Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ và thự...

Tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ và thực tiễn thực hiện tại thành phố hải phòng (luận văn thạc sĩ luật học)

.PDF
90
158
140

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI Nguyễn Ngọc Đại TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60380103 Người hướng dẫn khoa học: TS.Lê Đình Nghị HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi. Hà Nội, tháng 11 năm 2016 Xác nhận của giáo viên hướng dẫn Tên tác giả TS. Lê Đình Nghị Nguyễn Ngọc Đại LỜI CẢM ƠN Luận văn này được thực hiện tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của nhiều cá nhân và tập thể. Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Đình Nghị đã hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình. Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm học vừa qua. Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo sau đại học, Khoa Pháp luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập. Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Hà Nội, tháng 11 năm 2016 Nguyễn Ngọc Đại DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS - Bộ luật dân sự BLHS - Bộ luật hình sự TAND - Tòa án nhân dân TP - Thành phố BTTH - Bồi thường thiệt hại TNBTTH - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại TNGT - Tai nạn giao thông TNGTĐB - Tai nạn giao thông đường bộ DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 1. Bảng 1. Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2005 đến năm 2014; 2. Bảng 2: Cơ cấu xét theo số người chết do TGTĐB trong các vụ án đã xét xử theo Điều 202 BLHS 1999 và số người chết do TNGTĐB (không khởi tố hình sự) trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2005 đến năm 2014. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ5 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 5 1.2. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 8 1.3. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 21 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ HIỆN HÀNH 27 2.1. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 27 2.2. XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 33 2.3. XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 44 2.4. CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRỪ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI, GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ. 48 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ52 3.1. TÌNH HÌNH TRẬT TỰ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG THỜI GIAN QUA. 52 3.2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TNGTĐB TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 57 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BTTH TRONG CÁC VỤ TNGTĐB 72 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tai nạn giao thông đường bộ là một trong những nguyên nhân gây tử vong cao hàng đầu cho người tại Việt Nam, trung bình mỗi năm ở nước ta có gần 13.000 người chết vì TNGTĐB và hàng chục nghìn người khác bị thương. Cùng với đó là những thiệt hại khổng lồ khác về kinh tế như: thiệt hại về phương tiện giao thông, hạ tầng giao thông, chi phí khắc phục điều tra các vụ tai nạn giao thông, chi phí y tế chăm sóc sức khoẻ cho những nạn nhân… Mặt khác, TNGTĐB cũng ảnh hưởng đến tâm lý, tinh thần trước mắt cũng như lâu dài cho họ. TNGTĐB xảy ra đã xâm phạm tới tính mạng, sức khoẻ, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân trong xã hội được pháp luật bảo vệ, do đó cần phải được đền bù một cách đầy đủ, kịp thời và toàn diện. Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết các vụ TNGTĐB, không phải lúc nào quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng được đảm bảo một cách đầy đủ, nguyên nhân là do các quy định của pháp luật còn có nhiều vướng mắc gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Mặt khác, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ TNGTĐB là hết sức phức tạp, khó khăn cả trong lí luận và thực tiễn. Xuất phát từ thực trạng đó, cùng với việc tìm hiểu, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về TNBTTH trong các vụ TNGTĐB trên địa bàn thành phố Hải Phòng, học viên đã quyết định lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hải Phòng” cho luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài. Trong thời gian qua, việc nghiên cứu về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Đã có rất nhiều những bài viết, các công trình khác nhau nghiên cứu về TNBTTH trong các vụ TNGTĐB như bài viết “Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ án Vi phạm quy 8 định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” của tác giả Bùi Huy Hưng đăng tải trên Tạp chí Toà án nhân dân số 02 năm 2016, “Một số vướng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về trật tự an toàn giao thông đường bộ” của tác giả Nguyễn Đức Mai đăng tải trên Tạp chí Toà án nhân dân số 22 năm 2009… Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ chuyên ngành luật đề cập đến TNBTTH trong các vụ TNGTĐB như học viên Trần Quỳnh Phượng (2011) Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ án tai nạn giao thông đường bộ tại thành phố Huế từ năm 2006 đến năm 2009, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hộiViện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; học viên Nguyễn Thanh Hồng (2001) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông, luận án tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Trên cơ sở tìm hiểu các tác phẩm nêu trên chúng tôi nhận thấy rằng, việc nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về TNBTTH hại trong các vụ TNGTĐB dưới góc độ lý luận và thực tiễn thì chưa được thể hiện ở các công trình này, đặc biệt là sau khi BLDS 2005 ra đời. Với đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hải Phòng” chúng tôi mong muốn đây sẽ là công trình nghiên cứu một cách tổng thể và cơ bản về tất cả các khía cạnh pháp lý của TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. 3. Đối tượng, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận chung về TNBTTH ngoài hợp đồng trong các vụ TNGTĐB; căn cứ pháp lý của TNBTTH và thực tiễn giải quyết BTTH trong các vụ TNGTĐB tại địa bàn thành phố Hải Phòng và của toàn quốc. * Mục đích nghiên cứu đề tài Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, mục đích của việc nghiên cứu đề tài được xác định: Phân tích làm rõ các nội dung lý luận về TNBTTH trong các vụ TNGTĐB, phân tích các quy định của pháp luật thực định về TNBTTH trong các 9 vụ TNGTĐB và thực tiễn vận dụng từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. * Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Luận văn được hoàn thành thực hiện được các nhiệm vụ sau đây: - Làm rõ khái niệm, đặc điểm của TNGTĐB; - Làm rõ khái niệm về TNBTTH trong các vụ TNGTĐB và phân loại TNBTTH trong các vụ TNGTĐB; - Tìm hiểu lịch sử hình thành các quy định pháp luật về BTTH trong các vụ TNGTĐB; - Phân tích các căn cứ phát sinh TNBTTH, xác định thiệt hại, TNBTTH và các trường hợp miễn trừ trách nhiệm bồi thường, giảm mức bồi thường trong các vụ TNGTĐB của BLDS 2005 và so sánh với BLDS 2015; - Tìm hiểu tình hình TNGTĐB và thực tiễn vận dụng các quy định của pháp luật BTTH trong các vụ TNGTĐB trên địa bàn thành phố Hải Phòng, chỉ ra những bất cập của các quy định pháp luật về BTTH trong các vụ TNGTĐB và hướng hoàn thiện pháp luật về BTTH trong các vụ TNGTĐB 4. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài là cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Bên cạnh đó, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như: Tổng hợp, phân tích, thống kê… để làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung nghiên cứu. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Các kết quả nghiên cứu và kiến nghị của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học, các cơ quan xây dựng luật để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. 10 Đồng thời các kết quả nghiên cứu cũng có giá trị tham khảo đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan, người làm công tác giải quyết việc BTTH trong các vụ TNGTĐB. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ Chương 2: Nội dung trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ theo pháp luật dân sự hiện hành Chương 3: Thực tiễn thực hiện bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ tại thành phố Hải Phòng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ. 11 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 1.1.1. Khái niệm tai nạn giao thông đường bộ Tai nạn giao thông hay tai nạn giao thông đường bộ đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người dưới nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có một định nghĩa nào thật chính xác có thể lột tả hết những đặc tính của nó. Khi nghiên cứu về TNGT, đã có rất nhiều khái niệm về tai nạn giao thông khác nhau được đưa ra: Theo Wikipedia tiếng Việt định nghĩa về TNGT: “Tai nạn giao thông là sự việc bất ngờ xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người điều khiển phương tiện giao thông khi đang di chuyển trên đường giao thông, do vi phạm các quy tắc an toàn giao thông hay do gặp những tình huống, sự cố đột xuất không kịp phòng tránh, gây nên thiệt hại nhất định về người và tài sản.” Cũng theo Wikipedia, TNGTĐB được định nghĩa là: “Tai nạn giao thông đường bộ là TNGT xảy ra đối với những phương tiện giao thông đang tham gia giao thông trên các tuyến đường bộ hay trên đường chuyên dùng và đối với người đi bộ.” Theo tác giả Đỗ Đình Hoà định nghĩa: “Tai nạn giao thông là sự kiện bất ngờ, nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người, xảy ra khi các đối tượng tham gia giao thông trên đường giao thông công cộng, đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông công cộng, nhưng do chủ quan, vi phạm các quy tắc an toàn giao thông hoặc do gặp phải các tình huống, sự cố đột xuất không kịp phòng tránh đã gây ra những thiệt hại nhất định cho tính mạng, sức khoẻ con người hoặc tài sản của Nhà nước và nhân dân”1 1 Bộ Công an (1997), "Tai nạn giao thông, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa", Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội, trang 20 12 Theo tác giả Đào Công Hải, thì "Tai nạn giao thông là tai nạn xảy ra khi các đối tượng tham gia trên đường giao thông công cộng gây nên: - Thiệt hại về sức khỏe, tính mạng con người - Thiệt hại về tài sản hoặc thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản".2 Theo tác giả Vũ Mạnh Thắng: “Tai nạn giao thông là sự việc xảy ra bất ngờ do người tham gia giao thông hoặc vi phạm các quy định về trật tự an toàn giao thông hoặc gặp phải tình huống, sự cố đột xuất, không kịp xử lý, có thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người, thiệt hại về tài sản”3 Một định nghĩa khác ngắn gọn hơn đó là: “Tai nạn giao thông đường bộ là một sự việc bất ngờ xảy ra ngoài ý muốn của người điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ khi đang tham gia giao thông.” Mỗi khái niệm, định nghĩa trên đều có một cách diễn giải khác nhau về TNGT và TNGTĐB tuy nhiên tổng hợp các điểm chung nhất từ các khái niệm nêu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm chung về TNGTĐB như sau: TNGTĐB là một sự kiện xảy ra bất ngờ do hành vi của con người vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ hoặc do sự cố đột xuất, do các trường hợp bất khả kháng gây ra trong quá trình tham gia giao thông đường bộ của con người gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản cho con người. 1.1.2. Đặc điểm của tai nạn giao thông đường bộ Dựa vào khái niệm về TNGTĐB đã nêu trên và từ các nhận xét, đánh giá trong thực tế, có thể thấy TNGTĐB có một số đặc điểm sau đây: Thứ nhất, TNGTĐB là một sự kiện xảy ra bất ngờ, ngoài ý muốn do hành vi của vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ của con người, do 2 Bộ Công an (1997), "Tai nạn giao thông, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa", Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội, trang 82. 3 Bộ Công an (1999), Tạp chí Công an nhân dân, số 9, trang 12 13 sự cố đột xuất hoặc do các trường hợp bất khả kháng gây nên khi đang tham gia giao thông đường bộ. Đây là đặc điểm nổi bật, dễ nhận thấy nhất của các vụ TNGTĐB. Pháp luật luôn đặt ra các quy định về an toàn giao thông đường bộ để buộc người tham gia giao thông phải chấp hành. Khi người tham gia giao thông không tuân thủ các quy định về an toàn giao thông đường bộ (vượt đèn đỏ, điều khiển xe vượt quá tốc độ cho phép…) sẽ tạo điều kiện cho TNGTĐB xảy ra, tuy nhiên không phải cứ có hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ thì sẽ gây nên TNGTĐB. TNGTĐB phải là một “sự kiện xảy ra bất ngờ”, người tham gia giao thông không thể nhìn thấy trước được hậu quả hoặc không thể nhận thức khả năng gây hậu quả của hành vi của mình và do người tham gia giao thông vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ và do các sự cố đột xuất, trường hợp bất khả kháng gây nên Thứ hai, TNGTĐB không gây ra thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và uy tín mà nó chỉ gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản. Danh dự cá nhân là sự coi trọng của dư luận xã hội đối với cá nhân đó, dựa trên những giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp; nhân phẩm của cá nhân là những phẩm chất và giá trị con người của cá nhân đó còn uy tín cá nhân thể hiện ở sự tín nhiệm và mến phục của cộng đồng hoặc một bộ phận dân cư đối với cá nhân đó4. Các hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín có thể kể đến là: làm nhục, vu khống, Tuy pháp luật không quy định cụ thể các hành vi nào là hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm và uy tín của cá nhân nhưng có thể khẳng định rằng hành vi của con người vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ hoặc do sự cố đột xuất, do các trường hợp bất khả kháng gây ra trong quá trình tham gia giao thông đường bộ của con người chỉ xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ và tài sản cho các nạn nhân và người thân của họ chứ không thể làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của những người đó. 4 PGS. TS. Hoàng Thế Liên (2008), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 - Tập I, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14 Thứ ba, các vụ TNGTĐB khi xảy ra rất khó xác định lỗi của các bên và nguyên nhân gây thiệt hại. Các vụ TNGTĐB thường xảy ra bất ngờ, nhanh chóng, nếu là ban đêm thì ít khi có người làm chứng, nếu là ban ngày thì người đi đường khó chứng kiến đầy đủ diễn biến của nó; hoặc nếu có chứng kiến rõ chăng nữa thì ít người dừng lại để đứng chờ khai báo sự việc với cơ quan Công an đặc biệt là ở những khu vực hẻo lánh, ít dân cư. Các bên trong vụ TNGTĐB thường cố tình đưa ra lời khai có lợi cho mình, gây khó khăn cho việc xác định phần lỗi và trách nhiệm bồi thường của từng bên. Việc dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra cũng chỉ mang tính tương đối. Thứ tư, chỉ được gọi là TNGTĐB nếu hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ là do lỗi có lỗi vô ý hoặc không có lỗi. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra trong quá trình tham gia giao thông được thực hiện do lỗi cố ý hoặc không có lỗi do đây là một sự kiện bất ngờ nằm ngoài ý chí chủ quan của của những người tham gia giao thông. Trường hợp người gây tai nạn mong muốn thiệt hại xảy ra thì không thể gọi là TNGTĐB mà tùy từng trường hợp sẽ có tên gọi tương ứng. Ví dụ 1: Do có mâu thuẫn trong làm ăn nên nhân lúc A đang đi bộ sang đường, B đã cố tình điều khiển xe ôtô đâm thẳng vào A, hậu quả làm ông A thiệt mạng tại chỗ. Đây là một vụ Giết người chứ không phải là một vụ TNGTĐB do hành vi của A là hành vi cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của người khác. Ví dụ 2: C vốn là người không ưa gì D nên luôn tìm cách “chọc tức” D. Khi D đang dựng xe máy uống nước bên bờ sông, thì C bèn giả vờ điều khiển xe máy đi vào “ổ gà” gần đó làm xe mất lái rồi đâm vào xe máy của D làm xe máy của D rơi xuống sông. Trong trường hợp này hành vi của C là một hành vi huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. 1.2. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ 15 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ Trước hết, cần khẳng định: Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ. Khoản 19 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 có quy định: “Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.” Còn Khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 liệt kê những nguồn nguy hiểm cao độ trong thực tế: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”. Theo điểm b Mục 1 Phần III Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì: “Để xác định nguồn nguy hiểm cao độ cần phải căn cứ vào khoản 1 Điều 623 BLDS và văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan hoặc quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực cụ thể đó” Như vậy có thể hiểu, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là một hình thức của phương tiện giao thông vận tải cơ giới và phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ. Ngoài ra, phương tiện giao thông cơ giới đường bộ còn đáp ứng đặc điểm là nguồn nguy hiểm cao độ là bởi hoạt động “tự thân” của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh. (ví dụ: xe ôtô mất phanh gây tai nạn…) Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là nguồn nguy hiểm cao độ, do vậy khi vận hành, đưa phương tiện giao thông cơ giới đường bộ vào hoạt động trên đường bộ thì có thể gây nguy hiểm cao độ cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của con người do vậy pháp luật có những quy định nghiêm ngặt trong việc 16 trông giữ, vận hành, sử dụng… phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, cụ thể ở đây là các quy định về an toàn giao thông đường bộ để tránh cho thiệt hại xảy ra. Các vụ TNGTĐB chỉ có thể xảy ra nếu con người có hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ mà gây ra TNGTĐB làm thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe và tài sản cho con người (không thể gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín như đã phân tích ở trên) thì sẽ phát sinh TNBTTH, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. TNBTTH trong các vụ TNGTĐB bao gồm cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. Tuy nhiên trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ xem xét TNBTTH trong các vụ TNGTĐB như là một loại TNBTTH ngoài hợp đồng Từ những sự phân tích và nhận định nêu trên, tác giả xin đưa ra khái niệm TNBTTH trong các vụ TNGTĐB như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được phát sinh khi người nào có hành vi vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ gây ra gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản cho con người. 1.2.2. Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ được chia làm 2 loại gồm: TNBTTH do hành vi trái pháp luật của con người gây ra TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra 1.2.2.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người gây ra Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con người gây ra, có 2 trường hợp đáng chú ý đó là: BTTH trong trường hợp người bị hại có lỗi và BTTH trong trường hợp có lỗi của nhiều người 1.2.2.1.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị hại có lỗi 17 Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi được quy định tại Điều 617 BLDS 2005: "Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải bồi thường." Khi thiệt hại xảy ra mà người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại, thì họ phải chịu trách nhiệm tương ứng với mức độ lỗi của mình. Thực chất, trong trường hợp này người bị thiệt hại xác định rõ mức độ lỗi của mỗi bên để ấn định trách nhiệm bồi thường. Vì người bị thiệt hại cũng có lỗi, nhưng họ lại là người bị thiệt hại, do vậy, họ không phải “bồi thường” cho mình. Trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường không phải là trách nhiệm liên đới. Người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình. Tuy nhiên, việc xác định mức độ lỗi của người gây thiệt hại gặp rất nhiều khó khăn. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại, tức là người gây ra thiệt hại không có lỗi thì họ không phải bồi thường thiệt hại. Ví dụ: Một người cố ý lao vào ô tô để tự tử...5 1.2.2.1.2 Bồi thường thiệt hại trong trường hợp có lỗi của nhiều người Bồi thường thiệt hại ngoài hợp do nhiều người gây ra được quy định tại Điều 616 BLDS 2005, cụ thể như sau: " Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của từng người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau." Theo quy định trên đây thì trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cũng là một loại nghĩa vụ liên đới; các chủ thể trong trách nhiệm liên đới là những chủ thể cùng gây thiệt hại cho phía người bị hại. Điều 616 BLDS chỉ quy định cụ thể 5 PGS. TS. Hoàng Thế Liên (2008), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005 - Tập I, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18 thế nào là "cùng gây thiệt hại". Điều đó đã dẫn đến có hai cách hiểu khác nhau trong thực tiễn nhận thức và áp dụng pháp luật. Một trường hợp thực tiễn cụ thể như sau: A là người điều khiển xe mô tô lưu thông trên đường Quốc lộ 1A phía sau chở B, do chạy quá tốc độ, vượt ẩu, A đã chạy xe ra gần giữa đường và đâm vào chắn bùn bánh xe bên trái xe ô tô do C điều khiển đang lưu thông ngược chiều gây tai nạn làm B bị thương nặng. Qua kết quả khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ khác cho thấy C đã không giảm tốc độ khi tránh xe ngược chiều, chạy lấn sang phấn đường bên trái 15 cm so với tim đường, Tòa án kết luận cả A và C đều có lỗi đối với thiệt hại về sức khỏe của B, cả A và C đều phải chịu TNBTTH cho B. Tuy nhiên, việc áp dụng điều luật của BLDS để giải quyết việc bồi thường trong trường hợp này đã có hai ý kiến khác nhau: Ý kiến thứ nhất cho rằng, cần áp dụng Điều 616 BLDS để buộc A và C phải liên đới bồi thường thiệt hại vì cho rằng, trong trường hợp này cả A và C đều có lỗi đối với thiệt hại của B, hay nói cách hành vi trái pháp luật của A và hành vi trái pháp luật của C là nguyên nhân gây ra là hậu quả thiệt hại về sức khỏe của B; mặt khác Điều 616 BLDS chỉ quy định chung chung là "cùng gây thiệt hại" chứ không trực tiếp chỉ rõ là "cố ý" hay "vô ý" nên trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại vẫn đặt ra đối với trường hợp trên. Ý kiến thứ hai cho rằng, trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh trong trường hợp những người có hành vi trái pháp luật đều "cùng cố ý" gây ra thiệt hại, hoặc những trường hợp khác do pháp luật quy định. Trong trường hợp trên, tuy xét về mặt khách quan thì hành vi của A và hành vi của C xảy ra đồng thời, đều đóng vai trò là nguyên nhân gây ra thiệt hại đối với B, nhưng giữa A và B không có sự "cùng cố ý", do vậy, trường hợp trên không thể áp dụng Điều 616 để buộc A và C phải liên đới bồi thường thiệt hại được. 6 6 Đăng Văn Quý, “Bàn về quy định trách nhiệm liên đới tại Điều 616 Bộ luật Dân sự”, tại địa chỉ: http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id= 33430595&article_details=1, truy cập ngày 01/8/2007 19 Quan điểm của chúng tôi đồng ý với cách hiểu thứ hai, trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại chỉ xảy ra khi các chủ thể gây thiệt hại cùng có lỗi cố ý, hay nói cách khác họ phải cùng cố ý gây thiệt hại. "Cùng cố ý" vừa thể hiện cả về mặt khách quan và chủ quan. Về khách quan, "cùng cố ý" có nghĩa là các chủ thể gây thiệt hại cùng thực hiện hành vi trái pháp luật. Hành vi của họ có thể là cùng loại hoặc không, nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện, tiền đề của nhau hoặc hành vi của người này là hậu quả của hành vi người kia. Về chủ quan, các chủ thể hành vi trái pháp luật đều nhận thức được tính trái pháp luật của hành vi của mình cũng như tính trái pháp luật của hành vi của người khác cùng thực hiện với mình và họ đều thấy trước được hậu quả thiệt hại của hành vi của mình cũng như hành vi của người cùng thực hiện với mình, cùng mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả (thiệt hại) xảy ra. Trong các vụ TNGTĐB, hành vi vi phạm các các quy định về an toàn giao thông đường bộ chỉ có lỗi vô ý, nhiều người cùng có lỗi gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản cho người khác thì không thể coi là “cố ý cùng gây thiệt hại” mà chỉ coi là cùng gây ra hậu quả với lỗi vô ý. Điều 616 BLDS 2005 bên cạnh việc quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại còn quy định phương pháp xác định mức bồi thường thiệt hại của các chủ thể căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi người, nếu không các định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau. Do vậy, nếu có nhiều người cùng gây hậu quả với lỗi vô ý thì họ sẽ BTTH theo mức độ lỗi của mỗi người, nghĩa là chia tách hậu quả theo mức độ lỗi tương ứng, nếu không xác định được mức độ lỗi thì phải bồi thường theo phần bằng nhau. Về mặt thực tiễn xét xử các vụ TNGTĐB do lỗi của nhiều người cùng gây ra cho thấy toà án đều buộc các bị cáo chịu trách nhiệm về hình sự cũng như dân sự phần hậu quả chung của vụ án, chưa có trường hợp nào chia tách hậu quả của vụ án.7 7 Trần Quỳnh Phượng (2011) Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ án tai nạn giao thông đường bộ tại thành phố Huế từ năm 2006 đến năm 2009, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội-Viện khoa học xã hội Việt Nam, trang 48 20 1.2.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại TNBTTH trong các vụ TNGTĐB Về mặt thực tiễn xét xử các vụ TNGTĐB do lỗi của nhiều người cùng gây ra cho thấy toà án đều buộc các bị cáo chịu trách nhiệm về hình sự cũng như dân sự phần hậu quả chung của vụ án, chưa có trường hợp nào chia tách hậu quả của vụ án.8 1.2.2.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại TNBTTH trong các vụ TNGTĐB. TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm do tài sản gây ra, thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động “tự thân” của nguồn nguy hiểm cao độ luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. * Các điều kiện phát sinh TNBTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra - Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ. Tính nguy hiểm của nguồn nguy hiểm cao độ còn thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại. Đối với nguồn nguy hiểm cao độ, pháp luật thường có những quy định nghiêm ngặt trong việc trông giữ, vận hành, sử dụng, vận chuyển… chúng để tránh gây thiệt hại. Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm cao độ rất đa dạng và do 8 Trần Quỳnh Phượng (2011) Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong các vụ án tai nạn giao thông đường bộ tại thành phố Huế từ năm 2006 đến năm 2009, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội-Viện khoa học xã hội Việt Nam, trang 48
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan