Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổng quan về quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại...

Tài liệu Tổng quan về quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại

.PDF
85
118
78

Mô tả:

1 CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Rủi ro tín dụng 1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng Thực tế đã có rất nhiều khái niệm về RRTD ngân hàng, cụ thể như: - Theo “Financial Institution Management – A Modern Perpective”, A.Saunder và H.Lange thì cho rằng “RRTD là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các nguồn thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ cả về số lượng và về thời hạn”. - Theo Timothy W.Koch [1] thì cho rằng “RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá khi khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn”. - Theo khoản 1 điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam và các quyết định sửa đổi, bổ sung về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD, RRTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Như vậy, có thể hiểu RRTD là biến cố xảy ra trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế là việc khách hàng vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm lãi vay và gốc) hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng như đã cam kết trong hợp đồng. 1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng 1.1.2.1. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro - Rủi ro giao dịch: Là rủi ro phát sinh do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm: [1] Timothy W. Koch, Ph.D. is Professor of Finance at the University of South Carolina 2 • Rủi ro lựa chọn: Liên quan đến quá trình đánh giá, phân tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn phương án cho vay. • Rủi ro đảm bảo: Phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại TSĐB, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của TSĐB. • Rủi ro nghiệp vụ: Liên quan đến công tác quản lý khoản cho vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề. - Rủi ro danh mục: Là rủi ro phát sinh do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. • Rủi ro nội tại: Xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay. • Rủi ro tập trung: Khi ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng; cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao. 1.1.2.2. Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng - Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn: Khi thiết lập mối quan hệ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải quy ước về khoản thời gian hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên, đến thời hạn quy ước nhưng ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay. - Rủi ro do không có khả năng trả nợ: Là rủi ro xảy ra trong trường hợp doanh nghiệp đi vay mất khả năng chi trả, ngân hàng phải thanh lý TSĐB của doanh nghiệp để thu nợ. - RRTD không giới hạn ở hoạt động cho vay: Bao gồm các hoạt động khác mang tính chất tín dụng của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay thị trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ… 1.1.3. Đặc điểm của rủi ro tín dụng 3 - RRTD mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. RRTD xảy ra khi khách hàng vay gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn. Nói cách khác, những rủi ro trong HĐKD của khách hàng vay đã gián tiếp gây ra RRTD cho ngân hàng. - RRTD có tính chất đa dạng và phức tạp: Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân tức là RRTD xảy ra ở rất nhiều dạng và phụ thuộc vào nguyên nhân đã gây ra RRTD, hình thức và hậu quả của RRTD gây ra không thể lường trước được, tùy thuộc vào từng mức độ RRTD của khoản vay. - RRTD có tính tất yếu: Tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất cứ khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức độ phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng. 1.1.4. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng 1.1.4.1. Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng Khi RRTD xảy ra, ngân hàng không thu được lãi và vốn tín dụng đã cấp cho khách hàng vay, nhưng vẫn phải trả lãi và gốc cho các khoản vốn huy động khi đến hạn. Điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn tín dụng giảm, lợi nhuận giảm thấp. Do đặc thù của NHTM là sử dụng vốn huy động để cho vay nên khi một khoản cho vay không có khả năng thu hồi, ngân hàng phải sử dụng các nguồn vốn của mình để hoàn trả cho người gửi tiền, ngân hàng sẽ có nguy cơ đối diện với rủi ro về thanh khoản. Kết quả là năng lực tài chính giảm sút, uy tín, sức cạnh tranh giảm, kết quả kinh doanh ngày càng xấu, có thể dẫn đến thua lỗ hoặc phá sản nếu không có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời. 1.1.4.2. Ảnh hưởng đến nền kinh tế - xã hội Đặc điểm hoạt động của hệ thống NHTM là huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cấp tín dụng cho các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu về vốn. Khi RRTD xảy ra, không những ngân hàng chịu thiệt hại mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. 4 Khi một ngân hàng gặp phải RRTD hay bị phá sản, vì tâm lý lo sợ nên để bảo toàn tài sản của mình, người gửi tiền ồ ạt đến rút tiền ở các ngân hàng khác, làm cho hệ thống ngân hàng gặp khó khăn trong vấn đề chi trả và có nguy cơ mất khả năng thanh toán, dẫn đến bị phá sản và nền kinh tế bị tê liệt. Tóm lại, RRTD có thể xảy ra với nhiều mức độ khác nhau, ngân hàng gặp phải rủi ro về lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, ngân hàng bị mất vốn khi khách hàng không có khả năng chi trả. Nếu tình trạng này kéo dài mà không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Do đó, yêu cầu đặt ra cho các nhà quản trị ngân hàng là phải thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong quá trình cho vay. 1.1.5. Đo lường rủi ro tín dụng 1.1.5.1. Mô hình định tính (mô hình chất lượng 6C) Để biết khả năng thanh toán của khách hàng khi khoản vay đến hạn. Có 06 khía cạnh cần xem xét: • Tư cách của khách hàng: Khách hàng phải có mục đích vay vốn rõ ràng và có thiện chí trả nợ khi đến hạn. • Năng lực của của khách hàng: Khách hàng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp. • Thu nhập của khách hàng: Là cơ sở để xác định nguồn trả nợ. • Tài sản bảo đảm: Là nguồn để thu hồi nợ khi khách hàng không còn khả năng trả nợ. • Các điều kiện: Tùy theo xu hướng phát triển của nền kinh tế mà ngân hàng có những chính sách tín dụng, những điều kiện quy định cho khách hàng trong từng thời kỳ. • Kiểm soát: Đánh giá những ảnh hưởng do sự thay đổi của luật pháp, quy chế hoạt động, khả năng khách hàng đáp ứng các tiêu chuẩn của ngân hàng. 5 Mô hình này tương đối đơn giản, dễ thực hiện nhưng có hạn chế ở chỗ phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập được, khả năng dự báo trình độ phân tích, đánh giá của CBTD. 1.1.5.2. Mô hình lượng hóa Bên cạnh việc sử dụng mô hình định tính để đo lường RRTD, các ngân hàng còn áp dụng các mô hình định lượng để đánh giá mức độ RRTD bằng một con số cụ thể. • Mô hình điểm số Z Đây là mô hình do E.I.Alman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại RRTD đối với người vay và phụ thuộc vào: (i) Chỉ số các yếu tố tài chính của người vay: X; (ii) Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay trong quá khứ, mô hình được mô tả như sau: Z = 1,2X1 + 1,4X2 +3,3X3 + 0,6X4 +0,1X5 (1) Trong đó: X1: tỷ số “vốn lưu động ròng / tổng tài sản” X2: tỷ số “lợi nhuận tích luỹ / tổng tài sản” X3: tỷ số “lợi nhuận trước thuế và lãi / tổng tài sản” X4: tỷ số “trị giá cổ phiếu / giá trị ghi sổ của nợ dài hạn” X5: tỷ số “doanh số / tổng tài sản” Trị số Z càng cao thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp và ngược lại. Z<1,8: khách hàng có khả năng rủi ro cao. 1,83: khách hàng ít có khả năng vỡ nợ Những công ty nào điểm số Z<1,81 thường được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao. Ưu điểm: Kỹ thuật đo lường RRTD tương đối đơn giản, rõ ràng và dễ thực hiện. 6 Nhược điểm: Mô hình này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có rủi ro. Trong thực tế, mức độ RRTD tiềm ẩn ở mỗi khách hàng là khác nhau như chậm trả lãi, chậm trả gốc, không trả lãi được và không có khả năng trả gốc. Do đó, sẽ có một nhóm khách hàng không thể áp dụng được mô hình này để đánh giá. Mô hình này chưa bao quát hết các nhân tố mang tính định tính tác động đến RRTD của một khách hàng như sự thay đổi của nền kinh tế, mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng, những lợi thế thương mại của khách hàng… • Mô hình xếp hạng của Moody và Standard & Poor RRTD trong cho vay và đầu tư thường được thể hiện bằng việc xếp hạng khoản cho vay. Việc xếp hạng này được thực hiện bởi một số dịch vụ xếp hạng tư nhân trong đó có Moody và Standard & Poor là những dịch vụ tốt nhất. Đối với Moody xếp hạng cao nhất từ Aaa nhưng với Standard & Poor thì cao nhất là AAA. Việc xếp hạng giảm dần từ Aa (Moody) và AA (Standard & Poor) sau đó thấp dần để phản ánh rủi ro không được hoàn vốn cao. Trong đó, những khoản cho vay trong 4 loại đầu được xem như khoản cho vay mà ngân hàng nên đầu tư, còn các khoản cho vay bên dưới được xếp hạng thấp hơn thì ngân hàng không cho vay. Nhưng thực tế vì phải xem xét mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa rủi ro và lợi nhuận nên những khoản cho vay tuy được xếp hạng thấp (rủi ro không hoàn vốn cao) nhưng lại có lợi nhuận cao nên đôi lúc ngân hàng vẫn chấp cho vay. Nguồn Xếp hạng Tình trạng Standard & Poor Aaa Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất* Aa Chất lượng cao* A Chất lượng trên trung bình* Baa Chất lượng trung bình* Ba Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ B Chất lượng dưới trung bình Caa Chất lượng kém Ca Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ 7 Moody C Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu AAA Chất lượng cao nhất, rủi ro thấp nhất* AA A BBB BB B CCC CC C Chất lượng cao* Chất lượng trên trung bình* Chất lượng trung bình* Chất lượng trung bình mang yếu tố đầu cơ Chất lượng dưới trung bình Chất lượng kém Mang tính đầu cơ, có thể vỡ nợ Chất lượng kém nhất, triển vọng xấu Nguồn: Quản trị ngân hàng thương mại (2007).PGS.TS.Trần Huy Hoàng. 1.1.6. Chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng 1.1.6.1 Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = --------------------- x 100% Tổng dư nợ Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc, lãi không thu hồi được đầy đủ và đúng hạn như cam kết trong hợp đồng tín dụng nên đã bị chuyển sang nợ quá hạn. Theo Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN Việt Nam về việc Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng, dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng tín dụng ngân hàng càng kém và ngược lại tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp chứng minh được chất lượng tín dụng ngân hàng 8 càng tốt. Hiện nay, NHNN đang khống chế tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của các TCTD ở mức tối đa là 5% trên tổng dư nợ. 1.1.6.2. Tỷ lệ nợ xấu Nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu = ------------------ x 100% Tổng dư nợ Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam có quy định nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Và các nhóm nợ này đã được sửa đổi, bổ sung trong Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN Việt Nam. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ dùng để đánh giá chất lượng tín dụng của TCTD. Hiện nay, NHNN đang khống chế tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của các TCTD ở mức tối đa là 3% trên tổng dư nợ. TCTD nào khống chế được tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ dưới mức cho phép của NHNN là 3% thì hoạt động tín dụng của các TCTD đó không đáng lo ngại, chất lượng tín dụng vẫn đảm bảo, còn TCTD nào có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ càng cao thì khả năng thu hồi lãi và gốc của các khoản nợ xấu sẽ rất khó, làm cho nguy cơ mất vốn càng cao. 1.1.6.3. Hệ số rủi ro tín dụng Tổng dư nợ cho vay Hệ số RRTD = --------------------------- x 100% Tổng tài sản có Hệ số này cho ta thấy tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có, khoản mục tín dụng trong tổng tài sản càng lớn thì lợi nhuận sẽ lớn nhưng đồng thời RRTD cũng rất cao. Thông thường, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng được chia thành 3 nhóm: • Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng tốt: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro thấp nhưng có thể mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Đây cũng là những khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. 9 • Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng trung bình: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại cho ngân hàng là vừa phải. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. • Nhóm dư nợ của các khoản tín dụng có chất lượng xấu: Là những khoản cho vay có mức độ rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đây là khoản tín dụng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. 1.1.6.4. Chỉ tiêu hệ số thu nợ Hệ số thu nợ cao cho thấy công tác thu nợ đang tiến triển tốt, RRTD thấp. Chỉ tiêu này còn biểu hiện khả năng thu hồi nợ của ngân hàng từ việc cho khách hàng vay. Doanh số thu nợ Hệ số thu nợ = -------------------------- x 100% Doanh số cho vay  1.1.7. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 1.1.7.1. Nguyên nhân khách quan - Chính sách kinh tế của Nhà nước (như chính sách về tỷ giá, về lãi suất…) phải thay đổi cho phù hợp với những biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới vì nếu nền kinh tế có biến động mà Nhà nước không có những chính sách điều hành đúng đắn và kịp thời nhằm can thiệp vào nền kinh tế thì tình hình HĐKD của khách hàng gặp nhiều khó khăn, dẫn đến khả năng trả nợ lãi và gốc cho ngân hàng bị hạn chế và nguy cơ xảy ra RRTD là cao. - Mặc dù luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn thi hành có quy định việc TCTD có quyền xử lý TSĐB của khách hàng khi khách hàng không trả nợ vay nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thật vậy, TCTD không có chức năng trực tiếp cưỡng chế mà phải thông qua Tòa án xử lý. Thời gian chờ Tòa án thụ lý hồ sơ là cả một quá trình và việc tiến hành phát mãi, xử lý TSĐB vẫn còn nhiêu khê. Điều này gây ra sự chậm trễ trong việc thu hồi nợ vay. Bởi thực tế, khi có RRTD xảy ra, TCTD sẽ tiến hành thu hồi nợ bằng nhiều biện pháp và TSĐB là nguồn thu nợ hữu hiệu nhất đối với các TCTD. 10 - Những khủng hoảng về kinh tế thế giới, kinh tế trong nước, biến động của thị trường, tác động xấu đến hoạt động SX-KD của doanh nghiệp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán nợ vay cho ngân hàng và RRTD xảy ra. - Thiên tai, những thay đổi bất thường về thời tiết, tác động xấu đến điều kiện SX-KD của doanh nghiệp cũng là nguyên nhân gây ra RRTD cho ngân hàng. Bởi vì khi doanh nghiệp bị khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai, thời tiết…dẫn đến khả năng trả nợ của khách hàng bị hạn chế và nguy cơ mất vốn của ngân hàng là cao. 1.1.7.2. Nguyên nhân chủ quan ¾ Từ phía khách hàng vay vốn • Khách hàng gặp rủi ro trong HĐKD do trình độ và khả năng quản lý còn yếu kém Việc xây dựng và triển khai các phương án, dự án đầu tư SX-KD của doanh nghiệp không khoa học, việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng không phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của thị trường. • Khách hàng vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích Ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng trên cơ sở phương án sử dụng vốn vay có hiệu quả. Tuy nhiên, trên thực tế khi nhận được tiền vay, một số khách hàng không sử dụng đúng mục đích như phương án đã lập ban đầu, mà đem số tiền đó đầu tư vào các mục đích khác nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn. • Thiếu minh bạch và chính xác trong việc cung cấp các báo cáo tài chính Phần lớn các doanh nghiệp đều có hai đến ba báo cáo với số liệu khác nhau về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh, một báo cáo là để theo dõi tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp, một báo cáo là để nộp cho cơ quan thuế và báo cáo còn lại là để giải trình cho ngân hàng khi có nhu cầu vay vốn. Hầu hết các số liệu trong báo cáo cung cấp cho ngân hàng không còn tính trung thực, họ đưa ra những thông tin sai lệch nhằm đảm bảo các điều kiện để được ngân hàng cấp tín dụng. Vì vậy, khi nhân viên ngân hàng phân tích tình hình tài chính và kết quả kinh doanh dựa trên số liệu do các doanh nghiệp này cung cấp thì sẽ không chính xác. 11 ¾ Từ phía ngân hàng • Chính sách tín dụng của ngân hàng Chính sách tín dụng của ngân hàng không hợp lý, ngân hàng không thực hiện việc phân tán rủi ro mà tập trung cho vay đối với một số nhóm khách hàng, một số ngành nghề nhất định. Việc cho vay quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó dẫn đến rủi ro rất cao cho ngân hàng khi nhóm khách hàng đó gặp khó khăn hoặc ngành nghề kinh tế mà doanh nghiệp đó đang hoạt động không còn hấp dẫn với thị trường. • Trình độ, năng lực chuyên môn của một số nhân viên ngân hàng còn hạn chế Trình độ, năng lực chuyên môn của một số nhân viên làm công tác tín dụng còn hạn chế nên đã làm ảnh hưởng đến việc đánh giá đúng tình hình hoạt động của khách hàng. Từ đó, không phân tích được các báo cáo tài chính với kết quả chuẩn xác, không phát hiện ra được những số liệu không phù hợp với tình hình thực tiễn của doanh nghiệp, không am hiểu về thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẫn đến cho vay và đầu tư không hợp lý. • Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ ngân hàng còn hạn chế Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ ngân hàng có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi, kiểm tra và giám sát các khoản vay nhằm kịp thời phát hiện ra những sai sót và những vấn đề bất hợp lý có thể sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, để có những giải pháp xử lý kịp thời, hạn chế rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại dưới dạng hình thức, công tác kiểm tra, kiểm soát chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, kiểm tra kiểm soát nội bộ cần phải được xem như một công cụ hữu hiệu trong vấn đề phát hiện, phòng ngừa RRTD. • Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà không chú trọng trong quá trình kiểm tra, kiểm soát vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được theo dõi và giám sát việc sử dụng vốn vay nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích với phương án vay ban đầu. Tuy nhiên, trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác 12 này. Điều này một phần là do yếu tố tâm lý sợ gây phiền hà cho khách hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu. • Đạo đức nghề nghiệp của một số nhân viên ngân hàng Lĩnh vực tín dụng ngân hàng là một lĩnh vực rất nhạy cảm, nhân viên ngân hàng rất dễ bị cám dỗ bởi những cái lợi trước mắt mà người vay đem đến và sẽ cực kỳ nguy hiểm khi cán bộ ngân hàng bị tha hóa, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, bất chấp pháp luật, cố tình không tuân thủ chính sách tín dụng, không chấp hành đúng quy trình cho vay, không thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý cần thiết, không đảm bảo các nguyên tắc cần thiết của TSĐB… Thực tế, đã có nhiều trường hợp xảy ra là nhân viên ngân hàng tiếp tay với khách hàng làm giả hồ sơ vay, định giá TSĐB lên quá cao so với giá trị trên thị trường để rút tiền ngân hàng nhiều. 1.1.7.3. Nguyên nhân từ các tài sản đảm bảo Rủi ro có thể xảy ra rất lớn khi ngân hàng nhận TSĐB mà không thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý cần thiết theo quy định (như công chứng tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm tài sản, mua bảo hiểm vật chất cho các TSTC, tài sản cầm cố, tài sản bào lãnh…); Ngân hàng không tuân thủ quy định hiện hành về định giá TSTC nên đã định giá tài sản quá cao so với giá trị thực tế. Điều này sẽ đem lại rủi ro cao khi xử lý tài sản để thu hồi nợ. Tóm lại, trên thực tế RRTD có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan. Do vậy, bên cạnh việc đánh giá, nhận định các yếu tố kinh tế vĩ mô, các NHTM cần phải có những biện pháp phòng ngừa RRTD ngay từ khi bắt đầu đi thẩm định, kiểm tra tình thực tế để xem xét cho vay và khi cho vay xong thì trong suốt quá trình thu nợ ngân hàng cũng cần phải quan tâm theo dõi hoạt động kinh doanh của khách hàng một cách chặt chẽ, phải có những biện pháp cụ thể để tránh gặp phải những rủi ro có thể phát sinh do các nguyên nhân trên gây ra. 1.2. Quản trị rủi ro tín dụng 1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng 13 QTRRTD là quá trình ngân hàng hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng nhằm tối đa hóa lợi nhuận với mức rủi ro có thể chấp nhận. 1.2.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng • RRTD là nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự tổn thất về vốn của các NHTM Thường thu nhập của các NHTM được đem lại chủ yếu là từ nguồn thu nhập của hoạt động tín dụng. Thực tế, RRTD là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tổn thất về vốn cho các NHTM. Vì vậy, RRTD được xem là một trong những nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các ngân hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và QTRRTD hiệu quả. Một khi ngân hàng chấp nhận nhiều khoản cho vay có RRTD cao thì ngân hàng có khả năng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính thanh khoản thấp. Điều này có thể làm giảm HĐKD cũng như lợi nhuận của ngân hàng, thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Cho nên, các NHTM cần phải chú trọng hơn nữa đến QTRRTD để có những giải pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa và hạn chế tối đa RRTD xảy ra. • QTRRTD là thước đo năng lực kinh doanh của các NHTM Tình hình kinh tế ngày càng có nhiều biến động, thị trường tài chính, tiền tệ và ngân hàng cũng diễn biến phức tạp hơn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là RRTD. Mặc dù, trước khi cho vay nhân viên ngân hàng đã tìm hiểu thị trường và dự đoán những rủi ro có thể xảy ra nhưng sự tiên liệu, phát hiện rủi ro tiềm ẩn và ứng phó của nhân viên ngân hàng là có giới hạn, trên thực tế RRTD phát sinh do nhiều nguyên nhân, có thể do nguyên nhân khách quan, chủ quan hay do bất khả kháng… Vì vậy, QTRRTD phải được xem là một nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực kinh doanh của các NHTM để ngăn ngừa và hạn chế tối đa những tổn thất do RRTD gây ra. • QTRRTD tốt là một lợi thế cạnh tranh của các NHTM QTRRTD được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng sàn lọc được những khách hàng có năng lực pháp lý tốt, năng lực tài chính tốt, có tiềm năng phát triển… nhằm giúp cho việc tài trợ vốn của ngân hàng thực sự mang lại hiệu quả, và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong quá trình cạnh tranh. 1.2.3. Mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng 14 Mục tiêu của QTRRTD là để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở giữ mức độ RRTD hoặc tổn thất tín dụng ở mức ngân hàng có thể chấp nhận, được kiểm soát và trong phạm vi nguồn lực tài chính của ngân hàng. 1.2.4. Một số công cụ cần thiết trong quản trị rủi ro tín dụng 1.2.4.1. Chính sách quản trị rủi ro tín dụng Chính sách QTRRTD là hệ thống các quan điểm, chủ trương và biện pháp của NHTM, để nhận diện và QTRRTD một cách có hiệu quả nhằm giảm thiệt hại và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Nói cách khác, chính sách QTRRTD là cơ chế và là chính sách cụ thể để giám sát và QTRRTD một cách có hệ thống và hiệu quả. Do đó, các NHTM cần xây dựng cơ chế cấp tín dụng hợp lý như phân cấp quản lý và uỷ quyền trong phê duyệt tín dụng; xác định thị trường, ngành nghề, lĩnh vực cho vay; xây dựng các giới hạn trong hoạt động tín dụng; xây dựng chính sách khách hàng; quy định về TSĐB… 1.2.4.2. Chính sách phân bổ tín dụng Phân bổ theo khu vực địa lý: Thực hiện phân chia phạm vi cấp tín dụng theo khu vực địa lý, chủ trương ưu tiên mở rộng hoạt động tín dụng tại những nơi có điều kiện mở rộng tín dụng và chất lượng tín dụng bảo đảm, giới hạn một mức tối đa ở những khu vực có chất lượng tín dụng thấp. Phân bổ theo kỳ hạn cho vay và loại tiền cho vay: Việc cấp tín dụng phải bảo đảm sự phù hợp giữa cơ cấu kỳ hạn và loại tiền cho vay. Chẳng hạn, như việc quy định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn. Phân bổ theo loại hình sản phẩm cho vay, đối tượng khách hàng, mặt hàng và lĩnh vực đầu tư: Đa dạng hóa các sản phẩm cho vay theo nguyên tắc hạn chế tối đa rủi ro, đa dạng hóa các đối tượng khách hàng nhằm giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra, đa dạng lĩnh vực cho vay theo nguyên tắc phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế và chính sách vĩ mô của Nhà nước. 1.2.4.3. Lãi suất 15 Lãi suất là giá cả sử dụng vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan. Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia do NHNN điều hành. Nó có tác động rất lớn đối với việc thu hẹp hay mở rộng tín dụng, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Vì vậy, một chính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại. Trong thời gian qua, tình hình biến động theo chiều hướng tăng của lãi suất cho vay đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng tín dụng của các NHTM. Thật vậy, lãi suất vay vốn trong thời gian qua luôn ở mức cao, đã tạo áp lực lớn về tiền lãi vay của các doanh nghiệp trong giai đoạn nền kinh tế còn nhiều khó khăn và phức tạp như hiện nay. Mặt khác, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều trở ngại, giá cả vật tư hàng hóa tăng cao cùng với sự tăng cao của chi phí lãi vay đã làm cho hiệu quả hoạt động SX-KD của các doanh nghiệp bị giảm sút mạnh, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không có khả năng đóng lãi vay và trả nợ gốc khi đến hạn, và nợ quá hạn phát sinh. Vì vậy, các ngân hàng cần phải xem chính sách lãi suất là một công cụ cần thiết trong QTRRTD để có những giải pháp can thiệp kịp thời nhằm hạn chế tối đa RRTD xảy ra. 1.2.4.4. Hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ Hiện nay, việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội bộ đang trở nên cần thiết và quan trọng đối với công tác QTRR nói chung, đặc biệt là RRTD nói riêng của các ngân hàng. Việc thực hiện xếp hạng tín nhiệm nội bộ nhằm mục đích là phân loại các khoản nợ, đánh giá chất lượng tín dụng, trích lập dự phòng trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng. Xếp hạng tín nhiệm nội bộ được xem là một công cụ hiệu quả trong công tác thẩm định, ra quyết định cho vay và giúp ngân hàng có thể đánh giá chính xác mức độ rủi ro của từng khoản vay, phân loại nợ theo thông lệ quốc tế, và cũng là cơ sở để nâng cao chất lượng quản lý tín dụng và trích lập dự phòng phù hợp. 1.2.4.5. Công cụ tín dụng phái sinh 16 Công cụ tín dụng phái sinh là các hợp đồng tài chính được ký kết bởi các bên tham gia giao dịch tín dụng (ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, nhà đầu tư…) nhằm đưa ra những khoản đảm bảo chống lại sự dịch chuyển bất lợi về chất lượng tín dụng của các khoản đầu tư hoặc những tổn thất liên quan đến tín dụng. Đây là công cụ hiệu quả giúp ngân hàng giảm thiểu RRTD, rủi ro lãi suất. Các công cụ tín dụng phái sinh chủ yếu gồm có: - Hoán đổi tín dụng (credit swap): Theo hợp đồng hoán đổi tín dụng, hai ngân hàng sau khi cho vay sẽ thỏa thuận nhau trao đổi một phần hay toàn bộ các khoản thu nhập cho vay theo các hợp đồng tín dụng của mỗi bên. Việc thỏa thuận sẽ được thực hiện bởi một tổ chức trung gian (có thể là một TCTD khác). Tổ chức trung gian có trách nhiệm lập hợp đồng hoán đổi tín dụng giữa hai bên, đứng ra bảo đảm việc thực hiện hợp đồng của các bên và được thu phí. Việc thực hiện hợp đồng hoán đổi tín dụng giúp cho các ngân hàng tham gia đa dạng hóa được danh mục tín dụng, để giảm thiểu RRTD. - Quyền chọn tín dụng (credit option): Hợp đồng quyền chọn tín dụng giúp cho ngân hàng giảm thiệt hại một khi chất lượng của khoản cho vay giảm do không thu được nợ hay chi phí cho vay tăng do phải huy động vốn với lãi suất cao hơn. + Quyền chọn mua: Hợp đồng này được sử dụng khi ngân hàng lo ngại khoản tín dụng vừa cấp cho khách hàng có chất lượng kém, ngân hàng sẽ tìm đến người bán quyền (option dealer) để mua quyền chọn tín dụng với một mức phí nhất định phụ thuộc vào giá trị của khoản cho vay. Khi đến hạn thu nợ, nếu khoản cho vay bị giảm giá (do chi phí cho vay tăng) hay người đi vay không trả được nợ, ngân hàng sẽ sử dụng quyền chọn của mình để được thanh toán toàn bộ thu nhập của khoản cho vay, trường hợp người vay thanh toán đầy đủ và đúng hạn, ngân hàng sẽ bỏ quyền chọn và chấp nhận mất khoản phí mua quyền chọn. Thực chất là ngân hàng mua quyền được bù đắp thiệt hại từ RRTD khi cho vay. + Quyền chọn bán: Hợp đồng này được sử dụng khi ngân hàng lo ngại trong tương lai khi phát hành trái phiếu để huy động vốn mà phải trả một mức lãi suất cao hơn hiện tại do biến động của nền kinh tế hay do ngân hàng bị giảm bậc trong xếp hạng tín dụng nên ngân hàng sẽ ký hợp đồng mua quyền chọn bán rủi ro trong huy 17 động vốn với option dealer và chịu một khoản phí nhất định. Theo hợp đồng này, nếu đến ngày phát hành trái phiếu để huy động vốn mà lãi suất huy động cao hơn hiện tại thì ngân hàng được quyền bán trái phiếu cho option dealer với lãi suất huy động hiện tại. Ngược lại, nếu đến ngày phát hành trái phiếu để huy động vốn mà chi phí huy động bằng hoặc nhỏ hơn hiện tại thì ngân hàng bỏ quyền chọn bán và chịu mất phí mua quyền chọn để huy động vốn theo lãi suất thị trường. Thực chất là ngân hàng mua quyền được bù đắp thiệt hại từ RRTD khi huy động vốn. 1.2.5. Nguyên tắc của Ủy ban Basel về quản trị rủi ro tín dụng 1.2.5.1. Sơ lược về Ủy ban Basel Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng là một diễn đàn cho sự hợp tác thường xuyên về các vấn đề liên quan đến giám sát hoạt động ngân hàng do các NHTW các nước G10 thành lập vào năm 1974 dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Thanh toán quốc tế. Mục tiêu của Ủy ban Basel là hiểu rõ hơn về các vấn đề mấu chốt trong việc giám sát hoạt động ngân hàng và nâng cao chất lượng giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn cầu. Để đạt được mục tiêu đó, Ủy ban Basel trao đổi các thông tin về các vấn đề giám sát hoạt động ngân hàng của các quốc gia, các phương pháp và kỹ thuật với phương châm là để có một sự hiểu biết đồng nhất về các vấn đề đó. Trên cơ sở đó, Ủy ban Basel dùng sự hiểu biết đồng nhất này để xây dựng các văn bản hướng dẫn và tiêu chuẩn trong các lĩnh vực mà họ cho là cần thiết. Ủy ban Basel được biết đến trên khắp thế giới về các thông lệ quốc tế mà họ đưa ra về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hiệu quả; và thỏa ước về giám sát hoạt động ngân hàng xuyên biên giới. Thành viên của Ủy ban Basel là NHTW hoặc cơ quan giám sát ngân hàng của các quốc gia như Argentina, Úc, Bỉ, Brazil, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, In-đô-nê-xia, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Luxembourg, Mexico, Hà Lan, Nga, Ả Rập Xê Út, Singapore, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ. 1.2.5.2. Nguyên tắc của Ủy ban Basel về quản trị rủi ro tín dụng Một quốc gia mà có sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng, dù quốc gia đó đã phát triển hay đang phát triển, cũng sẽ đe dọa đến sự ổn định về tài chính trong cả nội 18 bộ quốc gia đó. Vì vậy, nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính là điều mà Ủy ban Basel quan tâm. Ủy ban Basel đã đưa ra các nguyên tắc chủ yếu về QTRRTD, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng. Cụ thể, • Xây dựng môi trường QTRRTD thích hợp ¾ HĐQT có trách nhiệm phê duyệt và định kỳ xem xét chiến lược về RRTD và các chính sách về RRTD của ngân hàng. Chiến lược cần phản ánh mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng và mức sinh lời mà ngân hàng kỳ vọng đạt được khi gánh chịu các rủi ro này. ¾ Ban Tổng giám đốc có trách nhiệm thực hiện chiến lược RRTD được HĐQT phê duyệt, phát triển các chính sách và thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát RRTD. Các chính sách và thủ tục này cần nhằm vào RRTD trong mọi hoạt động của ngân hàng, ở cấp độ từng khoản tín dụng cũng như toàn bộ danh mục đầu tư. ¾ Các ngân hàng cần xác định và QTRRTD trong mọi sản phẩm và hoạt động. Các ngân hàng cần bảo đảm rằng các rủi ro của các sản phẩm và hoạt động mới phải tuân thủ các thủ tục QTRR và kiểm soát phù hợp trước khi được đưa vào sử dụng hoặc triển khai và phải được HĐQT hoặc ủy ban của hội đồng phê duyệt. • Quy trình cấp tín dụng lành mạnh ¾ Ngân hàng cần thiết lập các tiêu chí cụ thể cho quá trình cấp tín dụng. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường mục tiêu của ngân hàng và cho thấy sự hiểu biết cặn kẽ về bên vay hay đối tác cũng như mục đích, cơ cấu của khoản tín dụng và nguồn hoàn trả. ¾ Ngân hàng cần thiết lập đầy đủ các quy trình để phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn và tái tài trợ các khoản tín dụng hiện hành. ¾ Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng tổng thể ở mức từng bên vay và đối tác, nhóm các đối tác có liên quan đến nhau để tạo ra các loại hình RRTD khác nhau theo cách có ý nghĩa và có thể so sánh được, ở trong sổ sách kế toán ngân hàng và sổ sách kế toán kinh doanh, nội bảng và ngoại bảng. 19 ¾ Việc cấp tín dụng cần phải được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên. Đặc biệt, các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có liên quan cần được phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ, theo dõi cẩn thận và triển khai các bước cần thiết để kiểm soát hay loại trừ rủi ro cho vay đối với các trường hợp ngoại lệ. • Duy trì quy trình đo lường, quản lý và giám sát phù hợp ¾ Ngân hàng phải có hệ thống quản lý liên tục các danh mục đầu tư có RRTD. ¾ Ngân hàng phải có hệ thống theo dõi các điều kiện của từng khoản tín dụng bao gồm xác định mức độ đủ dự phòng và dự trữ. ¾ Ngân hàng phải phát triển và sử dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong QTRRTD. ¾ Ngân hàng phải có hệ thống thông tin và các kỹ thuật phân tích để cho phép lãnh đạo đo lường được RRTD trong mọi hoạt động nội bảng và ngoại bảng. ¾ Ngân hàng phải có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng của toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng. ¾ Ngân hàng cần tính đến các thay đổi tiềm năng trong tương lai về các điều kiện kinh tế khi đánh giá từng khoản tín dụng và danh mục đầu tư tín dụng, và phải đánh giá mức độ RRTD trong điều kiện căng thẳng. • Bảo đảm kiểm soát đầy đủ đối với RRTD ¾ Ngân hàng cần xây dựng hệ thống đánh giá liên tục, độc lập về các quá trình QTRRTD và kết quả đánh giá cần được báo cáo trực tiếp cho HĐQT và ban Tổng giám đốc. ¾ Ngân hàng cần xây dựng và tăng cường kiểm soát nội bộ và các hoạt động khác nhằm bảo đảm các vi phạm về chính sách, thủ tục và giới hạn được báo cáo kịp thời cho cấp lãnh đạo thích hợp để xử lý. ¾ Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề và các trường hợp cần giải quyết tương tự. Như vậy, theo Ủy ban Basel có một số điểm cơ bản trong QTRRTD, cụ thể: 20 • Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín dụng, bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận tham gia. • Nâng cao năng lực của cán bộ QTRRTD. • Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và QTRRTD. 1.3. Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng của một số NHTM trên thế giới 1.3.1. Kinh nghiệm quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM Trung Quốc [2] Theo quy định của ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (với tư cách là NHTW), bộ phận tín dụng của các NHTM cần phải có các quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, kịp thời thu thập thông tin để phân loại, thiết lập và hoàn chỉnh hồ sơ phân loại, kịp thời đề xuất kiến nghị kiểm tra lại; chịu trách nhiệm về tính chân thực, tính chuẩn xác, tính hoàn chỉnh của các dữ liệu phân loại đã cung cấp; tiến hành phân loại sơ bộ tài sản theo tiêu chuẩn phân loại, đề xuất ý kiến và lý do phân loại; định kỳ báo cáo cho bộ phận QTRRTD những thông tin phân loại của bộ phận tín dụng; căn cứ vào kết quả phân loại tiến hành quản lý các khoản tín dụng có sự phân biệt trong quản lý đối với từng khoản tín dụng, thực hiện các biện pháp cải tiến, loại trừ và xử lý rủi ro. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã ban hành Hướng dẫn trích lập dự phòng tổn thất cho vay và yêu cầu các NHTM kiểm tra định kỳ đối với các loại tài sản dựa trên nguyên tắc thận trọng dự kiến một cách hợp lý các khoản tài sản có khả năng phát sinh tổn thất và trích lập dự phòng giảm giá tài sản đối với các tài sản có khả năng phát sinh tổn thất như dự phòng tổn thất cho vay… Đồng thời, theo đó các khoản tín dụng được phân thành 5 nhóm: nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), nợ cần chú ý (nhóm 2), nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ (nhóm 4), nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5), trong đó nợ nhóm 3, 4, 5 được gọi là nợ xấu. Việc trích lập dự phòng tổn thất cho vay bao gồm: dự phòng chung và dự phòng cụ thể: - Dự phòng chung: Được trích hàng tháng và được xác định bằng 1% số dư cuối [2] http://www.google.com.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan