghĩa thông thường thì trách nhiệm dân sự được hiểu là: “Việc bắt buộc phải sửa chữa một thiệt hại do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự” [24]. Trách nhiệm dân sự, quyền và nghĩa vụ dân sự có mối quan hệ mật thiết với nhau. Quyền của một bên làm phát sinh nghĩa vụ của bên kia trong một quan hệ dân sự. Nghĩa vụ dân sự này có thể được các bên thỏa thuận thông qua quan hệ dân sự hoặc là nghĩa vụ dân sự do pháp luật dân sự quy định (ví dụ: nghĩa vụ dân sự đối với bất động sản của cá nhân, pháp nhân). Trên cơ sở đó, trách nhiệm dân sự phát sinh để ràng buộc các bên tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ dân sự là hành vi vi phạm pháp luật. Nhà nước quy định các chế tài dân sự như là sự phản ứng của Nhà nước đối với những chủ thể vi phạm pháp luật dân sự và một trong những quy định chế tài đó là trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự của một chủ thể. Các chủ thể trong một quan hệ pháp luật dân sự tự nguyện cam kết thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Do vậy, các chủ thể tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình hoặc thực hiện công việc theo thỏa thuận của các bên. Không giống với trách nhiệm hình sự là chủ thể vi phạm pháp luật thường không thấy trước trách nhiệm của mình khi thực hiện hành vi vì mục đích và hậu quả của hành động theo phán quyết của toà án mới quyết định đến trách nhiệm hình sự của chủ thể phạm tội, các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự luôn có thể xác định trước được trách nhiệm dân sự khi tham 16 gia các quan hệ pháp luật dân sự vì bản chất của trách nhiệm dân sự là tồn tại không phụ thuộc vào hậu quả của sự việc. Có thể đưa ra định nghĩa về trách nhiệm dân sự như sau: “Trách nhiệm dân sự được hiểu là một loại trách nhiệm về tài sản của chủ thể trong một quan hệ pháp luật dân sự nhất định, buộc phải thực hiện một việc, kiềm chế không được thực hiện một việc, phải bồi thường một thiệt hại hoặc phải gánh chịu các chế tài dân sự khác, do đã có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác”. Như vậy, có thể nói trách nhiệm dân sự là việc chủ thể của quan hệ pháp luật phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng vật chất trong trường hợp gây ra thiệt hại cho một chủ thể khác. Quan hệ trách nhiệm dân sự có hai chủ thể: một chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và một chủ thể có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại mong muốn bồi thường cho người bị thiệt hại, thì sự mong muốn đó cũng không phải là nguồn của nghĩa vụ bồi thường. Nghĩa vụ bồi thường do luật quy định, còn người có nghĩa vụ chỉ thực hiện một nghĩa vụ mà ý chí của mình không tạo ra. Pháp luật dân sự không xác định hoặc xác định không đầy đủ trách nhiệm dân sự trong các quan hệ dân sự sẽ dẫn tới tình trạng các chủ thể không có ý thức tự nguyện thực hiện các cam kết dân sự hoặc thực hiện nửa vời. Từ đó, tính nghiêm minh và hiệu lực thực thi của pháp luật sẽ bị giảm sút. Xác định rõ và chi tiết hoá trách nhiệm dân sự sẽ góp phần tăng cường tính thực thi của pháp luật dân sự, giúp pháp luật dân sự ngày một hoàn thiện và dễ áp dụng hơn. 1.2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự 17 Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một loại trách nhiệm dân sự và là một hình thức chế tài do Nhà nước quy định để áp dụng đối với các hành vi vi phạm các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong một hợp đồng dân sự. Giống như trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự cũng xuất phát trên cơ sở có hành vi vi phạm các cam kết, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự lại bao hàm nội dung riêng không giống với các trách nhiệm dân sự khác. Đó là việc khi các cá nhân, pháp nhân buộc phải thực hiện trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự thì hoặc (1) các chủ thể này buộc phải tiếp tục thực hiện hợp đồng; và (2) các chủ thể này buộc phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản cho các chủ thể bị vi phạm. Đặc thù riêng này là của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, và thấy rằng đây là một loại chế tài dân sự có liên quan mật thiết đến hợp đồng dân sự. Nghĩa vụ dân sự được phát sinh từ hợp đồng và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Các nghĩa vụ dân sự này mang tính chất tài sản và được xác định giá trị bằng tiền. Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Chủ thể không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết mà gây thiệt hại cho chủ thể mang quyền, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Trong BLDS hiện hành, trách nhiệm dân sự trong hợp đồng được chi phối bởi các nguyên tắc được thiết lập trong khuôn khổ xây dựng chế độ pháp lý về hợp đồng. Tuy nhiên, có thể ghi nhận đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo hợp đồng là trách nhiệm phát sinh từ sự vi phạm một quy tắc xử sự. Đó là sự vi phạm nghĩa vụ dân sự (trách nhiệm dân sự trong hợp đồng). Đồng thời, theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, trách nhiệm dân sự 18 trong hợp đồng chịu sự chi phối, trên nguyên tắc, của các quy định chung về điều kiện trình tự thực hiện nghĩa vụ được các bên xác lập theo thỏa thuận. Hợp đồng dân sự được coi là căn cứ để xem xét trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa các cá nhân và pháp nhân với nhau liên quan đến tài sản trong một xã hội có tổ chức. Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự theo một cơ chế chung là các bên giao kết thống nhất về ý chí và bị ràng buộc trong một mối quan hệ nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của bên kia. Theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự thì mọi hợp đồng dân sự đều được thực hiện dưới hình thức thoả thuận dù là hợp đồng miệng hoặc bằng văn bản. Thông qua hợp đồng dân sự, các bên thỏa thuận các quyền và nghĩa vụ phải thực hiện. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự chính là việc một hoặc hai bên phải chịu trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm các cam kết. Việc vi phạm hợp đồng dân sự làm phát sinh trách nhiệm dân sự của một trong hai bên tham gia vào hợp đồng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đẩy đủ các nghĩa vụ mà hai bên đã cam kết trong hợp đồng. Căn cứ xác định trách nhiệm dân sự là việc vi phạm nghĩa vụ phát sinh theo hợp đồng. Nghĩa vụ bị vi phạm có thể là nghĩa vụ chính (nghĩa vụ đặc thù) tương ứng với chủ thể của hợp đồng, hoặc là một nghĩa vụ phụ phát sinh từ hợp đồng. Hợp đồng là một sự kiện pháp lý, và nghĩa vụ là hệ quả của sự kiện đó. Ví dụ, nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho hành khách trong hợp đồng vận chuyển hành khách. Qua những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự như sau: “Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự được hiểu là trách nhiệm của chủ thể hợp đồng đã không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng 19 do các bên xác lập, mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải tiếp tục thực hiện hợp đồng, phải bồi thường thiệt hại và chịu khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng theo thoả thuận hoặc phải chịu những hậu quả bất lợi khác, do bên có quyền theo hợp đồng bị vi phạm, theo đó bên có quyền có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng và được bồi thường thiệt hại”. Có thể nói, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một trong những chế tài quan trọng của pháp luật dân sự để điều chỉnh một đối tượng thông dụng và thiết thực trong đời sống xã hội là hợp đồng dân sự. Dưới đây sẽ là những phân tích về đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo hợp đồng để làm rõ hơn về loại trách nhiệm này. 1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự Bên cạnh những đặc điểm chung như các trách nhiệm dân sự khác, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự có những đặc điểm riêng. Các đặc điểm riêng này để phân biệt trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự với các loại trách nhiệm dân sự khác. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo hợp đồng có thể được phân tích như sau: Đặc điểm 1: Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là chế tài dân sự. Trách nhiệm dân sự luôn thể hiện hình thức cưỡng chế của Nhà nước. Nhà nước quy định trách nhiệm nhằm buộc các bên tham gia giao dịch dân sự nếu vi phạm các cam kết sẽ phải gánh chịu các chế tài theo quy định của pháp luật. Tính cưỡng chế trong pháp luật dân sự được thể hiện thông qua việc cơ quan có thẩm quyền dựa trên cam kết và thoả thuận của hai bên trong hợp 20 đồng, sẽ xem bên nào phải chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. Quyết định mang tính chế tài của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ buộc bên vi phạm chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại cho bên bị vi phạm. Không giống với các chế tài pháp lý khác như chế tài hình sự, hành chính, đặc điểm của chế tài dân sự hoàn toàn mang tính chất tài sản thông qua việc bồi thường thiệt hại (vật chất, tinh thần…) cho chủ thể bị vi phạm. Nhà nước quy định tính chế tài cho trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng nhằm đảm bảo sự ổn định và lành mạnh trong các quan hệ hợp đồng dân sự, một trong những quy định quan trọng của pháp luật dân sự và ở trong bất kỳ giai đoạn nào. Việc đưa ra các biện pháp chế tài nhằm ổn định các quan hệ hợp đồng dân sự sẽ giúp nền kinh tế vận động một cách có hiệu quả hơn, an toàn hơn với mọi chủ thể. Từ đó tạo được động lực để các chủ thể tham gia nhiều hơn, tích cực và yên tâm hơn vào các quan hệ hợp đồng dân sự. Đặc điểm 2: áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý là áp dụng với các chủ thể vi phạm pháp luật thì một đặc điểm khác của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là áp dụng đối với các chủ thể vi phạm các cam kết liên quan đến hợp đồng dân sự hay nói cách khác là vi phạm các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến hợp đồng dân sự. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, các cam kết trong hợp đồng dân sự có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia vào hợp đồng dân sự và cá nhân hoặc pháp nhân chịu trách nhiệm dân sự là những chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định này. Chủ thể không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng dân sự bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật dân sự và phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật dân sự. 21 Nếu một chủ thể không bị coi là vi phạm pháp luật dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng thì đương nhiên họ sẽ không phải chịu trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự chỉ phát sinh khi có sự vi phạm hợp đồng dân sự. Việc xác định một hợp đồng dân sự có bị vi phạm hay không là một việc làm quan trọng và cần thiết để xác định một chủ thể có vi phạm pháp luật dân sự hay không và có bị áp dụng chế tài dân sự hay không. Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm của chủ thể vi phạm pháp luật, bị áp dụng các chế tài do pháp luật quy định. Đặc điểm 3: Đƣợc thực hiện bởi cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền trong phạm vi pháp luật cho phép. Đây là một đặc điểm mang tính hướng dẫn của pháp luật dân sự đối với các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật dân sự. Sẽ chỉ có các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thụ lý và giải quyết các tranh chấp dân sự cũng như đưa ra phán quyết về việc chủ thể nào sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Đặc điểm này có thể được hiểu là việc bắt buộc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các cam kết trong hợp đồng dân sự phải chịu trách nhiệm dân sự và việc phán quyết sẽ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đảm trách. Trong một vụ án dân sự, việc thụ lý quy kết trách nhiệm dân sự cho các bên tham gia vào giao dịch dân sự sẽ do Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định (Tòa án nhân dân cấp quận, huyện; Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). Sau khi có quyết định cuối cùng của tòa án, việc yêu cầu các bên đương sự thực hiện đúng trách nhiệm dân sự của mình sẽ do cơ quan thi hành án cấp tương đương thực hiện theo quy định. Khác với các quyết định hình sự do cơ quan công an thực hiện hình phạt, các quyết định dân sự thường phụ thuộc nhiều vào các cơ quan thi hành án và thường không mang tính cưỡng chế cao. Việc quy định chỉ có cơ quan Nhà 22 nước có thẩm quyền mới có thẩm quyền phán quyết và đưa ra các biện pháp áp dụng có liên quan đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự cho thấy tính chất tối cao và nghiêm khắc của các quy định pháp luật dân sự về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Đặc điểm 4: Sử dụng một số biện pháp chế tài nhất định do luật định để buộc ngƣời vi phạm phải chịu hậu quả bất lợi. Bản chất của pháp luật là mọi chủ thể khi thực hiện các hành vi mà pháp luật nghiêm cấm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật và sẽ bị pháp luật áp dụng một số chế tài nhất định buộc chủ thể có hành vi vi phạm phải chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm pháp luật của mình. Nguyên tắc của pháp luật là chỉ có những người chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự mới bị pháp luật áp dụng các biện pháp chế tài theo quy định của pháp luật. Tùy theo đối tượng và giá trị của từng hợp đồng dân sự mà các hình thức chế tài áp dụng sẽ khác nhau. Chế tài theo quy định của pháp luật dân sự có thể là việc buộc chủ thể vi phạm hợp đồng dân sự phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự đã cam kết trong hợp đồng; hoặc là việc chủ thể vi phạm phải bồi thường một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng cho chủ thể bị vi phạm; hoặc là việc chủ thể vi phạm phải thực hiện một nghĩa vụ dân sự bắt buộc nào đó với bên thứ ba có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hợp đồng. áp dụng các biện pháp chế tài dân sự là một đặc điểm cần thiết và quan trọng trong pháp luật dân sự. Nếu không có các biện pháp chế tài đủ mạnh đối với các hành vi vi phạm pháp luật dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng thì trách nhiệm dân sự của một chủ thể chỉ mang tính hình thức mà không có tác dụng răn đe. Đồng thời, các quy định của pháp luật dân sự cũng thiếu tính cưỡng chế cần thiết để đảm bảo trật tự của các quan hệ pháp luật dân sự. Việc 23
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan