Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng...

Tài liệu Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng

.DOC
24
111
120

Mô tả:

1 A. ĐẶT VẤN ĐỀ. “Hợp đồng” được coi là căn cứ phổ biến nhất làm phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa các bên tham gia quan hệ. Theo nội dung hợp đồng đã cam kết, bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ trước bên có quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, vi phạm hợp đồng là việc không hiếm gặp. Khi có sự vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, việc áp dụng TNDS, tức các hậu quả pháp lý bất lợi, cho bên vi phạm là yêu cầu tất yếu cần thực hiện.“TNDS do vi phạm hợp đồng” không chỉ là các quy định được đặt ra nhằm trừng phạt, răn đe chủ thể vi phạm mà còn nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên, khắc phục tối đa các thiệt hại xảy ra nếu có. Việc tìm hiểu, xem xét các quy định của pháp luật về vấn đề này vì thế có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cả về lí luận và thực tiễn. Bởi vậy, em chọn đề tài “Đánh giá qui định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng” cho bài viết của mình. B. NỘI DUNG. I. KHÁI QUÁT VẤN ĐỀ TNDS DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG. 1. Khái niệm hợp đồng dân sự. BLDS Việt Nam năm 2005 quy định khái niệm hợp đồng tại điều 388: “HĐDS là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Theo đó, HĐDS sẽ có những đặc điểm cơ bản sau: - Thứ nhất, HĐDS là sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Sự thỏa thuận này được hiểu là hành vi bàn bạc, trao đổi hay chấp nhận một vấn đề nào đó và đi đến nhất trí giữa các bên. Thỏa thuận là yếu tố bắt buộc phải có trong hợp đồng. Mặc dù không phải mọi sự thỏa thuận đều là hợp đồng nhưng nếu không tồn tại yếu tố thỏa thuận thì cũng không thể xác lập quan hệ hợp đồng. Thỏa thuận nhằm mục đích tạo lập quan hệ hợp đồng sẽ phải có sự tham gia của ít nhất hai bên chủ thể và phải được thể hiện ra bên ngoài bằng những hình thức nhất định mà pháp luật quy định như văn bản, lời nói, hành vi cụ thể. - Thứ hai, HĐDS là căn cứ xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Khi HĐDS được xác lập và có hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan trong quan hệ hợp đồng cũng theo đó mà phát sinh. Các bên chủ thể bị ràng buộc bởi những cam kết của mình trong hợp đồng. Bên có nghĩa vụ sẽ phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận với bên có quyền. Nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hay không đầy đủ sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự trước bên có quyền do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. - Thứ ba, mục đích, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng dân sự “không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Nếu nội dung hay mục đích của HĐDS vi 1 2 phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái với đạo đức xã hội thì hợp đồng đó bị coi là vô hiệu tuyệt đối. Ví dụ: A là lái xe có thỏa thuận với B về việc chở hàng lậu từ biên giới Trung Quốc về Việt Nam để tiêu thụ. Sau khi A giao hàng cho B sẽ được nhận thù lao. Thỏa thuận của A và B trong trường hợp có nhằm mục đích phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên nhưng không thể được công nhận là một HĐDS do có nội dung trái với quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan đến hợp đồng chỉ được thừa nhận và phải thực hiện nếu hợp đồng được kí kết giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. 2. Khái niệm TNPL, TNDS. a. Trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm được hiểu theo nghĩa thông thường là “phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải đảm bảo làm tròn, nếu kết quả không tốt sẽ phải gánh chịu hậu quả.” Còn TNPL là “hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, được các QPPL xác lập và điều chỉnh, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu hậu quả bất lợi, những biện pháp cưỡng chế pháp luật quy định”. (Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật). b. Trách nhiệm dân sự. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học: “TNDS là TNPL mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất và tinh thần cho người bị thiệt hại.” TNDS sẽ mang những đặc điểm cơ bản sau: - Thứ nhất, TNDS sẽ mang những đặc điểm cơ bản của TNPL như: TNDS là hậu quả bất lợi được áp dụng khi có của hành vi vi phạm pháp luật, là biện pháp cưỡng chế của nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật và được pháp luật quy định cụ thể. - Thứ hai, căn cứ áp dụng TNDS là hành vi vi phạm pháp luật. Đó có thể là hành vi vi phạm pháp luật hoặc vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng mà các bên đã cam kết. - Thứ ba, TNDS mang lại những hậu quả bất lợi về tài sản cho bên vi phạm. Khi có hành vi vi phạm pháp luật, thiệt hại gây ra thường là thiệt hại về tài sản. Kể cả khi có thiệt hại về mặt tinh thần cũng chỉ có thể bù đắp cho bên bị thiệt hại về mặt tài sản do những “tổn thất tinh thần”, về nguyên tắc, là không thể định giá. Việc áp dụng TNDS nhằm bù đắp về mặt tài sản cho bên bị thiệt hại vì thế sẽ mang lại những hậu quả bất lợi về tài sản cho bên vi phạm. 3. Khái niệm TNDS do vi phạm hợp đồng. 2 3 Căn cứ vào khái niệm TNPL và TNDS, có thể hiểu, TNDS do vi phạm hợp đồng là hậu quả pháp lý bất lợi về mặt tài sản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp đặt lên chủ thể vi phạm hợp đồng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. TNDS do vi phạm hợp đồng là một loại TNPL, TNDS. Ngoài các đặc điểm cơ bản của TNPL và TNDS nói chung,“TNDS do vi phạm hợp đồng” còn có những đặc điểm riêng sau: - Thứ nhất, TNDS do vi phạm hợp đồng gắn liền với sự tồn tại của HĐDS cụ thể và hợp đồng này phải có hiệu lực. Sự tồn tại của một hợp đồng chính là cơ sở để áp dụng TNDS do vi phạm hợp đồng. Nếu hợp đồng được kí kết giữa các bên vô hiệu thì coi như không hề tồn tại một quan hệ hợp đồng và không thể áp dụng TNDS do vi phạm hợp đồng. Ví dụ: Do không có khả năng sinh con nên vợ chồng H và K đã giao kết hợp đồng “đẻ thuê”(mang thai hộ) với chị A. Theo đó, sau khi giao lại đứa trẻ mới sinh cho H và K, chị A sẽ nhận được 40 triệu đồng. Tuy nhiên, sau khi giao đứa trẻ cho H và K, chị A lại chỉ nhận được 30 triệu đồng, thiếu 10 triệu so với thỏa thuận. Tuy nhiên, trong trường hợp này, hợp đồng các bên kí kết vô hiệu. Tất cả những giao dịch trong việc đẻ thuê, thuê đẻ đều bị pháp luật nghiêm cấm. Do vậy, không thể áp dụng “TNDS do vi phạm hợp đồng” đối với H và K. - Thứ hai, TNDS do vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ được giao kết trong hợp đồng đó. TNDS chỉ giới hạn trong phạm vi nghĩa vụ được quy định trong chính hợp đồng. - Thứ ba, TNDS chỉ phát sinh giữa các chủ thể có tham gia quan hệ hợp đồng (trừ trường hợp hợp đồng được kí kết vì lợi ích của người thứ ba) Bên có nghĩa vụ thường là bên phải gánh chịu TNDS, bên có quyền thường là bên bị vi phạm. - Thứ tư, chế tài áp dụng trong trường hợp có vi phạm hợp đồng rất đa dạng, bao gồm buộc phải tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại và phạt vi phạm nếu các bên có thỏa thuận. Các biện pháp này có thể được áp dụng độc lập hoặc đồng thời tùy từng trường hợp cụ thể. 4. Phân biệt trách nhiệm trong hợp đồng và ngoài hợp đồng. Phân biệt TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng là vấn đề không thể không đề cập đến khi tìm hiểu về “TNDS do vi phạm hợp đồng”, Đây là vấn đề có ý nghĩa không chỉ về lí thuyết mà còn cả trên thực tế, đặc biệt là đối với việc lựa chọn loại TNDS để áp dụng khi có vi phạm xảy ra, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan. 3 4 Căn cứ vào nguồn gốc và cơ sở phát sinh, TNDS được chia thành TNDS ngoài hợp đồng và TNDS do vi phạm hợp đồng. Tuy cùng mang những đặc điểm cơ bản của TNDS nói chung, nhưng giữa hai loại TNDS này vẫn có những điểm khác biệt rất rõ ràng. Cụ thể: - Cơ sở phát sinh: Hành vi làm phát sinh TNDS do vi phạm hợp đồng là hành vi vi phạm nghĩa vụ. Hành vi này chưa chắc vi phạm các quy định của pháp luật mà chỉ vi phạm các quy định mà các bên đã thỏa thuận, cam kết khi tham gia quan hệ hợp đồng. Trong khi đó, đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hành vi vi phạm phải là hành vi trái pháp luật và có gây thiệt hại mới làm phát sinh TNDS đối với chủ thể gây thiệt hại, không phụ thuộc vào việc các bên có quan hệ hợp đồng hay không. - Chủ thể chịu trách nhiệm: Đối với TNDS do vi phạm hợp đồng, chủ thể chịu trách nhiệm sẽ chính là các bên trong quan hệ hợp đồng có hành vi vi phạm nghĩa vụ. Trong khi đó, ngoài áp dụng với người có hành vi vi phạm pháp luật, TNDS ngoài hợp đồng còn được áp dụng với các chủ thể khác như cha mẹ, người giám hộ của người gây thiệt hại. Ví dụ: nếu người gây thiệt hại dưới 15 tuổi thì cha mẹ phải dùng tài sản của mình để bồi thường… - Căn cứ xác định trách nhiệm: Đối với việc xác định TNDS do vi phạm hợp đồng, thiệt hại xảy ra không phải là yếu tố bắt buộc. Bên vi phạm hợp đồng chỉ cần có hành vi vi phạm sẽ phải gánh chịu TNDS kể cả khi chưa có thiệt hại. Trong khi đó, đối với việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thiệt hại thực tế phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật lại là điều kiện bắt buộc. Nếu hành vi vi phạm pháp luật không gây ra thiệt hại thì bên vi phạm không phải bồi thường. - Lỗi: Bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ sẽ phải chịu TNDS nếu có lỗi khi thực hiện hành vi vi phạm trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong khi đó, TNDS ngoài hợp đồng có thể được áp dụng theo các quy định của pháp luật ngay cả khi người có hành vi vi phạm không có lỗi. Ví dụ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. 1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. 1.1. Hành vi vi phạm. Cơ sở đầu tiên làm phát sinh TNDS do vi phạm hợp đồng chính là hành vi vi phạm nghĩa vụ. Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm nghĩa vụ là hành vi không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết. Cụ thể, khoản 1 Điều 302 BLDS quy định: “Bên 4 5 có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.” - Hành vi không thực hiện nghĩa vụ được hiểu là người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trước người có quyền theo quan hệ hợp đồng đã được các bên xác lập nhưng bên có nghĩa vụ đã không thực hiện nghĩa vụ đó. Hành vi này được biểu hiện cụ thể dưới dạng không thực hiện việc chuyển giao tài sản hoặc không thực hiện công việc theo thỏa thuận với bên có quyền hoặc theo quy định của pháp luật. - Hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ được hiểu là việc bên có nghĩa vụ đã thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ (về đối tượng, thời hạn, địa điểm, phương thức…) đã thỏa thuận với bên có quyền hoặc dù đã thực hiện nhưng mới chỉ thực hiện một phần, chưa đầy đủ. Ví dụ như giao không đủ tiền, không đủ số lượng hàng hóa… Dù hành vi vi phạm có ở dạng nào thì đều có điểm chung là được quy định trong hợp đồng. Hành vi vi phạm chỉ làm phát sinh TNDS do vi phạm hợp đồng khi hành vi đó được hợp đồng quy định. Nói cách khác, bên vi phạm sẽ chỉ phải chịu TNDS do vi phạm hợp đồng nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã được hợp đồng quy định. Trong trường hợp HĐDS được kí kết vì lợi ích của người thứ ba, ví dụ: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (người thụ hưởng sẽ là bên thứ ba có quyền), dù giữa người thứ ba và bên có nghĩa vụ không có quan hệ hợp đồng nhưng nếu bên có nghĩa vụ có hành vi vi phạm hợp đồng thì TNDS được áp dụng vẫn là TNDS do vi phạm hợp đồng. Do quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan đều phát sinh trên cơ sở hợp đồng giữa các bên. 1.2. Lỗi của bên vi phạm nghĩa vụ. Để xác định người có nghĩa vụ đã vi phạm hợp đồng có phải chịu TNDS hay không cần xác định chủ thể đó có lỗi hay không. Họ chỉ phải gánh chịu TNDS nếu họ có lỗi với hành vi vi phạm hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Lỗi là yếu tố chủ quan thể hiện thái độ, tâm lí của con người với hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó. BLDS năm 2005 đề cập đến hai loại lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Điều 308 BLDS năm 2005 quy định: “Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước 5 6 hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.” Khác với luật hình sự, việc xác định lỗi cố ý hay vô ý trong nhiều trường hợp thuộc lĩnh vực dân sự không có ý nghĩa quyết định (Lỗi trong DS không có ảnh hưởng đến những yếu tố quan trọng như tội danh, khung hình phạt như lỗi trong luật hình sự). Về nguyên tắc, một người mặc nhiên bị coi là có lỗi khi họ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trong hợp đồng. Người vi phạm dù có lỗi cố ý hay vô ý đều phải gánh chịu TNDS. Nếu muốn thoát khỏi TNDS, người vi phạm phải chứng minh mình không có lỗi khi thực hiện hành vi. Trách nhiệm chứng minh này thuộc về chính người vi phạm. Tòa án chỉ đưa ra quyết định dựa trên chứng cứ các đương sự đưa ra. Ngoài ra, việc chứng mình bên vi phạm có lỗi là quyền, không phải nghĩa vụ của người bị vi phạm. Do bên bị vi phạm thường là bên bị thiệt hại và trong nhiều trường hợp không thể chứng minh được, buộc họ phải chứng minh sẽ bất lợi cho họ. 2. Các trường hợp phát sinh trách nhiệm dân sự. 2.1. Do không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài sản. Thực hiện hợp đồng là triển khai tất cả các nội dung mà các bên đã cam kết thực hiện. Đây là hệ quả tất yếu của việc giao kết hợp đồng. Để đảm bảo quyền lợi cho phía bên kia, các bên phải hoàn thành nghĩa vụ của mình. Một trong số những nội dung của nghĩa vụ hợp đồng chính là nghĩa vụ chuyển giao tài sản. Bên có nghĩa vụ sẽ phải chuyển giao tài sản cho bên kia theo thỏa thuận, nếu bên có nghĩa vụ không chuyển giao tài sản sẽ phải chịu TNDS do vi phạm hợp đồng. Tài sản theo quy định tại điều 163 BLDS bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. BLDS 2005 chỉ quy định TNDS do không thực hiện nghĩa vụ giao vật (Điều 303 BLDS), theo đó, sẽ có các trường hợp sau: TH1: Đối tượng của nghĩa vụ là vật đặc định. Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ giao vật đặc định thì người có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật đó; nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị của vật do đặc điểm của vật đặc định là tính chất không thể thay thế TH2: Đối tượng của nghĩa vụ là vật cùng loại. Do giữa những vật cùng loại có đặc điểm chung về công dụng, tính chất… và có thể thay thế cho nhau nên nếu vật cùng loại đó không còn hay hư hỏng thì bên có nghĩa vụ có thể thay thế bằng vật khác. Chỉ khi bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ giao vật cùng loại mới phải thanh toán giá trị của vật. Đây 6 7 là khác biệt cơ bản giữa TNDS do không chuyển giao vật đặc định và TNDS do không chuyển giao vật cùng loại. 2.2. Do thực hiện không đúng nghĩa vụ chuyển giao tài sản. Thực hiện không đúng nghĩa vụ chuyển giao tài sản là việc giao tài sản không đúng số lượng, phương thức, địa điểm, thời hạn, chủng loại, chuyển giao vật không đồng bộ…Việc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ cũng được coi là thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng. Như vậy, sẽ có các trường hợp sau: TH1: Giao không đúng số lượng, cụ thể là trường hợp giao thiếu số lượng. Trong trường hợp này, bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Nếu bên có quyền không còn muốn tiếp nhận số tài sản còn thiếu thì bên có nghĩa vụ sẽ phải bồi thường. Còn trường hợp giao thừa số lượng không nên xem là vi phạm nghĩa vụ bởi việc giao thừa không đem lại lợi ích cho bên có nghĩa vụ và không ảnh hưởng đến nghĩa vụ do bên có quyền có thể “nhận hoặc không nhận phần dôi ra” (theo điều 435 BLDS 2005). TH2: Giao không đúng chất lượng. Chất lượng hàng hóa thường được các bên thỏa thuận trừ trường hợp pháp luật có thỏa thuận khác (như theo khoản 2 điều 430 BLDS 2005). Bên giao hàng không đúng chất lượng luôn bị coi là vi phạm nghĩa vụ bất kể hàng hóa bị giao nhầm có chất lượng tốt hơn hay kếm hơn thỏa thuận. Do chất lượng hàng hóa luôn đi kèm với yếu tố giá cả nên việc giao hàng không đúng chất lượng sẽ ảnh hưởng tới nội dung hợp đồng đã kí kết cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan. TH3: Đối với nghĩa vụ giao vật đồng bộ. Trong trường hợp vật được giao không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được thì bên có nghĩa vụ bị coi là vi phạm hợp đồng và phải chịu TNDS. Bên mua có quyền “Nhận và yêu cầu bên bán giao tiếp phần hoặc bộ phận còn thiếu, yêu cầu bồi thường thiệt hại và hoãn thanh toán phần hoặc bộ phận đã nhận cho đến khi vật được giao đồng bộ; Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp bên mua đã trả tiền nhưng chưa nhận vật do giao không đồng bộ thì được trả lãi đối với số tiền đã trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại do giao vật không đồng bộ, kể từ thời điểm phải thực hiện hợp đồng cho đến khi vật được giao đồng bộ.” (Điều 436 BLDS 2005). TH4: Giao vật không đúng chủng loại. Nếu bên có nghĩa vụ giao vật không đúng chủng loại thì được xem là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Bên có nghĩa vụ không thể lấy vật khác thay thế. Ví dụ: Vật phải giao là 1 chiếc laptop hiệu Sony Vaio SVE15138CVW thì bên có nghĩa vụ sẽ phải giao đúng chiếc laptop có nhãn hiệu đó, không thể thay thế bằng một chiếc máy 7 8 tính khác nhãn hiệu Macbook Air 11 mặc dù 2 sản phẩm tương đương về giá trị. Bên mua có một trong các quyền “Nhận và thanh toán theo giá do các bên thoả thuận; Yêu cầu giao đúng chủng loại và bồi thường thiệt hại; Huỷ bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”(Điều 437 BLDS 2005). TH5: Thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn đã thỏa thuận. Nếu bên có nghĩa vụ thực hiện sau thời hạn đã thỏa thuận thì đây là trường hợp TNDS phát sinh do chậm thực hiện nghĩa vụ (Mục 2.4). Còn nếu như bên có nghĩa vụ thực hiện trước thời hạn, bên có quyền có thể lựa chọn tiếp nhận hoặc không tiếp nhận nghĩa vụ đó. Nếu có thiệt hại xảy ra thì bên có nghĩa vụ sẽ phải gánh chịu rủi ro. Bên có quyền không được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và không có quyền chấm dứt hợp đồng bởi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Do vậy, trong trường hợp này, không đặt ra vấn đề TNDS. Khi nghĩa vụ hợp đồng không được thực hiện đúng, bên có quyền thường yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng do đây luôn là ưu tiên hàng đầu của các bên, đảm bảo quyền lợi mà các bên mong muốn đạt được. Chỉ khi hợp đồng không thể được thực hiện hoặc vi phạm không thể khắc phục được, các TNDS khác mới được áp dụng. 2.3. Do không thực hiện một công việc phải thực hiện hoặc do không được thực hiện một công việc. Công việc phải thực hiện là đối tượng của nghĩa vụ hợp đồng, nếu từ công việc đó các bên xác lập 1 quan hệ nghĩa vụ mà theo đó, người có nghĩa vụ phải thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận. Công việc có thể có 1 kết quả nhất định hoặc không có kết quả nào, có thể biểu hiện dưới dạng vật chất cụ thể hoặc không. Ví dụ: may thuê, lái xe thuê… Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện một công việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao cho người khác thực hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại. Công việc không được thực hiện là đối tượng của nghĩa vụ hợp đồng, nếu theo thỏa thuận, người có nghĩa vụ không được thực hiện 1 công việc theo nội dung đã xác định. Nếu người đó thực hiện công việc đó thì xem như là vi pham nghĩa vụ. Khi bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt việc thực hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại. 8 9 Như vậy, TNDS thường được áp dụng trong các trường hợp này là trách nhiệm bồi thường thiệt hại kèm theo yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng (tiếp tục thực hiện hoặc chấm dứt thực hiện công việc). Nếu là hợp đồng dịch vụ, trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên thuê dịch vụ còn có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. 2. 4. Do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Về nguyên tắc, việc thực hiện nghĩa vụ phải theo đúng thời gian các bên đã thỏa thuận. Đó có thể là một thời hạn hoặc một thời điểm bất kì. Nếu nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết thì bị coi là “Chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Ngoài ra, nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định phải thực hiện nghĩa vụ dân sự theo định kì thì việc chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo từng kỳ cũng bị coi là chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự. “Khi nghĩa vụ dân sự chậm được thực hiện thì bên có quyền có thể gia hạn để bên có nghĩa vụ hoàn thành nghĩa vụ; nếu quá thời hạn này mà nghĩa vụ vẫn chưa được hoàn thành thì theo yêu cầu của bên có quyền, bên có nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại; nếu việc thực hiện nghĩa vụ không còn cần thiết đối với bên có quyền thì bên này có quyền từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.” (Khoản 1 Điều 305 BLDS 2005). Ngoài ra, đối với nghĩa vụ trả tiền, “trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” (Khoản 2 Điều 305 BLDS). Theo khoản 2 Điều 286 BLDS 2005: “Bên chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thông báo ngay cho bên có quyền về việc không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn.” Việc thông báo phải nhanh chóng, kịp thời để bên có quyền có biện pháp xử lí (như gia hạn) và giảm thiểu rủi ra. Đây là điểm mới của BLDS 2005 so với BLDS 1995. Việc gia hạn của bên có quyền tương ứng với việc thông báo của bên chậm nghĩa vụ tạo điều kiện để hợp đồng tiếp tục được thực hiện, đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan. 2.5. Do chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong QHDS, nếu 1 bên có nghĩa vụ thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia sẽ có nghĩa vụ tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ. Do đó, nếu 1 bên phải chịu TNDS do chậm thực hiện nghĩa vụ thì bên kia cũng sẽ phải chịu TNDS nếu chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ. “Chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự là khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có 9 10 nghĩa vụ đã thực hiện theo thoả thuận nhưng bên có quyền không tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó.” (khoản 1 Điều 288 BLDS). Có thể thấy, bên được thực hiện nghĩa vụ là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ nhưng lại là bên có nghĩa vụ trong quan hệ tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ. Nếu bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ dân sự làm phát sinh thiệt hại cho bên có nghĩa vụ thì phải bồi thường thiệt hại cho người đó và phải chịu mọi rủi ro xảy ra kể từ thời điểm chậm tiếp nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Như vậy, bên có nghĩa vụ không được miễn việc thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp này (khác với “Chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự, bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng) nhưng sẽ được đảm bảo một số quyền lợi. Nếu việc chậm tiếp nhận gây thiệt hại cho bên có nghĩa vụ, bên có quyền sẽ phải bồi thường. Việc tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ còn liên quan đến vấn đề về chuyển giao rủi ro. Đối với tài sản không phải đăng kí quyền sở hữu, thời điểm chuyển giao rủi ro gắn với thời điểm chuyển giao tài sản. Ví dụ: Nếu bên mua chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì vẫn phải chịu rủi ro với tài sản đó kể từ thời điểm chậm tiếp nhận. Đây là điểm hợp lí của BLDS. Do nếu không có việc chậm tiếp nhận của bên mua thì rủi ro đã được chuyển giao từ bên bán cho bên mua. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp chậm tiếp nhận đều phải chịu rủi ro kể từ thời điểm chậm tiếp nhận. Theo điều 440 BLDS 2005 “Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu không có thoả thuận khác.” Như vậy, nếu không có thỏa thuận khác, thời điểm chuyển dịch rủi ro là thời điểm đăng kí chứ không phải thời điểm bên có quyền chậm tiếp nhận nghĩa vụ. Bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ phải chịu TNDS nhưng không có nghĩa là bên có nghĩa vụ có thể để mặc thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp bên có quyền chậm tiếp nhận đối tượng của nghĩa vụ là tài sản thì bên có nghĩa vụ phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo quản tài sản và có quyền yêu cầu thanh toán chi phí hợp lý mình đã bỏ ra. Đối với tài sản có nguy cơ bị hư hỏng thì bên có nghĩa vụ có quyền bán tài sản đó và trả cho bên có quyền khoản tiền thu được từ việc bán tài sản sau khi trừ đi chi phí hợp lý để bảo quản và bán tài sản đó. 3. Các loại TNDS do vi phạm hợp đồng. 3.1. Trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ. 10 11 Khi bên có nghĩa vụ vi phạm hợp đồng không có nghĩa là hợp đồng đã chấm dứt. Việc hợp đồng có chấm dứt hay không khi có vi phạm nghĩa vụ sẽ phụ thuộc vào ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật. Việc thực hiện hợp đồng vẫn là mối quan tâm lớn nhất của các bên trong quan hệ bởi trong nhiều trường hợp, các biện pháp khác như bồi thường thiệt hại hay phạt vi phạm hợp đồng không thể thay thế được lợi ích mà việc thực hiện hợp đồng mang lại. Do đó, khi có sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, ưu tiên của các bên vẫn là tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng. Ví dụ: trong trường hợp bên thuê nhà chậm trả tiền thuê nhà hơn ba tháng trở lên mà không có lí do chính đáng, bên cho thuê có thể yêu cầu bên thuê phải thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết là trả tiền thuê nhà để đảm bảo lợi ích của mình thay vì chấm dứt hợp đồng. Tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ là biện pháp được ưu tiên áp dụng nhất khi có vi phạm hợp đồng. Nếu xảy ra hành vi vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu trực tiếp bên vi phạm hoặc yêu cầu Tòa án buộc bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp bên vi phạm không còn khả năng để thực hiện hợp đồng thì biện pháp bồi thường thiệt hại mới được áp dụng. 3.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. Trong nhiều trường hợp, khi bên vi phạm không có khả năng để tiếp tục thực hiện hợp đồng, TNDS cần phải được áp dụng là bồi thường thiệt hại. Đây là biện pháp được áp dụng phổ biến khi có vi phạm hợp đồng xảy ra. BLDS năm 2005 quy định vấn đề bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng nhưng lại không đưa ra định nghĩa bồi thường thiệt hại. Tìm hiểu về vấn đề này, ta cần phải xem xét các văn bản của các ngành luật khác. Cụ thể, theo khoản 1 điều 302 Luật thương mại: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.” Như vậy, có thể hiểu, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là TNPL áp dụng với chủ thể vi phạm nghĩa vụ hợp đồng khi có thiệt hại xảy ra, nhằm bù đắp tổn thất cho bên bị thiệt hại. Vấn đề bồi thường thiệt hại có thể được quy định ngay trong hợp đồng được kí kết giữa các bên. Tuy nhiên, ngay cả khi không được đề cập đến trong hợp đồng, bên vi phạm vẫn phải gánh chịu loại TNDS này khi có sự vi phạm thỏa mãn các căn cứ để áp dụng bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. a. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. - Có thiệt hại xảy ra :“Thiệt hại” được hiểu những tổn thất về vật chất hoặc tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Khoản 1 Điều 307 BLDS 2005 quy định: “Trách nhiệm bồi 11 12 thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần.”. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất. Thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng thường được hiểu là những tổn thất về vật chất, gồm “tài sản bị mất, hủy hoại, chi phí bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại thiệt hại cũng như hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng ra được thu” (Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học). Ngoài ra, để được bồi thường, thiệt hại phải là thiệt hại thực tế, được tính toán có căn cứ chứ không phải là thiệt hại tưởng tượng, được liệt kê bừa bãi. Việc xác định thiệt hại trong những trường hợp này là vô cùng quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan. - Có hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ: Hành vi vi phạm này là hành vi vi phạm các thỏa thuận, cam kết giữa các bên trong quan hệ hợp đồng. Cơ sở làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là hành vi vi phạm nghĩa vụ. Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm nghĩa vụ là hành vi không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết. - Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi vi phạm nghĩa vụ: Hành vi vi phạm nghĩa vụ được xem là nguyên nhân, thiệt hại được xem là hậu quả. Khi xác định mối quan hệ nhân quả cần lưu ý mức độ của hành vi vi phạm nghĩa vụ của từng chủ thể gây thiệt hại (nếu có nhiều chủ thể gây thiệt hại) hoặc mức độ hành vi của cả bên gây thiệt hại với bên bị thiệt hại đối với thiệt hại xảy ra để xác định trách nhiệm bồi thường. - Có lỗi của bên vi phạm nghĩa vụ: Bên vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có lỗi. Nếu bên vi phạm chứng minh được rằng họ hoàn toàn không có lỗi khi thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng thì họ sẽ không phải gánh chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. b. Xác định thiệt hại. Việc xác định thiệt hại là công đoạn vô cùng quan trọng. Xác định thiệt hại thiếu chính xác, vô căn cứ sẽ làm ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng. Thiệt hại do vi phạm hợp đồng chỉ bao gồm các thiệt hại về mặt vật chất, không bao gồm các thiệt hại về tinh thần. Khoản 2 Điều 307 BLDS 2005 quy định: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.” Theo đó, tài sản bị thiệt hại không 12 13 chỉ bao gồm tài sản hiện có mà còn có cả tài sản hình thành trong tương lai mà chắc chắn có bởi đây cũng là đối tượng của hợp đồng dân sự nên hoàn toàn có thể bị thiệt hại nếu có hành vi vi phạm hợp đồng. Do đó, thiệt hại được bồi thường khi có vi phạm hợp đồng bao gồm cả thiệt hại thực tế và trực tiếp do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cũng như những khoản lợi mà người bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Thực tế, việc xác định thiệt hại là rất khó khăn do nhiều yếu tố tác động như lạm phát, chênh lệch giá cả. Đôi khi, việc xác định thiệt hại chỉ mang tính chất tương đối, không thể chính xác tuyệt đối. Tuy vậy, vẫn có thể xác định thiệt hại dựa trên những tổn thất sau đây: - Tổn thất về tài sản được thể hiện dưới hình thức như tài sản bị hủy hoại hoàn toàn dẫn đến mất giá trị; tài sản bị mất, hư hỏng dẫn đến giảm sút giá trị. Đối với những tài sản hao mòn tự nhiên thì những hao mòn tự nhiên do sử dụng tài sản không được coi là thiệt hại và không phải bồi thường. Tuy nhiên, có thể thấy, đối với các loại hợp đồng như hợp đồng mua bán, vận chuyển…tổn thất về tài sản thường dễ xác định và tính toán cụ thể, còn đối với hợp đồng dich vụ sẽ khó xác định thiệt hại về tài sản hơn rất nhiều. Điều này có thể gây ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan. - Chi phí hợp lí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại: Những chi phí này là một khoản tiền cần thiết phải sử dụng để thực hiện các công việc trên. Những chi phí này có thể bao gồm chi phí thuê kho bãi, chi phí sửa chữa hư hỏng tài sản, chi phí bảo dưỡng, bảo quản tài sản…Tính hợp lí, cần thiết của chi phí được hiểu là nếu vào hoàn cảnh đó, bất cứ ai cũng phải hành động như vậy nhằm hạn chế một cách tối đa thiệt hại có thể xảy ra. Nếu thiệt hại chưa xảy ra thì đó là chi phí cần thiết để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại có thể xảy ra, nếu thiệt hại đã xảy ra thì đó là chi phí hợp lí và cần thiết để khắc phục thiệt hại. - Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của bên bị thiệt hại. Đây là thu nhập mà bên bị vi phạm lẽ ra thu được nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng. Do đó, có thể coi đây là tài sản hình thành trong tương lai nhưng chắc chắn thu được mà không phải là thu nhập từ tiền lương hay từ lao động như trong trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Những thu nhập từ lương hoặc từ lao động của người bị vi phạm nhưng không liên quan đến hợp đồng giữa các bên và việc thu nhập đó bị mất hoặc giảm sút không phải do hành vi vi phạm hợp đồng thì không được tính để bồi thường. Ví dụ: Ngày 1/10/2010, A và B có giao kết một hợp đồng mua bán 4 chiếc ô tô với trị giá hơn 10 tỷ đồng. Ngày 2/11/2010, A sẽ giao xe cho B và B có nghĩa vụ trả tiền cho A. Ngày 10/10/2010, B có kí hợp đồng cho thuê xe và vận chuyển hàng hóa với hai công ty C và D vào 13 14 ngày 15/11/2010, sau thời điểm B đã nhận được xe từ A. Thù lao mà B được hưởng từ hai hợp đồng này là 10 triệu đồng. Tuy nhiên, khi đến hạn giao xe, A đã chậm thực hiện nghĩa vụ khi không giao xe đúng vào ngày 2/11/2010 mà đến tận 17/11/2010 mới chuyển giao xe cho A. Việc A vi phạm nghĩa vụ đã làm B mất đi một khoản thu nhập có trị giá 10 triệu đồng lẽ ra đã thuộc về B. A có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho B. c. Mức bồi thường. Theo quy định của pháp luật, khi xác định các khoản thiệt hại, bên vi phạm chỉ phải bồi thường đối với những tổn thất thực tế, tính được thành tiền, không bao gồm các thiệt hại về tinh thần như danh dự, uy tín...Ngoài ra, do mục đích của việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là bù đắp những tổn thất về mặt tài sản cho bên bị vi phạm nên mức bồi thường sẽ chỉ tương ứng với thiệt hại thực tế. Nói cách khác, thiệt hại thực tế là bao nhiêu thì bên vi phạm sẽ chỉ bồi thường bấy nhiêu. Ví dụ: A có hành vi chậm giao hàng dẫn đến việc hàng hóa bị hư hỏng một phần làm B bị thiệt hại 10 triệu đồng. Thiệt hại thực tế của B là 10 triệu đồng thì mức bồi thường mà A phải gánh chịu cũng sẽ tương ứng với mức độ thiệt hại, không vượt quá số tiền 10 triệu đồng. 3.3. Phạt vi phạm. Phạt vi phạm hợp đồng là một hình thức trách nhiệm dân sự có thể được áp dụng trong trường hợp vi phạm hợp đồng. BLDS năm 2005 quy định các bên có thể thỏa thuận phạt vi phạm như một nội dung của hợp đồng (theo khoản 7 Điều 402 BLDS năm 2005). Đây là một điểm khác biệt của BLDS năm 2005 so với BLDS năm 1995. Trước đó, phạt vi phạm chỉ được coi là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. “Phạt vi phạm là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên có quyền bị vi phạm.” (Khoản 1 điều 377 BLDS 1995) Theo Điều 422 BLDS 2005 “Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.” Mức phạt sẽ do các bên thỏa thuận. Ngoài ra, các bên trong hợp đồng còn có thể thỏa thuận.về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Phạt vi phạm có thể được áp dụng độc lập hoặc đồng thời với bồi thường thiệt hại. a. Điều kiện áp dụng. - Thứ nhất: Điều khoản phạt vi phạm một trong các bên có hành vi vi phạm phải được dự liệu trong hợp đồng. Chế tài này chỉ được áp dụng khi các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm 14 15 trong hợp đồng. Nếu không có thỏa thuận về phạt vi phạm thì không thể áp dụng biện pháp này khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng. Quy định của pháp luật về “phạt vi phạm” dựa trên nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, cũng vì quy định của theo hướng này mà biện pháp phạt vi phạm chưa được áp dụng nhiều. Thực tế, không có nhiều trường hợp phạt vi phạm do các bên trong quan hệ hợp đồng đều tránh việc bị ràng buộc vào các tình thế bất lợi hơn khi có sự vi phạm nghĩa vụ. - Thứ hai: Phải có hành vi vi phạm. Đây là điều kiện bắt buộc để áp dụng TNDS cho bên vi phạm. Tuy nhiên, khác với trường hợp bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, phạt vi phạm có thể được áp dụng ngay cả khi chưa có thiệt hại xảy ra. Việc phạt vi phạm sẽ tuân theo điều kiện mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Khi có đủ các điều kiện theo thỏa thuận, biện pháp phạt vi phạm có thể được áp dụng ngay cả khi chưa có thiệt hại. Đây được xem là quy định hợp lí của BLDS, phù hợp với sự phát triển của các quan hệ thương mại. Biện pháp phạt vi phạm có mục đích ngăn chặn vi phạm xảy ra chứ không chỉ nhằm bù đắp tổn thất như biện pháp bồi thường thiệt hại. Do vậy, việc phạt vi phạm có thể được thực hiện ngay cả khi chưa có thiệt hại hoặc thiệt hại nhỏ hơn mức phạt. Trong khi mức bồi thường sẽ chỉ tương ứng với mức thiệt hại và chỉ có thể áp dụng bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra. Như vậy, biện pháp phạt vi phạm rõ ràng có tính “nghiêm khắc, răn đe” cao hơn rất nhiều; bắt buộc các bên phải ý thức được hành vi của mình và có sự “tôn trọng” nghĩa vụ khi tham gia quan hệ hợp đồng. Chế định “phạt vi phạm” vừa có thể hạn chế những hành vi vi phạm hợp đồng vừa bảo vệ quyền và lợi ích của các bên liên quan. b. Mức phạt vi phạm. Mức phạt vi phạm được hiểu là khoản tiền nhất định bên vi phạm nghĩa vụ phải trả cho bên bị vi phạm. Theo quy định của Luật dân sự, việc áp dụng phạt vi phạm hoàn toàn dựa trên sự thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Do đó, mức phạt cũng sẽ do các bên tự thỏa thuận. Khoản tiền phạt cao hay thấp sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên trong hợp đồng. Luật dân sự không có sự điều chỉnh về giới hạn của mức phạt vi phạm. Trong khi đó, theo điều Điều 301 Luật thương mại, “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.” Như vậy, khi áp dụng pháp luật về “phạt vi phạm”, cần có sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại. Theo khoản 1 điều 3 Luật thương mại: “Hoạt động thương 15 16 mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” Những quan hệ này khi có tranh chấp và có điều khoản phạt vi phạm hợp đồng thì mức phạt tối đa sẽ là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 Luật thương mại về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả giám định sai (mức phạt tối đa là 10 lần thù lao dịch vụ giám định). Còn nếu là hợp đồng dân sự, mức phạt sẽ do các bên tự thỏa thuận, không có giới hạn cụ thể. 4. Trường hợp loại trừ trách nhiệm dân sự. Loại trừ TNDS là loại trừ những hậu quả pháp lý bất lợi mà bên vi phạm sẽ phải gánh chịu theo quy định của pháp luật. Theo đó, BLDS đặt ra 2 trường hợp loại trừ TNDS: do sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi hoàn toàn của bên có quyền. Ngoài ra, các bên còn có thể thỏa thuận về các trường hợp loại trừ TNDS trong chính hợp đồng. 4.1. Loại trừ trách nhiệm dân sự do sự kiện bất khả kháng. Theo quy định tại khoản 2 điều 302 BLDS: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Như vậy, trong trường hợp không thể thực hiện nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu TNDS. Để được loại trừ TNDS, cần phải thỏa mãn các điều kiện sau: - Thứ nhất, phải là sự kiện bất khả kháng. Theo điều 161 BLDS 2005: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.” Nếu khi kí kết hợp đồng, các bên trong quan hệ đã “dự liệu” sự kiện bất khả kháng xảy ra thì khi có sự kiện bất khả kháng đó xảy ra trên thực tế sẽ không được loại trừ TNDS. Các bên trong hợp đồng đã biết trước về sự kiện bất khả kháng có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà vẫn giao kết tức là các bên chấp nhận rủi ro khi có sự kiện bất khả kháng hoặc đã có biện pháp bảo đảm nghĩa vụ. Do vậy, vấn đề loại trừ TNDS không được đặt ra trong trường hợp này. Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa. Trên đường đi, bão lớn làm hư hỏng hàng hóa. Sự kiện “bão” là sự kiện bất khả kháng. Bên có nghĩa vụ có thể được miễn TNDS trừ trường hợp giữa A và B đã có thỏa thuận về sự kiện bất khả kháng này trong hợp đồng. - Thứ hai, sự kiện bất khả kháng và vi phạm hợp đồng có mối liên hệ với nhau. Nói cách khác, sự kiện bất khả kháng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vi phạm hợp đồng. Tương tự 16 17 như ví dụ đã nêu ở trên, nếu hàng hóa hư hỏng do sự kiện bất khả kháng là bão lớn thì được miễn TNDS nếu các bên không có thỏa thuận khác còn trong trường hợp có bão xảy ra nhưng hàng hóa hư hỏng vì B bảo quản không tốt (không phải do bão) thì B vẫn phải chịu TNDS. Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh sự kiện bất khả kháng là nguyên nhân làm phát sinh vi phạm hợp đồng. Nếu không thể chứng mình được thì không được loại trừ TNDS. Đây là quy định hợp lí, chặt chẽ của BLDS, hạn chế việc lợi dụng “sự kiện bất khả kháng” để vi phạm hợp đồng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên liên quan. - Thứ ba, khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra, bên có nghĩa vụ đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép nhưng thiệt hại vẫn xảy ra. Nếu bên có nghĩa vụ có khả năng khắc phục, hạn chế thiệt hại nhưng không thực hiện mà để mặc hậu quả xảy ra thì không được loại trừ TNDS. 4.2. Loại trừ trách nhiệm dân sự do lỗi hoàn toàn của bên có quyền. Khoản 3 Điều 302 quy định: “Bên có nghĩa vụ không phải chịu TNDS nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.” Đây là trường hợp loại trừ TNDS căn cứ vào yếu tố lỗi. Trách nhiệm chứng minh sẽ thuộc về bên vi phạm. Ví dụ: A kí kết với B hợp đồng gia công 1 bộ bàn ghế có trị giá 100 triệu đồng. Theo đó, A phải thanh toán đúng hạn khoản tiền bằng 30% giá trị hợp đồng để B mua nguyên vật liệu. Tuy nhiên, do sơ suất A đã chậm thanh toán tiền cho B dẫn đến việc giao hàng bị chậm trễ. Trong trường hợp này, nếu B chứng minh được A có lỗi dẫn đến việc nghĩa vụ bị chậm thực hiện thì B không phải chịu TNDS. 4.3. Trường hợp loại trừ trách nhiệm dân sự do thỏa thuận trong hợp đồng. Ngoài hai trường hợp đã nêu ở trên, các bên có thể tự thỏa thuận trong hợp đồng những trường hợp khác để loại trừ TNDS của bên vi phạm. Khoản 6 Điều 402 BLDS quy định “Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về…Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.” Như vậy, pháp luật cho phép các chủ thể được phép thỏa thuận về các các điều kiện loại trừ TNDS do vi phạm hợp đồng, không bắt buộc xem xét đến yếu tố lỗi, sự kiện bất khả kháng, bên có quyền hoàn toàn có lỗi… Chỉ cần điều kiện loại trừ TNDS tồn tại trong hợp đồng thì bên vi phạm được loại trừ TNDS theo quy định của hợp đồng. Tuy nhiên, dù pháp luật cho phép các bên tự do thỏa thuận về các điều khoản loại trừ TNDS nhưng các điều khoản này phải phù hợp với quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Ví dụ: A và B có giao kết một hợp đồng vận chuyển hàng hóa. Thời điểm giao hàng là 10/10/2010. Tuy nhiên, do địa hình khu vực giao nhận hàng tương đối hiểm trở nên các bên có thỏa thuận cho phép B 17 18 không phải chịu trách nhiệm giao hàng chậm không quá 5 ngày (trước ngày 15/10/2010). Đến ngày 12/10/2010, B thực hiện việc giao hàng cho A. Trong tình huống này, B đã vi phạm hợp đồng khi chậm thực hiện nghĩa vụ nhưng do giữa các bên đã có thỏa thuận về việc loại trừ TNDS nên khi có đủ các điều kiện hợp đồng đã quy định, B không phải chịu TNDS do vi phạm hợp đồng. III. ĐÁNH GIÁ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. Vấn đề “TNDS do vi phạm hợp đồng” có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Quy định của pháp luật về vấn đề này là cơ sở đảm bảo việc thực hiện hợp đồng trên thực tế, đảm bảo quyền và lợi ích của các bên, khắc phục những thiệt hại xảy ra (nếu có). Các quy định này vừa là căn cứ pháp lý cho việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến vi phạm hợp đồng, vừa là biện pháp để hạn chế các tranh chấp phát sinh, góp phần làm lành mạnh hóa các giao lưu dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên liên quan. Các quy định của BLDS về “TNDS do vi phạm hợp đồng” hiện nay khá chi tiết và đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế, vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật về vấn đề này. Cụ thể: - Các quy định của pháp luật chưa có sự thống nhất. Đặc biệt là BLDS và Luật thương mại. Ví dụ: BLDS quy định có 4 căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường hợp đồng, trong khi đó, Luật thương mại chỉ quy định 3 căn cứ (không bao gồm yếu tố “lỗi”). Về vấn đề loại trừ TNDS, nếu BLDS chỉ đặt ra hai căn cứ miễn trách nhiệm là sự kiện bất khả kháng và lỗi của bên bị vi phạm (còn lại là trường hợp miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng) thì Luật Thương mại 2005 lại quy định bốn trường hợp là căn cứ miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm tại Điều 294: “Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận; Xảy ra sự kiện bất khả kháng; Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.” Ngoài ra, về vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay, BLDS 2005 và Luật thương mại cũng có những điểm chưa thống nhất. Theo khoản 5 Điều 474 BLDS 2005, trường hợp vay có lãi đến hạn mà bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Trong khi đó, Điều 306 Luật Thương mại 2005 quy định, bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán phải trả lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại 18 19 thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. - Quy định của BLDS 2005 về chế định “phạt vi phạm hợp đồng” là chưa hợp lí. “Phạt vi phạm” không được xếp vào là một trong các loại TNDS mặc dù đây là biện pháp được áp dụng phổ biến trong thực tế. BLDS cũng chưa quy định thực sự cụ thể về mối liên hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại như Luật thương mại năm 2005 (Điều 307) và BLDS 1995 (Điều 379). Ngoài ra, về mức phạt, BLDS 2005 rõ ràng có sự “cởi mở” hơn so với Luật thương mại khi tạo điều kiện cho các bên tham gia quan hệ hợp đồng tự thỏa thuận về mức phạt vi phạm hợp đồng. Tuy vậy, sự “cởi mở” này chưa hẳn đã hợp lí. BLDS cũng cần phải có những quy định về giới hạn mức phạt vi phạm hợp đồng, tương tự như Luật thương mại, tránh những trường hợp mức tiền phạt quá thấp, không đủ tính răn đe hoặc quá cao, đến mức vô lý, gây bất lợi cho các bên trong quan hệ hợp đồng. - BLDS chưa có quy định về trường hợp BTTH do vi phạm hợp đồng xảy ra do lỗi của cả hai bên mặc dù đây là trường hợp rất phổ biến trong thực tiễn. Việc thiếu cơ sở pháp lý gây rất nhiều khó khăn, vướng mắc khi giải quyết tranh chấp trong trường hợp này. - Về trường hợp miễn trừ TNDS do thỏa thuận: BLDS chưa đặt ra những điều kiện nhất định để đảm bảo sự tôn trọng của các bên trong hợp đồng và hạn chế việc bên có lợi thế hơn trong giao kết hợp đồng lợi dụng căn cứ miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng để đặt ra những trường hợp miễn trách nhiệm có lợi cho mình. Thỏa thuận miễn trừ TNDS trong hợp đồng cần phải đảm bảo điều kiện về tính “hợp lí”. Một thỏa thuận bất hợp lý, không đảm bảo công bằng giữa các bên trong quan hệ hợp đồng thì không thể trở thành căn cứ miễn TNDS. - Ngoài ra, trên thực tế, có những trường hợp hợp đồng hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về cả nội dung lẫn hình thức, nhưng vì lý do nào đó phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng nên một trong hai bên thay đổi ý định, không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Ví dụ: A và B đã giao kết một hợp đồng mua bán tài sản. Hợp đồng này hoàn toàn hợp pháp cả về nội dung và hình thức. Sau đó, do tìm được người mua trả giá cao hơn B nên A cố tình không giao tài sản cho B. Trong những trường hợp này, nếu bên bị vi phạm khởi kiện, Tòa án thường xử hủy hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng. Cách giải quyết này thường gây bất lợi cho bên bị vi phạm. IV. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT. 19 20 - Thứ nhất, cần phải thống nhất các quy định của pháp luật, đặc biệt là BLDS năm 2005 và Luật thương mại 2005. Cần có hướng sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật chuyên ngành theo đúng hướng điều chỉnh mà BLDS – “bộ luật gốc” của các ngành luật tư – quy định. - Thứ hai, hoàn thiện các quy định theo hướng cụ thể, chặt chẽ hơn về chế định “phạt vi phạm hợp đồng”. Cần nhìn nhận biện pháp này như một loại TNDS áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, cần bổ sung các quy định về giới hạn mức phạt vi phạm trong BLDS cũng như có các quy định cụ thể hơn về mối liên hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng làm căn cứ áp dụng trên thực tiễn. - Thứ ba, hoàn thiện quy định về các trường hợp miễn trừ TNDS. Cần có các quy định độc lập, cụ thể về “Sự kiện bất khả kháng” thay vì quy định phân tán trong nhiều điều luật như hiện nay. Đối với trường hợp loại trừ TNDS do thỏa thuận, cần đặt ra các điều kiện nhằm đảm bảo sự tôn trọng hợp đồng của các bên, hạn chế việc lợi dụng “thỏa thuận” để trốn tránh TNDS. Ngoài ra, khi xem xét thỏa thuận miễn trừ TNDS, cần đánh giá tính “hợp lí” của thỏa thuận đó, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan trong hợp đồng. - Thứ tư, cần có sự phân định rõ ràng giữa TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng. Phần “TNDS” được BLDS quy định từ Điều 302 đến điều 308. Trong đó, hầu hết là các nội dung của TNDS do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, các quy định này không có sự phân định rõ ràng giữa TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng, gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế, ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể trong quan hệ hợp đồng. Do vậy, trong kết cấu của BLDS cần phải có sự tách biệt rõ ràng giữa 2 loại TNDS này, tránh nhầm lẫn khi áp dụng, bảo đảm quyền lợi của các bên liên quan khi có tham gia các QHDS. C. KẾT LUẬN. TNDS do vi phạm hợp đồng là một chế định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của BLDS năm 2005. Các quy định của BLDS về vấn đề này hiện nay tuy khá chi tiết và đầy đủ nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế khi áp dụng trong thực tế. Do đó, việc hoàn thiện, khắc phục những vướng mắc, thiếu sót của các quy định pháp luật về vấn đề “TNDS do vi phạm hợp đồng” là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay. Giải quyết được những nhược điểm còn tồn tại của BLDS là cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần làm lành mạnh hóa các giao lưu dân sự, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tất cả các bên liên quan. Qua đó, tạo điều kiện phát triển hơn nữa các quan hệ dân sự, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đưa Việt Nam hội nhập và đi lên trong thời kì mới. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan