Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu...

Tài liệu Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam Luận văn ThS. Luật

.PDF
108
215
150

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN TUYẾT MINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trần Tuyết Minh Mục Lục Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU………………………………………………………………..1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG ... Error! Bookmark not defined. 1.1. Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng ................................................... Error! Bookmark not defined. 1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ........ Error! Bookmark not defined. 1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng ................................................... Error! Bookmark not defined. 1.2. Sơ lược các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng ............... Error! Bookmark not defined. 1.2.1. Giai đoạn trước năm 1999......................... Error! Bookmark not defined. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1999 đến nay ................ Error! Bookmark not defined. 1.3. Kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số nước trên thế giới về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng ..................................................................... Error! Bookmark not defined. CHƢƠNG 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM ............................................................................. Error! Bookmark not defined. 2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng................. Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Có thiệt hại xảy ra ..................................... Error! Bookmark not defined. 2.1.2. Có tồn tại của hàng hóa có khuyết tật ....... Error! Bookmark not defined. 2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật và thiệt hại .. Error! Bookmark not defined. 2.1.4. Vấn đề lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng................. Error! Bookmark not defined. 2.2. Chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng .................................. Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại........ Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Chủ thể được bồi thường thiệt hại ............ Error! Bookmark not defined. 2.3. Xác định thiệt hại của người tiêu dùng về tài sản, tính mạng, sức khỏe .... Error! Bookmark not defined. 2.3.1. Thiệt hại về tài sản .................................... Error! Bookmark not defined. 2.3.2. Thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm ...... Error! Bookmark not defined. 2.4. Nguyên tắc bồi thường ................................. Error! Bookmark not defined. 2.5. Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng............................................. Error! Bookmark not defined. 2.6. Đánh giá pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng ..... Error! Bookmark not defined. 2.6.1. Những ưu điểm ......................................... Error! Bookmark not defined. 2.6.2. Những tồn tại, hạn chế .............................. Error! Bookmark not defined. Chƣơng 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY THIỆT HẠI CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM Error! Bookmark not defined. 3.1. Thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not defined. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng .......... Error! Bookmark not defined. 3.2.1. Giải pháp tiếp tục nghiên cứu lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not defined. 3.2.2. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Error! Bookmark not defined. 3.2.3. Giải pháp cơ chế thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng ..... Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN ................................................. Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BTTH : Bồi thường thiệt hại BVQLNTD : Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng CLSPHH : Chất lượng sản phẩm, hàng hóa NTD : Người tiêu dùng MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá, bên cạnh việc tạo điều kiện thuận lợi để lưu thông, trao đổi hàng hóa, pháp luật Việt Nam cũng cần có cơ chế ngăn chặn các sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không bảo đảm an toàn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD), bảo vệ sản xuất trong nước và lợi ích quốc gia. Vì yêu cầu đó nên liên tục những năm gần đây, nhà nước ta đã ban hành các đạo luật chuyên ngành để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Trong những năm gần đây, pháp luật về CLSPHH nước ta không ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Thực tiễn ở Việt Nam, đã có rất nhiều hàng hóa (máy móc, thiết bị đồ gia dụng, thực phẩm, dược phẩm…) được sản xuất (kể cả từ nước ngoài cung cấp tại Việt Nam) không đảm bảo chất lượng, gây nguy hại hoặc gây thiệt hại cho người tiêu dùng (NTD) không chỉ về tài sản mà còn về tính mạng, sức khỏe. Đây là vấn đề bức xúc lớn trong xã hội. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không có đạo luật đặc thù để buộc nhà sản xuất, nhà kinh doanh, nhà phân phối, nhà cung cấp, người bán lẻ và những người khác cung cấp hàng hóa phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do khuyết tật trong hàng hóa của họ gây ra cho NTD. Vấn đề này mới chỉ được Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định có tính nguyên tắc là: “Cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất lượng hàng hoá mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường” [34, Điều 630]. Đây là quy định mới mang tính nguyên tắc và trên thực tế NTD chưa có công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ mình. Cho nên, nếu nhà sản xuất cung cấp sản phẩm nguy hại cho tài sản, sức 1 khỏe, tính mạng của NTD thì cũng không có đủ cơ sở pháp lý để đòi bồi thường thiệt hại (BTTH). Vì vậy, để nâng cao hiệu lực điều chỉnh của pháp luật với các quan hệ xã hội về CLSPHH tương xứng với vai trò quan trọng của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhà nước đã ban hành Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 và Luật CLSPHH năm 2007. Đây là các đạo luật chuyên ngành về CLSPHH với phạm vi điều chỉnh tương đối đầy đủ, hệ thống phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng cao của nhân dân. Nhằm hoàn thiện chế tài trách nhiệm dân sự do vi phạm quy định của pháp luật về CLSPHH trên cơ sở BLDS, Luật CLSPHH có những quy định đặc thù về trách nhiệm dân sự một số điểm mới đáng chú ý sau: - Xác định rõ trách nhiệm bồi thường của các chủ thể sản xuất, kinh doanh vi phạm các quy định của pháp luật về CLSPHH mà gây ra thiệt hại cho người khác là cơ sở để người bị thiệt hại yêu cầu BTTH cho mình. - Xác định quyền được BTTH không những của NTD mà còn của người mua đối với các thiệt hại do vi phạm các quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hoá gây ra. BLDS chỉ quy định NTD có quyền được bồi thường. Quy định người mua được quyền BTTH trong Luật CLSPHH có thể xem là đã lấp được “lỗ hổng” của BLDS. - Quy định cụ thể các loại thiệt hại mà tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về CLSPHH gây ra phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trên cơ sở các quy định về BTTH của BLDS, Luật CLSPHH đã quy định cụ thể các loại thiệt hại được xác định để bồi thường: thiệt hại về giá trị hàng hoá, tài sản bị hư hỏng hoặc bị huỷ hoại; thiệt hại về tính mạng, sức 2 khoẻ con người; thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản và chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại. - Quy định các trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường trên cơ sở nguyên tắc của pháp luật dân sự là một người chỉ phải bồi thường nếu có thực hiện hành vi có lỗi gây ra thiệt hại của người khác. Đây là những trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường mà chưa được quy định trong luật dân sự và luật thương mại. Bảo đảm CLSPHH có ý nghĩa rất quan trọng với NTD, người sản xuất và nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự công cộng và lợi ích quốc gia. Nhà nước thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các công cụ quản lý khác và kiểm tra việc thực hiện các quy định này, tác động đến các yếu tố hình thành CLSPHH để bảo đảm an toàn cho sản phẩm, hàng hoá được đưa ra thị trường sử dụng như BLDS (2005), Bộ luật hình sự (1999), Luật Cạnh tranh (2004), Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật Dược (2005), Luật An toàn thực phẩm (năm 2010), Luật BVQLNTD (2011). Như vậy có thể khẳng định rằng, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định trách nhiệm BTTH do hàng hóa kém chất lượng gây ra cho NTD không ít, vấn đề chỉ còn ở chỗ các địa phương, cơ quan có trách nhiệm bảo vệ NTD sẽ thực thi như thế nào mà thôi. Chúng ta đã có nhiều luật, nghị định, thông tư hướng dẫn về bảo vệ quyền lợi của NTD, nhưng việc thực thi còn rất hạn chế, xa rời thực tế. Nhiều cơ quan, địa phương chưa tham gia bảo vệ NTD như trong luật đã quy định. Khả năng tiếp cận các điểm khiếu nại của của NTD (đặc biệt là NTD ở nông thôn, miền núi, vùng biên giới, hải đảo) còn rất hạn chế, NTD đa phần còn rất mù mờ về quyền lợi của mình. 3 Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, sau một thời gian tìm hiểu, tôi đã chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam” 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước tới nay, nghiên cứu về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD vẫn đang còn đang bỏ ngỏ để các nhà nghiên cứu khai phá. Đã có một số công trình khoa học, bài viết hoặc tham luận được công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc diễn đàn khoa học đề cập đến trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD như: luận văn cử nhân luật học “Trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật cộng đồng Châu Âu và pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Thị Tường Vi; luận văn tiến sỹ luật học “Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa” của TS. Chu Đức Nhuận; “Trách nhiệm sản phẩm và việc bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam” của GS.TS. Lê Hồng Hạnh; “Luật bảo vệ người tiêu dùng trong pháp luật Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát”; “Vấn đề trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Cương; “Trách nhiệm nghiêm ngặt và miễn, giảm trách nhiệm trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm”; của Ths. Phạm Thị Phương Anh; “Góp ý về Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi - Phần liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của TS. Bùi Nguyên Khánh…hoặc về kinh nghiệm quốc tế như “Các nguyên lý cơ bản của chế định trách nhiệm sản phẩm tại Hoa Kỳ và một số quốc gia trên thế giới” của GS.TS. Lê Hồng Hạnh, Trương Hồng Quang; “Bàn về Luật trách nhiệm sản phẩm trong kinh doanh quốc tế” của TS. Tăng Văn Nghĩa; “Một số vấn đề về Luật trách nhiệm sản phẩm cộng đồng Châu Âu” của TS. Nguyễn Am Hiểu; “Kinh nghiệm xây dựng pháp luật vể trách nhiệm sản phẩm của một số nước 4 ASEAN” của Ths. Trần Thị Quang Hồng, Trương Hồng Quang; “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tác động của tài sản gây ra dưới góc nhìn của so sánh” của Ths. Bùi Thị Thanh Hằng, Ths. Đỗ Giang Nam. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, vẫn còn nhiều vấn đề về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người NTD chưa được nghiên cứu làm rõ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD và việc thực tiễn giải quyết việc BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD. Qua việc nghiên cứu nhận diện, phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD, từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục để góp phần nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức đối với CLSPHH, BVQLNTD, thúc đẩy nền kinh tế sản xuất hàng hóa phát triển lành mạnh, ổn định và bền vững. Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD như khái niệm BTTH ngoài hợp đồng; khái niệm NTD; khái niệm hàng hóa khuyết tật; khái niệm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD; kinh nghiệm về trách nhiệm BTTH cho NTD của một số nước trên thế giới. - Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD. - Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD. 5 4. Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD và việc áp dụng các quy định này trong thực tế. 5. Phạm vi nghiên cứu Trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD là một đề tài rộng, được nhiều ngành luật điều chỉnh như hình sự, hành chính, dân sự. Vì vậy, trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ không thể giải quyết được một cách trọn vẹn tất cả các nội dung của trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD. Do đó, đề tài tập trung nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề chính liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng và trách nhiệm BTTHdo hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD theo pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó đối chiếu với thực tiễn áp dụng các quy định đó trong thực tế, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Từ đó, luận văn sẽ đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, cũng như nâng cao nhận thức của NTD trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích: Phân tích các khái niệm về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD để hiểu được bản chất cuả nó. Bên cạnh đó, cần phân tích vai trò của trách nhiệm bồi thường thiệt hại để nói lên sự cần thiết phải điều chỉnh cũng như hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm dân sự nói chung cũng như pháp luật về BVQLNTD nói riêng. Ngoài ra, trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế của hàng lang pháp 6 lý về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD để có phương hướng giải quyết những hạn chế đó. Phưong pháp tổng hợp: Đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng. Phương pháp liệt kê: Liệt kê hệ thống các văn bản có liên quan để tiện theo dõi và làm căn cứ cho phần lý luận của mình. 7. Dự kiến những kết quả đạt đƣợc của luận văn Thông qua việc tiến hành phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD và thực tiễn áp dụng các quy định đó trong thực tế. Luận văn còn chỉ ra những điểm còn bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật hiện hành và đưa ra một số các giải pháp cần thiết để góp phần hoàn thiện chính sách, quy định về trách nhiệm BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây thiệt hại cho NTD, nhằm nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa đối với NTD nhưng vẫn đảm bảo các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài Lời nói đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ cấu gồm 03 chương, như sau: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng Chƣơng 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng 7 Chƣơng 3: Thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại và phương hướng hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng 8 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNG HÓA CÓ KHUYẾT TẬT GÂY RA CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG 1.1. Những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho ngƣời tiêu dùng 1.1.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng Ngay từ thời La Mã cổ đại khái niệm về “thiệt hại” đã được các luật gia La Mã đề cập tới và cho rằng khái niệm này được cấu thành bởi hai thành phần. Thành phần thứ nhất là Damnumemrgens-sự thiệt hại, sự mất mát của một bộ phận tài sản cụ thể. Thành phần thứ hai là Lucrum cessans - bỏ mất lợi tức, sự mất mát tài sản có thể có nếu hoàn cảnh diễn ra bình thường [48]. Như vậy về cơ bản thì luật La Mã xác định thiệt hại là những tổn thất, mất mát về tài sản đang có và sẽ có trong tương lai `- thiệt hại mang tính tài sản, bởi bản chất của các quan hệ pháp luật dân sự là những quan hệ mang tính tài sản. Ngày nay, những tư tưởng pháp lý này của các luật gia La Mã đã được các nhà lập pháp kế thừa. Ví dụ, Điều 1149 của BLDS Cộng hoà Pháp quy định “những thiệt hại phải bồi thường cho người có quyền gồm những khoản mà họ mất và mức lợi mà họ không được hưởng” [27]. Hơn nữa, các nhà lập pháp ngày nay còn phát triển, và xác định thêm thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại phi vật chất (thiệt hại về tinh thần). BLDS Nhật Bản quy định tại Điều 707 thì một người chịu trách nhiệm BTTH cả những thiệt hại phi vật chất bất kể thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín hay tài sản của người khác [20]. Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu hiểu thông thường thì “thiệt hại là những mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của” [25, tr. 1570]. Theo quan điểm pháp lý của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam thì: “thiệt hại là 9 tổn thất về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” [47, tr. 118]. Ở Việt Nam thì truớc khi có BLDS chính thức quy định về vấn đề này thì tồn tại hai quan điểm trái ngược về xác định thiệt hại phi tài sản - thiệt hại về tinh thần…Quan điểm thứ nhất cho rằng, thiệt hại tinh thần không thể bồi thường vì tính mạng, tình cảm của con người là vô giá, do đó không có căn cứ để xác định mức thiệt hại. Quan điểm thứ hai cho rằng, thiệt hại cả về vật chất và tinh thần đều phải bồi thường vì mọi tính toán chỉ mang tính tương đối, mà bản chất của BTTH đều là nhằm khắc phục hậu quả của thiệt hại đã xảy ra. Đến khi nước ta chính thức có BLDS năm 1995 thì thiệt hại được chính thức xác định bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần thông qua quy định về trách nhiệm BTTH như sau: 1. Trách nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm BTTH về tinh thần; 2. Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút; 3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại [33, Điều 310]. BLDS năm 2005 tiếp tục được kế thừa tại quy định này tại Điều 307 [34]. Như vậy ta có thể định nghĩa thiệt hại là tổn thất, mất mát về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tin, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ. 10 Trách nhiệm BTTH trước hết là một loại trách nhiệm pháp lý. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo chiều dài lịch sử của nhân loại được quy định, áp dụng từ rất sớm. Vào thời kỳ La Mã (thế kỷ thứ VIII TCN đến thế kỷ thứ VII SCN), pháp luật đã quy định “chế độ phục cừu” là nguyên tắc trả thù ngang bằng như máu trả máu, mắt trả mắt, răng trả răng, tính mạng trả tính mạng…Ngoài chế độ phục cừu, việc BTTH ngoài hợp đồng còn tuân theo những nguyên tắc pháp luật ấn định trước như “chế độ phục kim” (bồi thường bằng tiền) [31, tr. 10, 11]. Khi áp dụng nguyên tắc trả thù ngang bằng, lợi ích của người bị thiệt hại không được bảo đảm, hơn nữa lại có một thiệt hại khác phát sinh. Đây chính là lý do để sau đó người ta xem xét vấn đề BTTH. Như vậy, xét về nguồn gốc lịch sử, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một trong những chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng là chế định gây nhiều tranh cãi, có nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu luật pháp cũng như các cán bộ làm công tác thực tiễn. Ở nước ta, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đã được qui định trong Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ. Pháp luật mỗi nước có thể có những qui định khác nhau liên quan đến xác định mức bồi thường, tuy nhiên một nguyên tắc cơ bản luôn tồn tại - đó là: Người gây thiệt hại phải có trách nhiệm BTTH cho người bị thiệt hại. Bộ luật Hồng Đức [41] và Bộ luật Gia Long [17] đều chưa có sự phân biệt rõ nét về trách nhiệm bồi thường dân sự. Sự phân biệt rạch ròi giữa trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chỉ ra đời trên cơ sở ba bộ dân luật đầu tiên Bộ Dân luật Bắc Kỳ, Bộ Dân luật Trung Kỳ, Bộ Dân luật Sài Gòn đề cập về trách nhiệm bồi thường dân sự. Tại BLDS năm 1995, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm 11 phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại, thì phải bồi thường” [33, Điều 609]. Như vậy, người gây thiệt hại cho người khác về tài sản, về sức khỏe, tính mạng và các quyền nhân thân khác thì phải bồi thường theo nguyên tắc của trách nhiệm dân sự được quy định tại khoản 3 Điều 605 BLDS 1995. Khi BLDS năm 2005 được ban hành thay thế BLDS năm 1995, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH được quy định tại Điều 604 và nguyên tắc bồi thường được quy định tại Điều 605, cũng tương tự như những quy định trong BLDS năm 1995. Điều 604 BLDS hiện hành quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH khi một người có lỗi cho dù vô ý hoặc cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản, của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại phải bồi thường. Ngoài ra, trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong một số trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không cần điều kiện lỗi. Đó là trách nhiệm do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; trách nhiệm của chủ sở hữu súc vật phải BTTH do tài sản của mình gây ra; trách nhiệm BTTH của người gây ô nhiễm môi trường cho dù không có lỗi. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một trong những trách nhiệm dân sự, được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người khác nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Chế định "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng’’ được hệ thống ở chương V, phần thứ 3 với các qui định từ Điều 604 đến Điều 630 làm cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết BTTH do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho NTD của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 12 1.1.2. Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho ngƣời tiêu dùng 1.1.2.1. Khái niệm về người tiêu dùng “Tiêu dùng là dùng của cải, vật chất để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất” [25, tr. 1640]. Đây là một trong những hoạt động cơ bản và tự nhiên của con người. Khái niệm NTD ra đời và tồn tại gắn với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, là một khái niệm khá mới mẻ ở Việt Nam. NTD là người mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu của bản thân hoặc gia đình mình, là NTD cuối cùng “end consumer”. Sản phẩm hàng hóa qua sử dụng của NTD sẽ dần mất đi tính năng, công dụng, số lượng, nói chung là không được tái tạo lại. NTD “consumer”, “consommateur” là “người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.” [40, Điều 3]. Trước đây, khi chưa có giải thích rõ ràng, vào năm 1991, các đương sự đề nghị Tòa Công lý châu Âu (European Court of Justice) giải thích khái niệm NTD bao gồm cả các doanh nghiệp khi mua sản phẩm, dịch vụ không nhằm mục đích hoạt động kinh doanh, tuy nhiên, Tòa Công lý Châu Âu đã bác bỏ đề nghị này và cho rằng, NTD chỉ được hiểu là các cá nhân NTD, không bao gồm các chủ thể khác [63, tr. 365]. Khái niệm NTD trong các văn bản pháp luật về bảo vệ NTD của Liên minh Châu Âu đã được giải thích trong Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan [61]. Chỉ thị này giải thích: “NTD là bất cứ tự nhiên nhân (tức là cá nhân) nào … tham gia vào các hợp đồng điều chỉnh trong Chỉ thị này… vì mục đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình.” [62, tr.359]. NTD theo quan niệm của pháp luật Cộng hòa Pháp cũng chỉ là các cá nhân nhưng không bao gồm các cá nhân khi thực hiện 13 hành vi mua sắm hàng hóa, dịch vụ để phục vụ hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động có tính nghề nghiệp cho mình [30, tr. 6]. Tại Hoa Kỳ, các quy định về bảo vệ NTD nằm cả trong pháp luật của liên bang và pháp luật của các bang. Tuy không có một đạo luật chung thống nhất về BVNTD mà trong đó khái niệm NTD được giải thích rõ ràng, nhưng theo các chuyên gia pháp luật của Hoa Kỳ, khái niệm NTD chỉ được quan niệm là cá nhân NTD tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh hoạt hộ gia đình. Việc bảo vệ NTD ở Canada chủ yếu được quy định trong các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng của các bang ở quốc gia này. Trong các đạo luật này, NTD cũng chỉ được giải thích là các cá nhân. Luật Tiêu dùng Pháp định nghĩa: “NTD được hiểu là người không phải chủ doanh nghiệp, tức là thể nhân mua các sản phẩm và dùng các dịch vụ không nhằm mục đích hoạt động nghề nghiệp, kiếm lợi nhuận để phục vụ cho gia đình hoặc bản thân” [32, tr.24]. “NTD là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ để sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình mà không có ý định bán lại; là một tự nhiên nhân sử dụng sản phẩm phục vụ mục đích cá nhân, không phải nhằm mục đích kinh doanh” [59, tr. 311]. “NTD là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ nhằm mục đích cuối cùng tiêu dùng hoặc sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình” [60, tr.3]. Như vậy, nhìn chung, để xác định một chủ thể có phải là NTD hay không, pháp luật các nước thường dựa vào các điều kiện sau: Thứ nhất, đối tượng của giao dịch là những hàng hóa, dịch vụ được phép lưu thông và đáp ứng được các nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của cá nhân con người. Đây là một điều kiện rất khó xác định bởi nhu cầu sinh hoạt của con người trong điều kiện hiện nay rất đa dạng. Những hàng 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan