MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ, CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
3
1.1. COMBRETASTATIN CA-4
3
1.2. CÁC DẪN CHẤT CỦA COMBRETASTATIN A-4
11
1.2.1. Các dẫn chất của CA-4 khi thay đổi trên vòng B
11
1.2.2. Các dẫn chất của CA-4 khi thay đổi trên vòng A
15
1.2.3. Các dẫn chất của CA-4 khi thay đổi trên cầu nối
16
ethylen
1.3. PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP CÁC DẪN CHẤT
21
N-ALKYL HÓA, OXIM VÀ THIAZOLIDIN-4-ON
1.3.1. Tổng hợp các dẫn chất N-alkyl hóa
21
1.3.2. Tổng hợp các dẫn chất oxim
22
1.3.3. Tổng hợp các dẫn chất thiazolidin-4-on
23
CHƯƠNG 2. NGUYÊN VẬT LIỆU, THIẾT BỊ, NỘI
27
DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. NGUYÊN VẬT LIỆU, THIẾT BỊ
27
2.1.1. Hóa chất
27
2.1.2. Thiết bị, dụng cụ
28
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
28
2.2.1. Docking
28
2.2.2. Tổng hợp hóa học
29
2.2.3. Thử hoạt tính sinh học
29
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
29
2.4.1. Docking
29
2.4.2. Tổng hợp hóa học, thử tinh khiết và khẳng định cấu
30
trúc
2.4.3. Thử hoạt tính gây độc tính tế bào
32
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
35
3.1. KẾT QUẢ DOCKING
35
3.2. HÓA HỌC
36
3.2.1. Tổng hợp hóa học
36
3.2.2. Kiểm tra độ tinh khiết
45
3.2.3. Khẳng định cấu trúc
47
3.3. KẾT QUẢ THỬ HOẠT TÍNH SINH HỌC
57
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
58
4.1. DOCKING
58
4.2. TỔNG HỢP HÓA HỌC
59
4.2.1. Phản ứng tổng hợp các chất 1a-g
60
4.2.2. Phản ứng tổng hợp các chất 2a-c
60
4.2.3. Phản ứng tổng hợp các chất 3a-c
61
4.3. KHẲNG ĐỊNH CẤU TRÚC
64
4.3.1. Phổ hồng ngoại
64
4.3.2. Phổ khối lượng
66
4.3.3. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
68
4.4. HOẠT TÍNH SINH HỌC
74
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
78
1. KẾT LUẬN
78
2. KIẾN NGHỊ
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
13
C-NMR
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
carbon 13 (13C-Nuclear
Magnetic Resonance)
1
H-NMR
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
proton (1H-Nuclear
Magnetic Resonance)
AcOH
Acid acetic
ADN
Acid deoxyribonucleic
ADR
Adriamycin
AsPC-1
Dòng tế bào ung thư tụy người
CTPT
Công thức phân tử
DCC
N,N’- Dicyclohexylcarbodiimid
DCM
Dicloromethan
DMF
N,N-dimethylformamid
DMSO-d6
Dimethyl sulfoxid deutri hóa
FBS
Huyết thanh bào thai bò (Fetal Bovine Serum)
EtOH
Ethanol
IR
Phổ hồng ngoại (Infrared spectrometry)
IC50
Nồng độ ức chế 50%
J
Hằng số tương tác (Hz)
KLPT
Khối lượng phân tử
MeOH
Methanol
MS
Phổ khối lượng (Mass spectrometry)
NCI-H23
Dòng tế bào ung thư phổi người
PC-3
Dòng tế bào ung thư tiền liệt tuyến người
SAHA
Acid suberoylanilid
SW620
Dòng tế bào ung thư đại tràng người
TLC
Sắc ký lớp mỏng (Thin Layer Chromatography)
T0nc
Nhiệt độ nóng chảy
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
1
Tên bảng
Bảng 1.1 Hoạt tính sinh học của các dẫn chất của CA-4 khi
Trang
11
thay đổi vòng B
2
Bảng 1.2 Hoạt tính sinh học của các dẫn chất của CA-4 khi
15
thay đổi vòng A
3
Bảng 1.3 Hoạt tính sinh học của các dẫn chất của CA-4 khi
17
thay đổi cầu nối ethylen
4
Bảng 3.1 Kết quả docking của các dẫn chất
35
5
Bảng 3.2 Chỉ số lý hóa và hiệu suất tổng hợp của các chất
40
1a-g
6
Bảng 3.3 Chỉ số lý hóa và hiệu suất tổng hợp của các chất
42
2a-c
7
Bảng 3.4 Chỉ số lý hóa và hiệu suất tổng hợp của các chất
45
3a-c
8
Bảng 3.5 Giá trị Rf và nhiệt độ nóng chảy (tonc) của 13 dẫn
46
chất tổng hợp được
9
Bảng 3.6 Kết quả phân tích phổ IR của 13 dẫn chất tổng hợp
47
được
10
Bảng 3.7 Kết quả phân tích phổ MS của 13 dẫn chất tổng hợp
49
được
11
Bảng 3.8 Kết quả phân tích phổ 1H-NMR của 13 dẫn chất
50
tổng hợp được
12
Bảng 3.9 Kết quả phân tích phổ
13
C-NMR của 13 dẫn chất
54
tổng hợp được
13
Bảng 4.1 Kết quả hoạt tính gây độc tế bào của 13 dẫn chất
tổng hợp được
74
DANH MỤC CÁC HÌNH
TT
Tên hình
Trang
1
Hình 1.1
Cấu trúc của CA-4 và CA4DP
3
2
Hình 1.2
Cấu trúc một số thuốc kháng tubulin hiện nay
4
3
Hình 1.3
Cơ chế tác dụng của các thuốc kháng tubulin
5
4
Hình 1.4
Cấu trúc combretastatin A4
11
5
Hình 4.1
Hình ảnh docking của 13 dẫn chất và CA-4 vào
58
tubulin
6
Hình 4.2
Hình ảnh docking của 1d và CA-4 vào tubulin
59
7
Hình 4.3
Phổ đồ hồng ngoại của chất 2a
66
9
Hình 4.4
Phổ khối lượng của chất 3c
67
10
Hình 4.5
Phổ 1H-NMR của chất 1e
70
11
Hình 4.6
Phổ 1H-NMR giãn rộng của chất 2c
71
12
Hình 4.7
Phổ 1H-NMR giãn rộng của chất 3c
73
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Tên sơ đồ
TT
Trang
1
Sơ đồ 1.1
Tổng hợp các dẫn chất N-alkyl isatin
22
2
Sơ đồ 1.2
Tổng hợp các dẫn chất oxim hóa
23
3
Sơ đồ 1.3
Tổng hợp các dẫn chất thiazolidin-4-on qua giai
24
đoạn trung gian tạo imin
4
Sơ đồ 1.4
Tổng hợp các dẫn chất thiazolidin-4-on chỉ qua 1
26
bước
5
Sơ đồ 3.1
Quy trình tổng hợp các dẫn chất kiểu CA-4 mang
36
khung indolin 2,3-dion
6
Sơ đồ 3.2
Quy trình tổng hợp các dẫn chất kiểu CA-4 mang
40
khung 3-(hydroxyimino)-indolin-2-on
7
Sơ đồ 3.3
Quy trình tổng hợp các dẫn chất kiểu CA-4 mang
43
khung thiazolidin-4-on
8
Sơ đồ 4.1
Cơ chế phản ứng tạo các dẫn chất 3a-c với xúc tác
DCC
63
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư là căn bệnh nguy hiểm đối với tính mạng con người trên toàn thế
giới hiện nay. Trong nhiều thập kỷ qua, các nỗ lực tìm kiếm các thuốc chống ung
thư được toàn nhân loại rất quan tâm. Rất nhiều hợp chất mới đã được thiết kế
nhằm hướng đến các mục tiêu phân tử mới dự kiến sẽ đem lại hiệu quả đối với
nhiều loại ung thư. Trong khi các loại thuốc mới được thiết kế cho "mục tiêu
mới" được khuyến khích mạnh, các mục tiêu phân tử từng nghiên cứu trước đây
không bị bỏ qua mà tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn. Trong đó, protein tubulin
là một trong những "mục tiêu cũ" hiện nay vẫn thu hút được rất nhiều sự quan
tâm trong việc nghiên cứu, phát hiện thuốc chống ung thư mới. Ngoài ra, với sự
phong phú của các hợp chất thiên nhiên cũng đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc sàng lọc, tìm kiếm và thiết kế các hợp chất có hoạt tính chống ung thư
mạnh hơn. Trong đó phải kể đến combretastatin A-4 (CA-4), một hợp chất thiên
nhiên có mục tiêu phân tử là protein tubulin là điều hết sức khả thi.
CA-4 có rất nhiều hoạt tính quý như ức chế tăng sinh mạch máu khối u [5],
gây độc nhiều dòng tế bào ung thư đa kháng thuốc [32] và ức chế trùng hợp
protein tubulin [28]. Điều này đã thúc đẩy số lượng lớn các nhà khoa học đầu tư
mạnh vào lĩnh vực đầy tiềm năng này. Rất nhiều dẫn chất của CA-4 đã được
tổng hợp, nghiên cứu để tìm ra các hoạt chất trở thành thuốc có hoạt tính mạnh
hơn, ít tác dụng phụ hơn. Với số lượng lớn các dẫn chất đã được tổng hợp dần hé
lộ những bí mật vô cùng phong phú về mối liên hệ giữa cấu trúc với tác dụng
sinh học của các dẫn chất CA-4. Điều này giúp chúng ta có cái nhìn thấu đáo hơn
về các dẫn chất CA-4 và cũng từ đó giúp các nhà tổng hợp hóa dược thuận tiện
hơn trong việc thiết kế các dẫn chất CA-4 mới có tiềm năng trở thành thuốc.
1
Hội nhập với xu thế nghiên cứu của thế giới và tìm kiếm các dẫn chất của
CA-4 có hoạt tính kháng ung thư tốt, chúng tôi thực hiện đề tài : “Tổng hợp một
số dẫn chất kiểu combretastatin A-4 hướng kháng tế bào ung thư” với 2 mục
tiêu:
1. Thiết kế, tổng hợp được một số dẫn chất kiểu combretastatin A-4 mang
khung indolin-2-on và thiazolidin-4-on.
2. Thử được hoạt tính gây độc tế bào ung thư của các dẫn chất tổng hợp
được.
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. COMBRETASTATIN CA-4
Combretastatin A-4 (CA-4) (hình 1) được chiết xuất từ vỏ cây liễu
Combretum caffrum ở Nam Phi, là một chất có hoạt tính mạnh trong việc ức chế
trùng hợp tubulin và gây độc các tế bào ung thư [3, 14]. Hoạt tính gây độc tế bào
ung thư của CA-4 thể hiện trên một loạt dòng tế bào ung thư người kể cả một số
dòng tế bào ung thư đa kháng thuốc [32]. Ngoài ra, CA-4 còn thể hiện hoạt tính
chống tăng sinh mạch máu khối u - một trong những chiến lược mới trong cuộc
chiến chống ung thư hiện nay [5]. Tuy nhiên, do tính kém tan trong nước nên
CA-4 cho hoạt tính thấp trên in vivo [3]. Chính vì thế, một tiền chất cải thiện độ
tan trong nước của CA-4 đã được nghiên cứu phát triển là CA-4 dinatri phosphat
(CA4DP, fosbretabulin, Zybrestat™) (hình 1), chất này đã được thử nghiệm lâm
sàng pha II. Kết quả thử nghiệm lâm sàng cho thấy CA4DP đáp ứng rất tốt đối
với bệnh nhân ung thư tuyến giáp, ung thư phổi và ung thư buồng trứng [54].
Hình 1.1. Cấu trúc của CA-4 và CA4DP
Các combretastatin đều là những hợp chất thiên nhiên có cấu trúc rất đơn
giản, có hoạt tính gây độc tế bào với cơ chế được biết đến là khả năng ức chế sự
trùng hợp tubulin. Mặc dù có hơn 12 hoạt chất combretastatin được chiết xuất từ
C. cafrum và một số thực vật khác nhưng CA-4 lại được chú ý nhiều nhất trong
số đó [28]. CA-4 được báo cáo là hợp chất có khả năng chống lại số lượng lớn
3
các tế bào ung thư, trong đó tác dụng trên cả các tế bào ung thư bạch cầu mạn
tính với nồng độ rất thấp.
Cơ chế gây độc tế bào của CA-4 cũng như các combretastatin khác được
biết đến là khả năng ức chế trùng hợp tubulin. Đây cũng là cơ chế tác dụng của
một số thuốc hiện nay đang được dùng trong điều trị ung thư như các alkaloid
dừa cạn (vincristin, vinblastin), taxol (paclitaxel), các epothilon, các crytophycin,
colchicin, podophyllotoxin, các combretastatin A-4 (hình 1).
Hình 1.2. Cấu trúc một số thuốc kháng tubulin hiện nay
4
Hình 1.3. Cơ chế tác dụng của các thuốc kháng tubulin
Trong thử nghiệm ức chế trùng hợp tubulin, CA-4 thể hiện hoạt tính mạnh
với IC50 khoảng 2-3M [28]. Tác nhân này cũng ức chế cạnh tranh vị trí liên kết
của colchicin với tubulin với giá trị Ki biểu kiến là 0,14 M trong thử nghiệm
cạnh tranh liên kết trên đích tubulin. McGrown và Fox [32] cũng chỉ ra rằng CA4 có khả năng thay thế vị trí liên kết [3H] của colchicin nhưng không có khả năng
thay thế vị trí liên kết [3H] của các vincristin dừa cạn [17]. Như vậy, vị trí liên
kết đặc biệt của CA-4 và colchicin là giống nhau, khác với vị trí liên kết của các
vincristin. Trong khi colchicin liên kết chậm với tubulin và liên kết này phụ
thuộc nhiều nhiệt độ thì CA-4 lại ngược lại. Liên kết giữa tubulin và CA-4 xảy ra
rất nhanh và không bị ảnh hưởng bời nhiệt độ và phức hợp giữa CA-4 với
tubulin có thể xảy ra ngay cả trong điều kiện lạnh [27]. Liên kết này là liên kết
thuận nghịch được minh chứng khi CA-4 chiếm vị trí liên kết của colchicin trên
5
tubulin với đồng vị đánh dấu phóng xạ colchicin ở nồng độ cao; nửa thời gian
phân ly của CA-4 trong natri glutamat 1M là 2,4 phút, còn với colchicin là 405
phút [27].
Trong điều trị ung thư hiện nay, việc ngày càng xuất hiện nhiều dòng tế
bào đa kháng thuốc là những thách thức lớn cho nhân loại. Điều này cũng được
xác nhận đối với thuốc chống ung thư kinh điển như vincristin, vinblastin và
paclitaxel. Điều đáng nói ở đây là CA-4 lại thể hiện khả năng gây độc tính mạnh
hướng tới các tế bào ung thư đa kháng thuốc này như dòng tế bào P-388 kháng
daunorubicin [32].
Mặc dù CA-4 gây độc tế bào và ức chế trùng hợp tubulin rất tốt nhưng
CA-4 lại thất bại đối với tác dụng kháng khối u trên nghiên cứu in vivo. Điều này
được lý giải bởi khả năng hòa tan trong nước của CA-4 rất thấp. Tuy nhiên khi
các combretastatin được gắn thêm phần đường thì hoạt tính gây độc tế bào lại
giảm nghiêm trọng so với CA-4. Các nỗ lực sau đó được hướng tới nhằm vào
việc tổng hợp một lượng lớn các tiền chất của CA-4 có khả năng hòa tan tốt
trong nước mà vẫn giữ nguyên hoạt tính, và điều này đã dẫn đến ra đời tiền chất
dinatriphotphat của CA-4 (hay CA4DP) có khả năng tan trong nước rất tốt [41].
Khi vào cơ thể, CA4DP sẽ được enzym photphatase nội sinh chuyển thành CA-4
và đưa vào trong các tế bào [41]. CA4DP đã đạt được những kết quả đáng khích
lệ trên các nghiên cứu in vivo và in vitro.
Trên nghiên cứu in vitro, CA-4 và CA4DP có khả năng gây độc hoặc
chống các tế bào ung thư nội mô tăng sinh mà không ảnh hưởng đến các tế bào
bình thường khác. Các nghiên cứu đã chỉ rõ cơ chế tác dụng gây độc chọn lọc
của CA-4 chống lại sự tăng sinh các tế bào nội mô được thông qua việc kích hoạt
các thành tố trung gian trong apoptosis (tế bào chết theo chương trình) khi các tế
6
bào được ủ với CA-4 trong 24h [21]. Hơn nữa, nó có thể chuyển tiền enzym
CP32 thành caspase 3 có hoạt tính (một cystein protease đóng vai trò quan trọng
trong kiểm soát nhiều tế bào trong apoptosis). Tuy nhiên, cơ chế gây độc tế bào
của CA-4 không chỉ đơn thuần chỉ tế bào chết theo chương trình mà nó còn có
cơ chế phức tạp khác [21]. Trong một nghiên cứu khác, CA-4 có hiệu quả gây
độc tế bào trên dòng tế bào bạch cầu lympho cấp tính (WSU-CLL) khi các tế bào
WSU-CLL này tiếp xúc với CA-4 sau khi đã cho thêm chất ức chế caspase-9
(một enzym của apoptosis) để tránh các tế bào thử nghiệm bị chết theo chu trình
apoptosis. Kết quả nghiên cứu này cho thấy ngoài cơ chế tế bào chết theo
chương trình, CA-4 còn có cơ chế phức tạp khác [36].
Mặc dù CA-4 có đặc tính như một tác nhân chống lại sự tăng sinh tế bào
ung thư nội mô một cách chọn lọc nhưng thời kỳ đầu nó vẫn chưa được biết đến
với tác dụng ức chế tăng sinh mạch máu của khối u trên in vivo. Tuy nhiên, với
sự chú ý mạnh mẽ của các nhà khoa học với CA-4 đã dần làm tiết lộ bí mật hoạt
tính chống tăng sinh mạch máu của CA-4 trên các khối u. Do các khối u muốn
phát triển được thì yêu cầu phải có các mạch máu nuôi dưỡng khối u đó. Hơn
nữa, các mạch máu này cũng phải được hình thành và phát triển cùng với sự phát
triển của các khối u. Với các kiến thức mới về mạch máu nuôi dưỡng các khối u,
việc ức chế sự tạo mạch này là một trong những chiến lược mới, quan trọng
trong cuộc chiến ung thư của nhân loại. Chính vì vậy, hoạt tính chống tạo mạch
máu trên các khối u của CA-4 được các nhà khoa học càng chú ý hơn.
Các nghiên cứu trên in vivo cũng chỉ ra rằng số lượng dòng máu trên khối
u CaNT (khối u ác tính trong tuyến NT) trên chuột giảm hơn 60% trong 24h khi
dùng CA-4 (50mg/kg) [5]. Trong mô hình nghiên cứu ung thư vú ác tính (MDAMB-231), việc đóng các mạch máu nuôi dưỡng các khối u này cũng được chứng
7
minh giảm 93% thể tích mạch máu trong 6h khi chỉ sử dụng CA-4 với mức liều
đơn chỉ bằng 1/10 liều tối đa có thể chịu đựng (100 mg/kg). Trong một nghiên
cứu khác, Grosios và đồng nghiệp cũng chỉ ra rằng cả CA-4 (150 mg/kg) và
CA4D (100mg/kg) gây ra sự đóng hoàn toàn các mạch máu nuôi dưỡng khối u
sau 4h với sự xuất huyết và hoại tử phạm vi rộng trên các khối u biểu mô ruột
kết của chuột (MAC 15A) [14]. Tác dụng tăng sinh mạch máu nuôi dưỡng khối u
này cũng được lặp lại với CA4DP trên nhiều mô hình thử nghiệm khối u của
chuột như tế bào ung thư biểu mô C3H [30], ung thư biểu mô chuột P22, tế bào
nuôi cấy mô ở người như dòng tế bào nuôi cấy mô SW620 [14]. Điều này đã
minh chứng CA-4 có liên quan đến tác dụng chọn lọc trên sự hình thành, phát
triển các mạch máu khối u, không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng không đáng kể
trên các mạch máu mô gan bình thường nhưng có khả năng ngăn chặn số lượng
lớn dòng máu vận chuyển đến các khối u so với các mô bình thường [29]. Ngoài
ra các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, CA-4 và CA4DP phân bố vào các mô khối u
lớn hơn rất nhiều so với các mô bình thường. Điều này cho thấy tính chọn lọc
cao của CA-4 và CA4DP trên các khối u. Những kết quả nghiên cứu này đã dự
báo trước cho CA4DP sẽ là một tác nhân chống tăng sinh mạch khối u một cách
chọn lọc và hiệu quả.
Sự tăng trưởng về kích thước của các khối u được cho là sự sinh sôi các tế
bào ở ngoại vi của khối u và chúng được cung cấp dinh dưỡng bằng cách khuếch
tán từ các mô xung quanh, dường như độc lập với mạch máu khối u [5]. Do nửa
đời sinh học của CA4DP là rất ngắn (15 phút) và các mạch máu bên trong khối u
có điều kiện hồi phục, nên Boehle và đồng nghiệp đã thử tiêm CA4DP với chế
độ đơn liều được lặp đi lặp lại trong 21 ngày để tăng cường hiệu quả điều trị khối
u [3]. Phác đồ này cho thấy sự ức chế tăng trưởng đáng kể các khối u ở cả ung
8
thư tuyến (95%) và các mô hình tế bào ung thư phổi ở người (69%) [3]. Một
phác đồ đa liều (4 x 200 mg/kg) cũng đã được tìm thấy biểu hiện khả năng ức
chế sự phát triển khối u trên tế bào WSU-DLCL2 của chuột xuất hiện trong 12
ngày [37]. Trong mô hình u Kaposi trên chuột, với liều duy nhất CA4DP (100
mg/kg) dẫn đến tắt mạch máu nhanh chóng và gần như hoàn toàn, tiếp theo hoại
tử với rộng (~ 90%) chỉ trong 24 h [42].
Ngoài tác dụng ức chế sự phát triển mạch máu khối u, một vài nghiên cứu
gần đây đã chứng minh CA4DP đóng vai trò như một tác nhân chống di căn rất
mạnh [52]. Zhao và cộng sự [52] nghiên cứu thấy với liều đơn CA4DP
(140mg/kg) có khả năng ức chế trung bình khoảng 30% sự di căn của các tế bào
ung thư gan của chuột (B6D2F1) sau 24h tiêm thuốc. Ngoài ra, nghiên cứu còn
cho thấy nếu tiếp tục tiêm CA4DP liều thấp (15mg/kg) trong 14 ngày đã ức chế
được sự di căn của tế bào ung thư ruột non DBA của chuột trên 70% [29].
Những kết quả này cho thấy CA4DP là hợp chất có tiềm năng trong việc điều trị
các bệnh nhân ung thư gan giai đoạn di căn.
Hoạt tính gây độc tế bào ung thư của CA4DP càng được tăng cường khi
kết hợp với các liệu pháp gây độc tế bào thông dụng như hóa trị liệu, xạ trị cũng
là một điểm sáng trong nghiên cứu về CA4DP. Trong 3 mô hình nghiên cứu khối
u gồm dòng tế bào ung thư KHT chuột, tế bào ung thư vú ở người (SKBR3), tế
bào ung thư buồng trứng ở người (OW-1), cisplastin hoặc cyclophosphamid
được tiêm sau 1h sau khi tiêm CA4DP với liều 100mg/kg thì hiệu quả điều trị
tăng lên từ 10 - 500 lần so với phương pháp điều trị chỉ có cisplastin hoặc
cyclophosphamid [45]. Trong mô hình nghiên cứu khối u CaNT, CA4DP cũng
được chứng minh là tăng cường đáng kể đáp ứng cisplastin đối với các khối u
[4]. Điều này cũng lặp lại khi kết hợp CA4DP với các tác nhân gây độc tế bào
9
khác như doxorubicin, CA4DP cũng làm tăng cường khả năng gây độc tính tế
bào ở các hệ trị liệu trên một loạt các mô hình nghiên cứu khối u, kể cả trên tiền
lâm sàng và lâm sàng. Khi được kết hợp với xạ trị, CA4DP với liều 100mg/kg
làm giảm kích thước khối u từ 10 - 500 lần so với liệu pháp chỉ dùng xạ trị [26].
Kết hợp xạ trị với CA4DP ở một liều duy nhất đã được chứng minh là rất
có hiệu quả trong việc loại bỏ những tế bào ung thư còn lại ở phần ngoại vi của
khối u [29]. Các tác dụng hiệp động mạnh mẽ từ sự kết hợp CA4DP và xạ trị
cũng được chứng minh trong nhiều mô hình nghiên cứu khối u khác như ung thư
vú C3H ở chuột [34].
CA4DP gần đây đã được thử nghiệm lâm sàng pha II. Những kết quả ban
đầu của pha II cho thấy CA4DP là ứng cử viên sáng giá có hoạt tính tốt trên lâm
sàng. Người ta cũng đã xác định được mức liều tối đa của CA4DP trên người là
60 mg/m2. Kết quả thử nghiệm lâm sàng cho thấy CA4DP đáp ứng rất tốt đối với
bệnh nhân ung thư tuyến giáp, ung thư phổi và ung thư buồng trứng [54]. Điều
đáng chú ý là độc tính của CA4DP được tìm thấy là phù hợp với thuốc có hoạt
tính ức chế tăng sinh mạch máu, tác dụng phụ gây độc trên tế bào lành khác hầu
như không đáng kể, điển hình là không gây nhiễm độc tủy xương, rụng tóc như
các tác dụng phụ của các thuốc điều trị ung thư truyền thống [12].
Gần đây, Hill và cộng sự cũng báo cáo một tiền thuốc diphosphat của
combretastatin A1 (ký hiệu là Oxi 4503) như là một tác nhân kháng mạch khác
biệt so CA4DP [16]. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng Oxi 4503 có khả năng phá
hủy các mạch máu trên tất cả vùng khối u, cả cả phần ngoại vi, trong khi CA4DP
ảnh hưởng rất ít đến những vùng này. Với những đặc điểm thuận lợi, Oxi 4503
được mong đợi được đi vào thử nghiệm lâm sàng như một tác nhân mới ức chế
tăng sinh và phát triển mạch máu khối u.
10
1.2. CÁC DẪN CHẤT CỦA COMBRETASTATIN A-4
Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các dẫn
chất của CA-4, các chất này có thể tồn tại trong tự nhiên hoặc được tổng hợp,
bán tổng hợp. Về mặt cấu trúc, chiến lược thiết kế các hợp chất này có thể được
phân loại thành ba nhóm thiết kế với những thay đổi được thực hiện trên vòng B,
vòng A và cầu nối đôi ethylen của dẫn chất CA-4.
Hình 1.4. Cấu trúc combretastatin A4
1.2.1. Các dẫn chất của CA-4 khi thay đổi trên vòng B
Đại diện của các dẫn chất của CA-4 khi thay đổi vòng B được tóm tắt
trong bảng 1 dưới đây.
Bảng 1.1. Hoạt tính sinh học của các dẫn chất của CA-4 khi thay đổi vòng B
Hoạt tính gây độc tế bàoa
Ức chế trùng
hợp tubulinb TLTK
(IC50, M)
Chất
R
IC50 (nM)
Tỷ lệ
IC50hc/ IC50CA-4
1a
4’-OCH3
2,9 x 10-2
4,7
2,2
1b
3’-OCH3
3,6 x 102
5,9 x 104
8,8
1c
2’-OCH3
2,5 x 103
3,9 x 105
-
11
[7]
- Xem thêm -