TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
(NIÊN KHÓA 2006-2010)
ĐỀ TÀI:
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO TÀI SẢN GÂY RA.
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Giáo viên hướng dẫn:
Ths.TĂNG THANH PHƯƠNG
SVTH: HỒ THỊ THẮM
MSSV: 5062358
LỚP: TƯ PHÁP 2-K32
Cần Thơ, tháng 4/ 2010
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO TÀI SẢN GÂY RA ...........................................................3
1.1 Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ...........3
1.1.1 Định nghĩa ........................................................................................ 3
1.1.2 Đặc điểm .......................................................................................... 4
1.1.3 Phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng............................................ 5
1.2. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra .... 6
1.2.1 Định nghĩa ........................................................................................ 6
1.2.2 Đặc điểm ...........................................................................................6
1.3. Lịch sử phát triển của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
tài sản gây ra trong pháp luật Việt Nam .....................................................7
1.3.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra Thời Lê, Nguyễn 7
1.3.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra dưới thời Pháp
thuộc ....................................................................................................11
1.3.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra từ sau thời Pháp
thuộc đến nay ...............................................................................................13
1.4. Một số trường hợp cụ thể do luật quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra ..............................................................16
1.4.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra .......................................................................................................16
1.4.2 Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra .............................................18
1.4.3 Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra ............................................19
1.4.4 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng
khác gây ra ...................................................................................................20
1.5. Ý nghĩa .............................................................................................. 21
CHƯƠNG 2 CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO TÀI SẢN GÂY RA .........................................................23
2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
23
2.1.1 Phải có thiệt hại xảy ra ...................................................................23
2.1.2 Phải có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật .....................................25
2.1.3 Phải có lỗi của người gây thiệt hại ................................................. 26
2.1.4 Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp
luật ..............................................................................................................30
2.2. Xác định thiệt hại được bồi thường ..................................................31
2.2.1 Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm ...............................32
2.2.2 Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm ........................................... 36
2.2.3 Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm ................................................. 39
2.3. Các chủ thể có trách nhiệm bồi thường trong mối quan hệ bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra.............................................................. 40
2.3.1 Chủ thể phải bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra ........................ 40
2.3.2 Các chủ thể khác trong mối quan hệ bồi thường thiệt hại do tài sản
gây ra ......................................................................................................42
2.3.3 Những trường hợp chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu tài sản
không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra ...............43
2.4. Thời hiệu khởi kiện yều cầu bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra 44
2.5. Thể thức bồi thường .........................................................................45
2.5.1 Thời điểm phát sinh quyền yêu cầu bồi thường .............................. 45
2.5.2 Hình thức bồi thường thiệt hại........................................................ 46
2.5.2.1 Bằng hiện vật ......................................................................... 46
2.5.2.2 Bằng tiền ................................................................................46
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM YÊU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN GÂY
RA
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN ..................................................................... 48
3.1.Thực trạng .........................................................................................48
3.2. Hướng hoàn thiện ............................................................................. 56
KẾT LUẬN .................................................................................................60
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng , những thành tựu mới của công
nghiệp hóa, cơ giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh, với những trang
thiêt bị hiện đại. Tuy nhiên, mặt trái của nó là kéo theo sự gia tăng các tai nạn
mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con
người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản…của con người
trong xã hội. Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây
chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả
năng gây thiệt hại cho con người. Kể cả những tài sản tưởng chừng như chúng
chỉ có giá trị mang lại cho con người lợi ích nhất định, như: xe cộ, nhà cửa, công
trình xây dựng, cây cối, gia súc và các đồ vật khác , nhưng cũng là những nguồn
gây thiệt hại đáng kể cho những người xung quanh. Từ thực trạng đó mà Pháp
luật hiện hành cũng đã có những quy định liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra. Mục tiêu của các quy định này nhằm góp phần khắc phục
nhanh chóng các tổn thất, duy trì và phát triển trật tự xã hội một cách bền vững.
Việc khôi phục các thiệt hại do tài sản gây ra tương tự như việc khôi phục thiệt
hại do các chủ thể khác gây ra. Nhưng qua tìm hiểu có thể thấy cho đến nay,
trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra vẫn là
một vấn đề phức tạp.Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu nhằm hoàn thiện và bổ
sung các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm pháp lý dân sự trong bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra để điều chỉnh một cách đầy đủ, chặt chẽ và hợp
lý những quan hệ phát sinh nếu có là rất cần thiết, có ý nghĩa về nhiều phương
diện. Từ thực tiễn đó người viết đi tìm hiểu những vấn đề liên quan như khái
niệm, các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường, chủ thể phải chịu trách
nhiệm bồi thường, người được bồi thường, mức và phương thức bồi thường…
được quy định trong pháp luật hiện hành để đối chiếu với việc áp dụng thực tiễn,
từ đó tìm ra những điểm còn bất cập và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện những
quy định của pháp luật về loại trách nhiệm này
Xuất phát từ lý do đó người viết chọn đề tài “ Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do tài sản gây ra” đề làm luận văn tốt nghiệp ra trường cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
nói riêng đã có khá nhiều bài viết chuyên đề, sách báo pháp luật đề cập đến.
GVHD: Tăng Thanh Phương
1
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Nhưng riêng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, tuy cũng có đề
cập đến nhưng dưới dạng những bài viết mang tính tham khảo vẫn còn khiếm tốn
trong vấn đề nghiên cứu chuyên sâu và có tính khoa học thực tiễn.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tìm hiểu một số quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Và đi sâu vào tìm hiểu chế định cụ thể là “ Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do tài sản gây ra”.
Đề tài hướng tới làm rõ các quy định của pháp luật về căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, những thiệt hại sẽ được bồi thường và các chủ thể
tham gia trong mối quan hệ bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong quan hệ
pháp luật trong những trường hợp cụ thể (được quy định từ Điều 623 đến Điều
627 nhưng người viết bỏ qua mà không đi vào phân tích chế định thiệt hại do môi
trường quy định tại Điều 624). Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị của người
viết nhằm hướng tới ngày càng hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề
này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề hướng tới giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra người viết sử dụng một
số phương pháp phân tích luật viết, phương pháp so sánh, đối chiếu, tham khao
tài liệu từ sách báo, tạp chí,… nhằm hệ thống hóa những vấn đề về lý luận có liên
quan đến đề tài, phân tích, đánh giá và rút ra kết luận
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh muc tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn người viết chia thành ba chương nhu sau:
Chương 1- Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Chương 2- Quy chế pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
Chương 3- Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do tài sản gây ra và hướng hoàn thiện.
GVHD: Tăng Thanh Phương
2
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÀI SẢN GÂY RA
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1 Định nghĩa
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm của một
hoặc nhiều người người phải bồi thường thiệt hại cho người khác do cố ý hoặc
vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
nhằm khôi phục lại trình trạng ban đầu của một quyền dân sự đã bị xâm phạm,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm.
- Đây là trường hợp giữa người gây thiệt hại với người bị thiệt hại không
có bất cứ một hợp đồng dân sự nào. Cả người có nghĩa vụ bồi thường và người
nhận được bồi thường điều không mong muốn xảy ra. Ví dụ: A đang lái xe trên
đường thì đột nhiên xe bị mất thắng đâm vào B làm B bị thương. Vậy A phải bồi
thường thiệt hại cho B, thiệt hại về sức khỏe do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (
Điều 623 Bộ luật dân sự 2005). Rõ ràng ở đây A và B không có một sự quen biết
hay thỏa thuận nào trước. Hơn thế nửa, A cũng không muốn xe mình bị mất
thắng để đâm trúng B và để phải bồi thường thiệt hại cho B. B lại càng không
muốn mình bị A đâm phải để được bồi thường thiệt hại.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần.
- Trong đó trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù
đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao
gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại,
thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
- Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe... cho người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin
lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về
tinh thần cho người bị thiệt hại.
- Các quyền và nghĩa vụ pháp lý trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng hoàn toàn do pháp luật quy định. Trước thời điểm phát sinh trách
nhiệm, các bên trong quan hệ pháp luật này không có quan hệ với nhau. Trong
trường hợp các bên có quan hệ hợp đồng nhưng việc gây thiệt hại không liên
quan gì đến việc thực hiện hợp đồng thì cũng là trách nhiệm bồi thường thiệt hại
GVHD: Tăng Thanh Phương
3
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
ngoài hợp đồng.
1.2 Đặc điểm
Là một loại trách nhiệm pháp lý nên ngoài những đặc điểm của trách
nhiệm pháp lý nói chung như do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp
dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi
cho người bị áp dụng, được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…. thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có những đặc điểm riêng
sau đây:
- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự. Khi
một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi
thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được
quy định trong Bộ luật dân sự ở Điều 307 và Chương XXI và các văn bản hướng
dẫn thi hành Bộ luật dân sự.
- Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành
vi vi phạm nghĩa vụ dân sự, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại
với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt
buộc). Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một
người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp đặc biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể phát
sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường
thiệt hại do tài sản gây ra.
- Về hậu quả: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng luôn mang
đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người
gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc
phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất định nếu không sẽ
không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại về tinh thần
mặc dù không thể tính toán được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy định của
pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy, thực
hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
- Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm: Ngoài người trực tiếp có hành vi gây
thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn được áp dụng
cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người
giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra
thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người
GVHD: Tăng Thanh Phương
4
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy
nghề…
1.3 Phân biệt giữa trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng là hai hình thức của trách nhiệm dân sự và đều
có đặc điểm chung đó là hậu quả về về tài sản, mà người bị thiệt hại phải gánh
chịu được chuyển sang người gây thiệt hại. Việc “chuyển giao” đó có thể được
bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế hoặc được tiến hành một cách tự nguyện.
Tuy vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng có những đặc điểm khác nhau cơ bản:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự
phát sinh do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo những
điều khoản đã được quy định trong hợp đồng lúc ký kết. Trách nhiệm trong hợp
đồng là trách nhiệm của cả hai bên (bên chịu trách nhiệm và bên bị thiệt hại) có
quan hệ hợp đồng và thiệt hại phải do hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ như những gì đã cam kết trong hợp đồng trước đó mà
gây ra thiệt hại cho bên còn lại. Trong trường hợp các bên có quan hệ hợp đồng
nhưng thiệt hại xảy ra không liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Trách niệm này là trách nhiệm ngoài hợp động.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng thì: khi giao kết
hợp đồng, các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận trong hợp
đồng. Nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ là
vi phạm hợp đồng. Hai bên có thể dự liệu và thỏa thuận trước về những thiệt hại
thực tại và mức bồi thường thiệt hại, phương thức thực hiện bồi thường các biện
pháp bảo vệ nhiệm vụ bồi thường.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì bên gây thiệt
hại phải bồi thường thiệt hại toàn bộ, cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp,
cả thiệt hại về vật chất lẫn thiệt hại về tinh thần (nếu có). Hai bên chỉ có thể thỏa
thuận khi có thiệt hại, xác định rõ bên gây thiệt hại, bên bị thiệt hại, lỗi của các
bên.
Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại trong hợp đồng thì họ
liên đới chịu trách nhiệm bồi thường nếu khi giao kết hợp đồng họ đa thỏa thuận
trước về vấn đề chịu trách nhiệm bồi thường liên đới. Đối với trường hợp trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nhiều người gây thiệt hại phải chịu
trách nhiệm bồi thường liên đới theo các quy định cụ thể của pháp luật dân sự.
GVHD: Tăng Thanh Phương
5
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Về lỗi của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng phát sinh cả
khi do lỗi của người khác nhưng phải được chứng minh cụ thể, chính xác; còn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì người có hành vi vi phạm có
thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi ( nếu pháp luật quy
định).
Về thời hiệu khởi kiện xác định nghĩa vụ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng là lúc giao kết hợp đồng; còn đối với trường hợp trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì thời điểm xác định nghĩa vụ và trách nhiệm
bồi thường gần như xuất hiện đồng thời. Thiệt hại xảy ra vừa là điều kiện xác
định nghĩa vụ bồi thường, vừa là điều kiện xác định nội dung của trách nhiệm bồi
thường.
2. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
2.1 Định nghĩa
Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra chưa được
một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể nhưng từ những quy định chung của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ta có thể hiểu:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là trách nhiệm, bổn
phận của chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng tài sản (gọi chung là người có
nghĩa vụ) phải bồi thường những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản do tài
sản mình hoặc tài sản mình đang quản lý gây ra cho người khác (người có
quyền).
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại thể hiện trong nhiệm vụ bồi thường thiệt
hại do người có nghĩa vụ bồi thường những thiệt hại do tài sản của mình gây ra
cho người bị thiệt hại được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây
ra.
Người bị thiệt hại (người có quyền) và người gây ra thiệt hại (người có
nghĩa vụ) là các bên tham gia trong mối quan hệ bồi thường thiệt hại do tài sản
gây ra. Ở đây giữa người gây thiệt hại với người bị thiệt hại không có bất cứ
quan hệ dân sự nào. Khách thể của quan hệ bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
luôn biểu hiện dười dạng “hành động” phải thực hiện hành vi “bồi thường” cho
người bị thiệt hại. Các quyền và nghĩa vụ pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra hoàn toàn là do pháp luật quy định.
2.2 Đặc điểm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra là một dạng của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên nó mang đầy đủ những đặc điểm
của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như:
GVHD: Tăng Thanh Phương
6
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
- Về cơ sở pháp lý: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự.
- Về điều kiện phát sinh: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra, có hành
vi vi phạm nghĩa vụ dân sự, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại
với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt
buộc).
- Về hậu quả: trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng luôn mang
đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại.
Ngoài những đặc điểm chung đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
tài sản gây ra còn mang một số đặc điểm riêng đó là:
- Chủ thể bồi thường thiệt hại: Trách nhiệm được áp dụng cho chủ sở hữu,
người chiếm hữu, sử dụng tài sản những người có nghĩa vụ trong việc quản lý tài
sản để tài sản trong quá trình vận động của mình gây ra cho người khác thì phải
bồi thường. Đối với những thiệt hại do hành vi của con người gây ra, việc xác
định trách nhiệm bồi thường căn cứ vào việc người nào có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại thì phải bồi thường. Còn đối với bồi thường thiệt hại do tài sản gây
ra thì về nguyên tắc trách nhiệm lại thuộc về chủ sở hữu hoặc người được chủ sở
hữu giao quản lý tài sản đó chứ không phải thuộc về tất cả mọi người đang chiếm
giữ tài sản đó.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra có trường hợp không
cần xem xét đến điều kiện lỗi.
3. Lịch sử phát triển của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài
sản gây ra trong pháp luật Việt Nam
Trong lịch sử pháp luật thế giới, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự. Trải qua các thời kỳ lịch sử
khác nhau, ở những nước khác nhau được quy định khác nhau về cách thức bồi
thường, thiệt hại phải bồi thường cũng như mức độ bồi thường. Vấn đề này phụ
thuộc vào quan điểm giai cấp, điều kiện kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Ở Việt
Nam trải qua nhiều triều đại khác nhau, nhiều chế độ cũng có quy định khác
nhau về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
3.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra Thời Lê, Nguyễn
Ở nước ta, các bộ luật của nhà nước phong kiến như Luật Hồng Đức, Luật
Gia Long có qui định về trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử do
tình hình chính trị – kinh tế – xã hội khác nhau nên mỗi bộ luật qui định không
giống nhau về nội dung các chế định đó.
GVHD: Tăng Thanh Phương
7
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Trong Luật Hồng Đức, tại chương tạp luật có các qui định về bồi thường
thiệt hại do hành vi của con người gây ra, như: trộm cắp, đánh người và các qui
định về trách nhiệm bồi thường do tài sản gây ra. Điều 568 Luật Hồng Đức qui
định: “Khi có việc xây dựng hoặc phá huỷ gì mà phòng bị không cẩn thận để đến
nỗi xảy ra chết người thì bị xử biếm một tư và chịu tiền mai táng 5 quan, còn thợ
thuyền, chủ ty thì hình quan sẽ xem xét lỗi vì ai xảy ra mà định tội.”
Khi xây dựng nhà ở, công trình xây dựng, chủ sở hữu phải chuẩn bị các
điều kiện cần thiết đảm bảo an toàn trong xây dựng và có biện pháp đề phòng các
trường hợp có thể gây thiệt hại cho tài sản, tính mạng sức khoẻ của người khác.
Tuy nhiên, nếu xây dựng hoặc phá huỷ công trình xây dựng mà gây thiệt hại thì
chủ sở hữu phải bồi thường. Trường hợp này có hai khả năng xảy ra: Thứ nhất là
khi xây dựng hoặc phá huỷ công trình mà người trực tiếp làm công việc đó có lỗi
để gây ra thiệt hại. Thứ hai, do người chủ không cẩn thận trong việc ngăn ngừa
thiệt hại để cho công trình xây dựng gây thiệt hại đẫn đến chết người, trường hợp
này lỗi của chủ sở hữu là gián tiếp cho nên chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại,
đây là trách nhiệm do tài sản gây ra.
Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp trên là lỗi
vô ý của chủ sở hữu hoặc lỗi của người trực tiếp xây dựng, của người nhận thầu
công trình và hậu quả là chết người. Mặc dù lỗi của ai nữa thì suy đoán cũng là
lỗi của chủ sở hữu vì người xây dựng là người làm thuê hoặc làm giúp cho chủ
sở hữu, cho nên công việc xây dựng hoặc phá dỡ là của chủ sở hữu. Vì vậy, chủ
sở hữu công trình vẫn phải bồi thường. Nếu chủ sở hữu có lỗi vô ý vì cẩu thả
“không cẩn thận” sẽ bị xử tội biếm và phải bồi thường tiền mai táng cho nạn
nhân là 5 quan tiền.
Khi xây dựng, phá dỡ công trình, việc gây thiệt hại có thể do thợ xây hoặc
người tháo dỡ công trình xây dựng bất cẩn để xảy ra thiệt hại, trước hết chủ sở
hữu phải bồi thường. Nếu những người trực tiếp thực hiện việc xây dựng, phá dỡ
có lỗi, thì tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị hình phạt tương xứng.
Ngoài các công trình xây dựng gây thiệt hại, pháp luật còn qui định các
trường hợp do súc vật gây ra thiệt hại. Điều 581 Luật Hồng Đức qui định:
“Người thả trâu ngựa cho dày xéo, ăn lúa, dâu của người ta thì xử phạt 80 trượng
và đền sự thiệt hại. Nếu cố ý thả cho dày xéo thì biếm một tư và đền gấp đôi sự
thiệt hại. Nếu trâu ngựa lồng lên không kìm hãm được thì được miễn tội trượng”.
Theo qui định trên, người trực tiếp quản lý trâu, ngựa mà vô ý như chăn
dắt trâu ngựa trông coi không cẩn thận để trâu, ngựa phá hoại hoa mầu, mùa
màng thì bị phạt 80 trượng và phải đền bù toàn bộ thiệt hại. Trường hợp cố ý cho
GVHD: Tăng Thanh Phương
8
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
trâu, ngựa phá hoại mùa màng, hoa mầu thường là những hành vi mang tính trả
thù. Trường hợp này, việc phá hoại mùa màng không những vi phạm trật tự an
ninh xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến vấn đề an ninh lương thực của chủ sở
hữu, cho nên pháp luật áp dụng các chế tài nghiêm khắc đối với người vi phạm.
Nếu do bản tính hung dữ, trâu, ngựa lồng lên mà người chăn dắt không
kìm hãm được việc phá hoại của trâu, ngựa thì chủ sở hữu không có lỗi trong
việc trông coi, cho nên không phải chịu trách nhiêm hình sự, tuy nhiên về trách
nhiệm dân sự vẫn phải bồi thường thiệt hại.
Trâu, ngựa là loại súc vật to lớn giúp con người trong sản xuất kinh doanh,
vì vậy người nông dân thường phải lựa chọn những con súc vật này có tính hiến
lành, không hung dữ, như thế mới có thể điều khiển được chúng. Tuy nhiên, có
những trường hợp trâu, ngựa phá hoại mùa màng là do hành vi bất cẩn của con
người hoặc do hành vi cố ý sử dụng trâu, ngựa làm phương tiện, công cụ để phá
hoại mùa màng của người khác, cho nên chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm hình
sự và trách nhiệm dân sự.
Trong thực tiễn phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, có trường hợp
những con súc vật có tính hung dữ luôn đe doạ gây thiệt hại, vì vậy, chủ sở hữu
phải có các biện pháp ngăn chặn không cho súc vật gây thiệt hại tới tài sản, tính
mạng, sức khoẻ của người khác. Điều 582 Luật Hông Đức qui định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật hung dữ gây ra như sau:“ Súc vật và chó có
tính hay húc, đá và cắn người mà làm hiệu buộc ròng không đúng phép (đúng
phép là con vật hay húc người thì phải cắt hai sừng, đá người thì buộc hai chân,
cắn người thì phải cắt hai tai) hay chó dại mà không giết thì đều xử phạt 60
trượng”.
Đối với súc vật có tính hung dữ, chủ sở hữu phải có các biện pháp trông
giữ theo qui định của pháp luật như trâu, bò hay húc thì phải cắt hai sừng, vì
sừng là “vũ khí” nguy hiểm để tấn công con người hay súc vật khác, nếu cắt bỏ
thì khả năng gây thiệt hại không còn. Nếu ngựa hay đá người thì phải buộc rằng
hai chân trước và sau sao cho có thể đi lại được bình thường nhưng không thể co
chân đá người khác và có nghĩa là nếu co hai chân sau lên cùng đá thì con ngựa
sẽ bị ngã, cho nên không thể gây ra thiệt hại.
Đối với chó hay cắn người thì cắt hai tai, đây là biện pháp trừng phạt theo
cách thức dân gian có hiệu quả. Chó phát hiện ra con người từ hướng nào và
chuẩn bị tấn công người hướng đó là do thính giác, vì thế chó bị cắt hai tai sẽ
không phát hiện ra tiếng động từ phía nào, cho nên nó không chủ động tấn công
con người.
GVHD: Tăng Thanh Phương
9
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Đối với chó dại là nguồn nguy hiểm cho bất cứ ai, nếu không giết ngay sẽ
gây nguy hiểm về tính mạng cho người khác, vì thế chủ sở hữu phải giết chó dại
ngăn ngừa chó căn người, nhưng chủ sở hữu không thực hiên việc phòng ngừa
đó, cho nên phải chịu hình phạt là 60 trượng.
Súc vật không những gây thiệt hại về tài sản, tính mạng sức khoẻ cho con
người, mà còn gây thiệt hại cho những con sức vật cùng loại khác như trâu bò
đánh nhau. Đặc biệt trâu mộng là con vật luôn thể hiện mình có sức mạnh nhất
mà con khác phải coi chừng và phải nhường lãnh địa kiếm ăn, vì thế, do bản tính
kình địch thủ, chúng hay đánh nhau đến chết. Do vậy, nếu xảy ra hai trâu đánh
nhau dẫn đến hậu quả một con chết thì được xử lý theo qui định tại Điều 586
Luật Hồng Đức: “Trâu của hai nhà đánh nhau, con nào chết thì hai nhà cùng ăn
thịt, con sống hai nhà cùng cầy. Trái luật xử phát 80 trượng”.
Con trâu là đầu cơ nghiệp của một gia đình nông dân, điều này vẫn còn
phù hợp đến ngày nay ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Nếu không có trâu cày,
kéo thì kinh tế của gia đình người nông dân bị ảnh hưởng, vì vậy, Luật Hồng Đức
qui định là nếu hai con trâu đánh nhau mà một con chết thì con chết chia đôi cho
mỗi chủ sở hữu một nửa và con còn sống thuộc sở hữu chung của hai nhà. Qui
định này nhằm đảm bảo cho hai gia đình đều có trâu để cầy, kéo phục vụ sản xuất
nông nghiệp.
Qua những điều luật trên, Luật Hồng Đức đã qui định tương đối đầy đủ
trách nhiệm dân sự của chủ sở hữu khi các loại tài sản của mình gây thiệt hại cho
người khác. Điều này chứng tỏ các nhà làm luật đã dự liệu được các trường hợp
tài sản có thể gây ra thiệt hại và thể hiện cái nhìn tương đối toàn diện về trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội đương thời.
Luật Hồng Đức là một bộ luật hoàn chỉnh đầu tiên của ông cha ta, là di
sản lập pháp đỉnh cao của nhà Lê để lại cho hậu thế. Ngày nay chúng ta cần phải
tiếp tục kế thừa và phát triển truyền thống lập pháp đó. Tuy nhiên, những thành
quả đó không được kế thừa trong luật của nhà Nguyễn. Vấn đề này do nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do nhà Nguyễn bị ảnh hưởng, phụ
thuộc nhiều vào chế độ phong kiến phương Bắc. Cho nên, trong Hoàng Việt Luật
lệ (Luật Gia Long) được vua Gia Long cho ban hành vào năm 1815, cấu trúc của
Luật Gia Long hoàn toàn khác so với Luật Hồng Đức. Trong chế định bồi thường
thiệt hại, các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không
qui định cụ thể mà chủ yếu qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành
vi con người gây ra (quyển 6 – Hộ luật). Quyển 6 chủ yếu qui định các hành vi
gây thiệt hại về tài sản của Vua hoặc quan lại triều đình mà không có qui định về
GVHD: Tăng Thanh Phương
10
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
bồi thường thiệt hại tài sản của công dân. Điều này có thể được giải thích là trong
xã hội nhà Nguyễn, pháp luật bảo vệ tuyệt đối quyền lợi của giai cấp thống trị
nhằm củng cố địa vị của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động.
3.2 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra dưới thời Pháp
thuộc
Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, quốc mẫu Pháp đã thi hành
chế độ bảo hộ đối với Việt Nam và các nước Đông Dưong, vì vậy các bộ luật dân
sự của nước ta thời kỳ Pháp thuộc do nhà nước Pháp ban hành bằng tiếng Pháp
và được dịch ra tiếng Việt. Các bộ luật này dựa theo Bộ luật dân sự của
NAPOLEON nhưng có điều chỉnh phù hợp với điều kiện chính trị – kinh tế – xã
hội ở Việt Nam.
Chế định bồi thường thiệt hại trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931
và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật được ra đời vào năm 1936 được chia thành
trách nhiệm dân sự theo hợp đồng và ngoài hợp đồng. Đối với trách nhiệm dân
sự ngoài hợp đồng, nguyên tắc chung để xác định trách nhiệm dân sự được qui
định tại Điều 711(Bộ Dân luật Bắc Kỳ) và Điều 763 (Hoàng Việt Trung
Kỳ Hộ luật): “Người ta phải chịu trách nhiệm không những tổn hại tự mình làm
ra mà cả về sự tổn hại do những người mà mình phải bảo lãnh hay do những vật
mình phải trông coi nữa.
Phàm vật vô hồn mà làm nên tổn hại. thì người trông coi vật ấy cho là có lỗi
vào đó, không phân biệt vật đó có tay người động đến hay không, muốn phá
sự phỏng đoán đó thì phải có bằng chứng trái lại mới được.
Bấy nhiêu trường hợp như trên đều có trách nhiệm cả, trừ khi người chịu trách
nhiệm đó có bằng chứng rằng cái việc sinh ra trách nhiệm ấy mình không thể
ngăn cấm được”.
Đoạn một của điều luật trên qui định về nguyên tắc chịu trách nhiệm dân
sự là người nào gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Mặt khác, nếu một
người giám hộ (bảo lĩnh) người khác mà để người được giám hộ gây thiệt hại thì
người giám hộ phải bồi thường thiệt hại vì người giám hộ không thực hiện tốt
nghĩa vụ giám hộ của mình, phải chịu thay người được giám hộ. Ngoài ra, đoạn
một của điều luật còn qui định trách nhiệm của người trông coi tài sản mà để tài
sản gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại. Người trông coi tài sản có thể là
chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu chuyển tài sản thông qua hợp đồng như
gửi giữ,… Người trông giữ không bảo quản, coi giữ cẩn thận để tài sản gây thiệt
hại là do lỗi của người trông gữi, cho nên họ phải bồi thường thiệt hại.
GVHD: Tăng Thanh Phương
11
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Đoạn hai của điều luật qui định vật vô hồn là các vật như nhà ở, công trình
xây dựng và các tài sản vô tri, vô giác khác gây thiệt hại trong hai trường hợp:
Thứ nhất, do người quản lý trông coi, sử dụng tài sản mà có lỗi vô ý, quản lý,
trông coi hoặc khai thác sử dụng không cẩn thận để tài sản gây thiệt hại. Thứ hai
là tài sản tự nó gây thiệt hại mà không có hành vi tác động trực tiếp của người
quản lý, trông coi. Trường hợp này người quản lý tài sản có lỗi vô ý gián tiếp là
không thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa có khả năng cho phép, để tài sản
gây thiệt hại. Vì vậy, chủ sở hữu hoặc người quản lý trông coi tài sản phải bồi
thường thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra không phải do lỗi của người quản lý tài sản
mà do hành vi trái luật trực tiếp hoặc gián tiếp của người thứ ba thì người thứ ba
phải bồi thường thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phát sinh khi người quản lý, trông
coi tài sản chúng minh được việc gây thiệt hại đó là bất khả kháng. Vì trường
hợp này người quản lý không có lỗi trong việc trông coi tài sản, thiệt hại xảy ra
nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người nên họ không phải chịu trách
nhiêm dân sự.
Trách nhiệm dân sự về thiệt hại do súc vật gây ra được qui tại Điều 715
(Bộ Dân luật Bắc Kỳ) và Điều 766 (Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật): “ Người chủ
con vật hay người dùng nó, trong khi nuôi nó mà nó làm tổn hại sự gì phải chịu
trách nhiệm dù khi đó mình có giữ nó hay nó trốn đi mặc lòng”.
Súc vật là những con gia súc nuôi trong nhà như trâu, bò, lợn, chó…
nhưng bản năng hung dữ có thể xuất hiện bất cứ khi nào. Chủ sở hữu, người sử
dụng súc vật phải có biện pháp trông coi cẩn thận, tuy nhiên, có trường hợp chủ
sở hữu đã áp dụng các biện pháp cho phép để trông giữ mà súc vật vẫn trốn khỏi
sự kiểm soát của chủ sở hữu hoặc người sử dụng nó và gây thiệt hại cho người
khác. Súc vật gây thiệt hại có thể do hành vi bất cẩn của người quản lý nó hoặc
do người quản lý đã không lường hết được các khả năng sẽ gây thiệt hại thì
những trường hợp này được suy đoán là người quản lý có lỗi trong việc trông coi,
quản lý súc vật để nó gây thiệt hại, vì thế chủ sở hữu hoặc người quản lý sử dụng
súc vật phải bồi thường thiệt hại.
Tài sản lớn có giá trị của cá nhân là nhà ở, tài sản này có thể gây thiệt hại
do hành vi vô ý của chủ nhà, thể hiện trong Điều 716 (Bộ Dân luật Bắc Kỳ) và
Điều 767 (Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật) như sau: “ Người chủ nhà mà nhà đổ
nát làm thiệt hại cho người ta vì không chịu tu bổ hay vì làm không chắc chắn
phải chịu trách nhiệm về sự tổn hại đó”.
GVHD: Tăng Thanh Phương
12
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Khi nhà ở bị đổ gây thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ cho người
khác cần xem xét lỗi của chủ nhà trong việc tu bổ, sửa chữa thường xuyên những
hư hỏng thông thường. Nếu chủ nhà cố ý hoặc vô ý không tu bổ hư hỏng mà để
gây thiệt hại thì đây là hành vi vô ý của chủ nhà. Trường hợp nhà đổ do xây dựng
không đảm bảo an toàn như chất lượng vật liệu không tốt, kỹ thuật xây dựng kém
hoặc làm nhà tạm bợ vì không có khả năng kinh tế,…Những trường hợp này mà
nhà ở gây thiệt hại thì được coi là lỗi gián tiếp của chủ sở hữu, cần phải biết hoặc
buộc phải biết về khả năng nhà có thể đổ nát khi gặp mưa to, gió lớn, cho nên
chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
3.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra từ sau thời Pháp
thuộc đến nay
Các qui định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hai bộ Dân luật
Bắc kỳ và dân luật Trung kỳ đều dựa trên căn cứ vào lỗi trực tiếp hoặc lỗi gián
tiếp của của chủ sở hữu hoặc quản lý sử dụng tài sản. Nguyên tắc xác định trách
nhiệm dân sự dựa trên yếu tố lỗi đảm bảo được việc xác định đúng trách nhiệm
dân sự của người có hành vi trái luật, bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại
trong việc khắc phục hậu quả thiệt hại do người khác gây ra. Bộ dân luật Bắc kỳ
được áp dụng ở miền Bắc nước ta đến cuối năm 1959 và sau đó toà án áp dụng
đường lối xét xử được Toà án nhân dân tối cao tổng kết kinh nghiệm xét xử hàng
năm và các văn bản hướng dẫn xét xử của Toà án nhân dân tối cao. Trong lĩnh
vực bồi thường thiệt hại có Thông tư 173-UBTP ngày 23/3/1972 của Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo Thông tư 173-UBTP, để xác định một chủ thể có phải chịu trách
nhiệm dân sự hay không cần phải căn cứ vào 4 điều kiện sau:
- Phải có thiệt hại
Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất, cụ thể là các thiệt hại về tài sản, các chi
phí cần thiết và thu nhập bị mất do xâm phạm đến tính mạng sức khoẻ, những
thiệt hại xảy ra phải tính toán được bằng một số tiền cụ thể.
- Phải có hành vi trái pháp luật.
Hành vi trái pháp luật có thể là hành vi phạm pháp hình sự hoặc bất kỳ hành vi
nào vi phạm pháp luật nói chung hoặc vi phạm một qui tắc sinh hoạt xã hội.
- Phải có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật.
Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của của hành vi trái luật, hành vi trái
luật là nguyên nhân chủ yếu, có tính quyết định làm phát sinh hậu quả cụ thể.
- Người gây thiệt hại có lỗi.
GVHD: Tăng Thanh Phương
13
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
Người gây thiệt hại nhận thức hoặc cần phải nhận thức hành vi của mình
là trái luật và có thể gây ra thiệt hại cho người khác. Lỗi của người gây thiệt hại
có thể là cố ý hoặc vô ý.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra được hướng dẫn tại
Mục B điểm 4 của Thông tư 173-UBTP như sau: “Đối với thiệt hại do súc vật
gây ra (như chó dại cắn chết người, trâu húc người hay súc vật bị thương) thì
người sở hữu súc vật trực tiếp phụ trách việc trông coi, chăn dắt phải chịu bồi
thường.
Nếu súc vật đã chuyển cho người khác sử dụng (như cho mượn..) mà gây thiệt
hại thì người sử dụng súc vật đó phải bồi thường.
Cơ sở trách nhiệm của người chủ sở hữu hay của người trực tiếp sử dụng súc
vật là lỗi của họ trong việc trông coi, chăn dắt súc vật không cẩn thận.”
Khi súc vật gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ cho người khác do lỗi
vô ý của chủ sở hữu hoặc người trực tiếp quản lý sử dụng thì chủ sở hữu hoặc
người trực tiếp quản lý sử dụng phải bồi thường thiệt hại. Nếu súc vật đã chuyển
giao cho người khác thông qua hợp đồng chuyển quyền sủ dụng thì người chiếm
hữu hợp pháp phải bồi thường thiệt hại. Theo hướng dẩn trên, lỗi của người chủ
sở hữu hoặc của người trực tiếp quản lý sử dụng là lỗi vô ý, không cẩn thận trong
việc trông coi súc vật dẫn đến việc súc vật thoát khỏi sự kiểm soảt của chủ sở
hữu, người quản lý sử dụng và gây thiệt hại. Ngược lại, do lỗi vô ý để súc vật gây
thiệt hại làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì lỗi cố ý cho súc vật
phá hoại mùa màng hoa mầu của người khác… thì tất nhiên chủ sở hữu, người
quản lý sử dụng phải bồi thường thiệt hại.
Về nguyên tắc, khi xác định trách nhiệm dân sự của một chủ thể thì cần
phải xác định chủ thể đó có lỗi trong việc gây thiệt hại. Tuy nhiên, một số
trường hợp không cần xác định lỗi của con người, đó là trách nhiệm dân sự do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nguyên tắc của trách nhiệm này là chủ sở hữu
sử dụng tài sản thì phải bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, trừ trường hợp
chứng minh được thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi người bị hại hoặc do bất khả
kháng. Trách nhiệm dân sự do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hướng dẫn
tại điểm 5 mục B Thông tư 173-UBTP. “ Trường hợp thiệt hại xảy ra hoạt động
của nguồn nguy hiểm cao độ, không do lỗi của ai, thì cơ quan quản lý nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại…”
Những năm 1970, miền Bắc đã hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa,
phương tiện giao thông vận tải và các nguồn nguy hiểm cao độ khác chủ yếu
thuộc sự quản lý của các hợp tác xã, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị –
GVHD: Tăng Thanh Phương
14
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
xã hội. Vì vậy, Thông tư 173-UBTP hướng dẫn là cơ quan quản lý nguồn nguy
hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại. Thông tư 173 được áp dụng đến ngày Bộ
luật dân sự 1995 có hiệu lực. Thông tư 173 được ban hành trong điều kiện nền
kinh tế – xã hội còn chưa phát triển, trình độ và kỹ thuật lập pháp còn đạt ở mức
độ khiêm tốn; vì thế, những qui định trong Thông tư này chưa thực sự toàn diện,
thiếu vắng những qui định liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Tuy nhiên, quan hệ xã hội phát sinh ngày càng nhiều và phong phú
hơn trong đời sống dân sự, vì thế, yếu tố khách quan này đòi hỏi cần có sự hướng
dẫn cụ thể hơn. Thực trạng đó đã đưa đến cuộc trao đổi thống nhất giữa Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ giao thông vận tải và với Tòa án nhân dân tối cao.
Thông tư số 03-TANDTC ngày 05/04/1983 được ban hành, hướng dẫn một số
quy định về bồi thường thiệt hại trong tai nạn ô tô. Vào thời điểm Thông tư 173
được ban hành thì ở Việt Nam ô tô chỉ thuộc sở hữu nhà nước, các cá nhân không
có quyền sở hữu đối với các loại ô tô, vì thế, trong mọi trường hợp, chủ sở hữu là
nhà nước phải bồi thường thiệt hại. Thời gian sau đó, ở Việt Nam, ô tô không chỉ
thuộc sở hữu của nhà nước mà còn thuộc sở hữu của tư nhân. Điều đó chứng tỏ
trong xã hội, khả năng kinh tế của mỗi cá nhân có độ chênh lệch, bởi thế, các nhà
lập pháp đã có cách nhìn nhận mới trong việc quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do tai nạn ô tô. Trên cơ sở kế thừa những quy định của Thông tư 173 về
cơ sở để xác định việc bồi thường cũng dựa vào 4 điều kiện. Tuy nhiên, trong khi
quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tai nạn ô tô đã quy định khá
cụ thể về lỗi của từng chủ thể (lỗi của phía ô tô, lỗi của nạn nhân, lỗi của người
thứ 3). Ngoài ra, còn có dự liệu khi ô tô va chạm mà gây thiệt hại và chỉ có 1 bên
có lỗi thì bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại còn nếu cả 2 bên có lỗi thì xác định
trách nhiệm liên đới. Nếu trong trường hợp tự thân hoạt động của ô tô mà gây
thiệt hại thì phía ô tô phải bồi thường. Trong trường hợp bất khả kháng như: do
cây đổ, đá lở, sét đánh, v.v… thì phía ô tô không phải bồi thường. Người phải bồi
thường thiệt hại cũng phải xác định tương đối cụ thể trong Thông tư 03, cụ thể là
người chiếm hữu phương tiện phải bồi thường những thiệt hại gây ra cho người
xung quanh mà không phân biệt người chiếm hữu phương tiện chỉ phải bồi
thường khi người lái xe đang làm nhiệm vụ được giao với khi không được giao
nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng hoặc sử dụng để làm việc riêng. Qui định này xuất
phát từ việc nhanh chóng khắc phục thiệt hại cho người bị thiệt hại và có tác
dụng làm cho người chiếm hữu phương tiện phải quản lý những người lái xe.
Thông tư này còn xác định người chủ xe là người chiếm hữu xe trừ khi xe đã
được chuyển giao cho người khác thông qua hợp đồng cho mượn, cho thuê
GVHD: Tăng Thanh Phương
15
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
không kèm theo người lái, xe bị trưng dụng theo mệnh lệnh của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Khi xe chuyển giao thì người được chuyển giao phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Nếu xe bị huy động phục vụ các nhu cầu của nhà nước
như: chống bão lụt, dịch bệnh,… thì chủ phương tiện vẫn phải bồi thường thiệt
hại nếu xe gây thiệt hại vì chủ phương tiện vẫn được coi là thực hiện kế hoạch
Nhà nưóc, được Nhà nước cung cấp cho kinh phí, nhiên liệu, v.v…. Có thể nói,
đây là quy định hoàn toàn không phù hợp với lợi ích của chủ xe mà cần được
hiểu rằng trong trường hợp này, xe đã được chuyển giao và Nhà nước chính là
người đang chiếm hữu xe của cá nhân để phục vụ lợi ích công cộng, không cân
bằng giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, dẫn đến hậu quả rất khó khăn trong
việc khuyến khích chủ xe thực hiện nghĩa vụ với nhà nước…
Trong Bộ luật dân sự 1995 và được sửa đổi bổ sung năm 2005, các qui
định về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra không thay đổi, bổ sung mà thay
đổi số các điều luật. Qui định bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra gồm các điều
luật sau đây:
Điều 627 Bộ luật dân sự 1995 (Đ623 Bộ luật dân sự 2005) – Bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Điều 628 (624) – Bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường. Điều 629 (625) – Bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra. Điều 630 (625) – Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra. Điều 631 (626) –
Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra. Những qui định về
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong Bộ luật dân sự dựa trên cơ sở pháp lý
là lỗi của chủ sở hữu hoặc của người trực tiếp sử dụng, người chiếm hữu hợp
pháp tài sản đó. Những người này có lỗi vô ý hoặc cố ý để tài sản của mình gây
thiệt hại. Ngoài ra, luật qui định trường hợp không cần xác định lỗi của chủ sở
hữu như trách nhiệm dân sự do ngưồn nguy hiểm cao độ gây ra.
4. Một số trường hợp cụ thể do luật quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do tài sản gây ra
Bên cạnh kế thừa một số trường hợp cụ thể về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do tài sản gây ra trong Bộ luật dân sự 1995, quan hệ xã hội phát sinh
ngày càng nhiều và phong phú hơn trong đời sống dân sự, vì thế, đòi hỏi cần có
sự hướng dẫn cụ thể hơn, cần có những quy định mới tiến bộ hơn để theo kịp và
điều chỉnh hợp lý hơn thì Bộ luật dân sự 2005 được ban hành một phần tiếp thu
những quy định của Bộ luật 1995, đã có những quy định sửa đổi, bổ sung mới
ngày phù hợp với thực tế.
4.1 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2005 đã kế thừa quy định về bồi thường
GVHD: Tăng Thanh Phương
16
SVTH: Hồ Thị Thắm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được quy định tại Điều 625 Bộ luật
dân sự 1995. Theo đó, thì nguồn nguy hiểm cao độ không được định nghĩa một
cách rõ ràng mà chỉ được xác định bằng cách liệt kê. Theo đó, nguồn nguy hiểm
cao độ bao gồm các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà
máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất
phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao đô khác do pháp luật quy định.
Các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ là những vật, động vât, máy
móc, phương tiện,…trong thế giới tự nhiên mà trong quá trình hoạt động vận
chuyển, bảo quản có thể gây nguy hiểm tới tính mạng, sức khỏe, tài sản cho
những người xung quanh. Nguồn nguy hiểm cao độ theo Điều 623 được hiểu là
những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển,
bảo quản… chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường và
những người xung quanh. Tính nguy hiểm của nó còn thể hiện ở chỗ con người
không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại.
Ví dụ: Ngày 7-8-2007, bà Nhung chạy xe máy đến đoạn đường Cầu Ông
Điệp (thị trấn Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng) thì bị ông H. chạy xe máy ngược chiều
do bị mất phanh va chạm mạnh làm bà văng ra khỏi xe, té sấp xuống mặt đường
dẫn đến cái chết cho bà Nhung.1 Theo quy định của Luật giao thông đường bộ
năm 2008 thì xe máy được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ. Vì vậy ngoài
việc xác định trách nhiệm về cái chết cùa bà Nhung (có thể là trách nhiệm hình
sự) thì chủ thể có liên quan phải bồi thường thiệt hại về tính mạng cho người bị
thiệt hại theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2005, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Nhưng trong thực tiễn xét xử thì
những thiệt hại do tai nạn giao thông thì khi được xem xét bồi thường thiệt hại ít
khi nào áp dụng quy định Điều 623 mà được quy về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại chung. Người viết cho rằng việc xem xét bồi thường theo Điều 623 là hoàn
toàn hợp lý vì rỏ ràng trong trường hợp theo như ví dụ thì ông H. không hề mong
muốn đụng phải bà Nhung mà nguyên nhân chính dẫn đến vụ tại nạn này là do
chiếc xe của ông bị mất phanh một cách đột ngột làm ông không thể làm chủ tay
láy của mình dẫn đến gây ra thiệt hại. Nếu có xác định lỗi trong trường hợp này
chỉ là lỗi do ông H. không bảo quản tốt tài sản của mình mà thôi. Đây là điểm
khác biệt giửa trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người mượn
tài sản làm công cụ và hành vi do tự thân tài sản gây ra.
Để xác định vật, động vật, và các đối tượng khác gây thiệt hại có phải là
1
Theo Báo Pháp Luật TPHCM (ngày 7/8/2008)
GVHD: Tăng Thanh Phương
17
SVTH: Hồ Thị Thắm
- Xem thêm -