ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG TRANG
TÔN GIÁO MỚI Ở NHẬT BẢN
TỪ SAU THẾ CHIẾN 2 ĐẾN NHỮNG NĂM 1990
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học
Mã số: 60 31 50
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Hồng Thái
Hà Nội - 2012
Lời cảm ơn
Trước hết, cho phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy Phạm Hồng
Thái, người đã hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.
Tiếp theo, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Đông
Phương đã tận tình truyền đạt kiến thức và giúp đỡ cho tôi trong thời gian tôi
học cao học tại trường.
Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình tôi đã động viên, giúp đỡ
và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
MỤC LỤC ...........................................1
MỞ ĐẦU ............................................3
CHƯƠNG 1. TÔN GIÁO MỚI Ở NHẬT BẢN SAU THẾ CHIẾN 2 ĐẾN
NHỮNG NĂM 1990: KHÁI NIỆM, NGUYÊN NHÂN
ĐẶC ĐIỂM VÀ
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN ...............................9
1.1. Khái niệm tôn giáo mới ở Nhật Bản sau Thế chiến 2 ...........9
1.2. Nguyên nhân xuất hiện của các tôn giáo mới ở Nhật Bản sau
Thế chiến 2 ........................................12
1.3. Đặc điểm của các tôn giáo mới ........................18
1.4. Quá trình phát triển của tôn giáo mới ở Nhật Bản sau Thế chiến 2 .23
Kết luận chương 1 ....................................30
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ DIỆN MẠO ĐIỂN HÌNH CỦA TÔN GIÁO MỚI Ở
NHẬT BẢN SAU THẾ CHIẾN 2 ĐẾN NHỮNG NĂM 1990.........32
2.1. Soka Gakkai (創価学会- Sáng Giá Học Hội) ...............32
2.2. Giáo phái Omoto (大本教) ...........................40
2.3. Giáo phái Chân lý Aum (オウム真理教) ..................47
2.4. Diện mạo của một số tôn giáo mới khác ..................56
Kết luận chương 2 ....................................64
CHƯƠNG 3. ẢNH HƯỞNG CỦA TÔN GIÁO MỚI ĐỐI VỚI XÃ HỘI
VÀ NHÀ NƯỚC Ở NHẬT BẢN TỪ SAU KẾT THÚC THẾ CHIẾN 2 ĐẾN
NHỮNG NĂM 1990....................................66
3.1.Những ảnh hưởng của tôn giáo mới đối với đời sống xã hội
Nhật Bản ..........................................66
1
3.2. Ảnh hưởng của tôn giáo mới đến việc hoàn thiện chính sách tôn giáo
của nhà nước Nhật Bản từ kết thúc Thế chiến 2 đến những năm 1990 ..72
3.3. Một số liên hệ bước đầu về vấn đề tôn giáo mới ở Việt Nam
hiện nay ..........................................78
Kết luận chương 3 ....................................86
KẾT LUẬN .........................................87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................90
PHỤ LỤC ...........................................96
2
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài:
Hiện nay vấn đề tôn giáo nói chung cũng như tôn giáo mới nói riêng
đang trở thành mối quan tâm có tính toàn cầu. Nhiều học giả cho rằng sự nở
rộ và tính phức tạp của nó đang là một trong những hiện tượng đặc trưng của
thời đại chúng ta.
Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã tiến hành công
cuộc đổi mới đất nước theo hướng phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình phát triển kinh tế diễn ra với sự tăng
trưởng nhanh trong điều kiện hội nhập quốc tế đã đem lại cho chúng ta nhiều
thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, song cũng đặt ra nhiều thách thức, nhất là
trong lĩnh vực đời sống tư tưởng và văn hóa. Trong lĩnh vực đời sống tôn giáo
có nhiều biểu hiện khởi sắc góp phần vào việc làm phong phú, đa dạng sinh
hoạt văn hóa tinh thần và đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân trong xã
hội hiện đại. Mặc dù vậy, trong lĩnh vực này hiện nay cũng xuất hiện nhiều
vấn đề phức tạp. Bên cạnh việc tôn giáo góp phần định hướng các giá trị đạo
đức lành mạnh, làm đa dạng thêm những nét văn hoá trong các sinh hoạt cộng
đồng, nhiều giáo phái tôn giáo mới cũng gây nên không ít những vấn đề bức
xúc trong công tác quản lý nhà nước. Để tăng cường hiểu biết đời sống tôn
giáo và công tác quản lí văn hoá, chúng ta cần phải nhìn nhận đúng thực trạng
và khuynh hướng phát triển của tôn giáo mới ở nước ta. Mặc dù vậy, nếu chỉ
việc nghiên cứu thực tiễn trong nước là chưa đủ để giải quyết được những vấn
đề đó mà cần thiết phải tìm hiểu kinh nghiệm thực tiễn quốc tế, đặc biệt là
kinh nghiệm của các nước trong khu vực đã có quá trình phát triển kinh tế thị
trường trước chúng ta.
3
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước cùng nằm trong khu vực Đông Á, có
nền văn hoá truyền thống với nhiều nét tương đồng. Trong giai đoạn hiện đại
(từ 1945 đến nay), sự xuất hiện của các tôn giáo mới ở Nhật Bản được coi
như một hiện tượng điển hình. Tuy nhiên sự vận động, phát triển của các tôn
giáo mới ở đây cũng đặt ra không ít những vấn đề phức tạp. Việc xuất hiện ồ
ạt của các tôn giáo mới, sự tham gia của nhiều tổ chức tôn giáo vào đời sống
chính trị, hiện tượng tôn giáo gây khủng bố bằng bạo lực... đã từng tạo nên
những vấn đề xã hội rất bức xúc ở Nhật Bản trong nhiều năm cuối thế kỷ XX.
Mặc dù vậy, chính phủ Nhật Bản đã rất nỗ lực và đạt hiệu quả đáng quan tâm
trong việc tìm ra những giải pháp kịp thời trong lĩnh vực quản lí tôn giáo, vừa
đảm bảo nguyên tắc tự do tôn giáo, vừa duy trì những sinh hoạt tôn giáo trong
vòng trật tự. Đối với chúng ta, việc tìm hiểu thực tế trên của đời sống tôn giáo
ở Nhật Bản là rất cần thiết. Việc nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển
cũng như những tác động xã hội của tôn giáo mới của Nhật Bản chắc chắn sẽ
đem lại cho chúng ta nhiều gợi mở tốt cho quá trình nghiên cứu hiện tượng
tôn giáo mới tại Việt Nam hiện nay. Điều không kém phần quan trọng là kinh
nghiệm thực thi nguyên tắc tự do tôn giáo của Nhật Bản. Làm thế nào để vừa
đảm bảo được quyền tự do hoạt động của các tổ chức tôn giáo, trong đó có
các tôn giáo mới, lại vừa tạo điều kiện cho sự quản lí của nhà nước, đảm bảo
được an ninh trật tự xã hội là những vấn đề chắc chắn sẽ hữu ích cho thực tiễn
của Việt Nam. Với ý nghĩa như vậy, cùng với sự ham mê đối tượng của người
nghiên cứu về Nhật Bản, tôi đã chọn đề tài: “Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau
Thế chiến 2 đến những năm 1990” làm đề tài cho luận văn cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Tôn giáo mới là một hiện tượng nổi bật và có nhiều ảnh hưởng trong xã
hội Nhật Bản trong những năm sau Thế chiến 2. Chính vì vậy, các công trình
nghiên cứu về mảng đề tài này khá phong phú. Trong phạm vi những tài liệu
4
ngoài tiếng Việt mà luận văn tiếp cận được,có thể nêu ra một số công trình
điển hình như: “Mười tôn giáo mới lớn của Nhật Bản” (日本の 10 大新宗教
) của Shimada Hiromi; “ “Tân tôn giáo” của Nhật Bản- không thể thờ ơ nếu
không biết- phía sau của phía sau thị trường khổng lồ hai trăm triệu người đã
bị thuyết phục khi đọc” (知らないではすまされない日本の「新宗教」
―読んでナットク“2 億人”巨大市場の裏のウラ) của Ishikura Hiroshi;
“Thời đại tân tôn giáo” (新宗教時代) của Deguchi Sanpei;....Mặc dù sự
nghiên cứu như đã nói là rất phong phú, song các công trình chủ yếu thể hiện
quan điểm nghiên cứu của các học giả nước ngoài và nhìn nhận trong thời kỳ
Nhật Bản trong giai đoạn chưa đi vào khủng hoảng. Tại Việt Nam hiện nay,
ngành nghiên cứu Nhật Bản ở nước ta hiện nay đã quy tụ được khá nhiều các
công trình nghiên cứu về các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy
nhiên,lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo, đặc biệt về lĩnh vực nghiên cứu tôn giáo
mới ở Nhật Bản sau Thế chiến 2 vẫn còn nhiều mảng trống. Có thể nêu ra một
số công trình được dịch từ tài liệu nước ngoài như cuốn “Tôn giáo Nhật
Bản”, tác giả Murakami Shigeyoshi, do Tiến sĩ Trần Văn Trình biên dịch (
NXB Tôn giáo- 2005); “Nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản” của Joshep M.
Kitajawa, do dịch giả Hoàng Thị Thơ biên dịch (NXB Khoa học xã hội –
2002), bài dịch “Tôn giáo Nhật Bản” (trích dịch từ cuốn “Tôn giáo Nhật Bảncông trình nghiên cứu của Cục Văn hóa” do Nxb Kodansha phát hành,
Tokyo) được dịch giả Phan Tường Vân biên dịch đăng tạp chí Nghiên cứu
Tôn giáo số 01/1999. Gần đây có cuốn sách: “Lịch sử tôn giáo Nhật Bản”, tác
giả Sueki Fumihiko, do Tiến sĩ Phạm Thu Giang biên dịch (NXB Thế giới2011)... Về công trình do các tác giả trong nước thực hiện, tiêu biểu là cuốn “
Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện nay” do Tiến sĩ Phạm Hồng Thái chủ biên
(NXB Khoa học xã hội- 2005); bài viết “Tìm hiểu chính sách tôn giáo của
5
nhà nước Nhật Bản” đăng tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 5/2002 và bài “Vấn
đề tôn giáo mới trong xã hội Nhật Bản hiện đại” đăng tạp chí Nghiên cứu Tôn
giáo số 10/2007 của Tiến sĩ Phạm Hồng Thái. Ngoải ra có bài “Tôn giáo Nhật
Bản hiện đại: Sự vận động của tự do tín ngưỡng” đăng tạp chí Nghiên cứu
Phật học số 1/2007 của Tiến sĩ Trần Văn Trình. Đặc biệt hầu như chưa có
công trình nào đề cập trực tiếp và hoàn chỉnh đến vấn đề tôn giáo mới ở Nhật
Bản trong tương quan so sánh với tình hình Việt Nam. Trong công trình “Đời
sống tôn giáo Nhật Bản hiện nay”, các tác giả cũng đã đề cập tới một số vấn
đề của tôn giáo mới trong giai đoạn hiện đại, đặc biệt là đã đưa ra một số định
nghĩa về tôn giáo mới, nguyên nhân xuất hiện và những đặc điểm, một vài tác
động của chúng. Đặc biệt, cũng trong công trình nay, các tác giả đã sơ bộ đề
cập đến hiện tượng Giáo phái Chân lí Aum và những tác động tiêu cực mà nó
đã gây ra. Tuy nhiên, đây là một cuốn sách tập trung vào các vấn đề của đời
sống tôn giáo Nhật Bản hiện đại nên những vấn đề nêu trên chỉ được đề cập
đến một cách sơ lược, nhất là diện mạo chủ yếu của các tôn giáo mới thì hoàn
toàn chưa đề cập đến. Đề cập trực tiếp đến đề tài này còn được thấy qua các
bài viết của các tác giả như Phạm Hồng Thái về một số đặc điểm của tôn giáo
mới qua bài viết “Tôn giáo mới ở Nhật Bản từ sau 1945 đến nay” đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5(59)/2005, Bài “Tôn giáo
ra tòa, sự kết thúc của giáo phái Aum” của tác giả D.W.Brakett đăng trên tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 5/2001, tr. 30- 38. Các công trình khác về tôn
giáo Nhật Bản có ít nhiều đề cập đến hiện tượng tôn giáo mới song phần lớn
mới dừng lại ở mức độ điểm qua mà không có sự phân tích sâu sắc, nhất là đề
cập đến các tổ chức tôn giáo cụ thể. Chính vì vậy, đề tài “Tôn giáo mới ở
Nhật Bản sau Thế chiến 2 đến những năm 1990” vẫn là một mảng chưa hoàn
chỉnh, cần có những nghiên cứu bổ sung để đưa ra một bức tranh đầy đủ về
quá trình xuất hiện với những nguyên nhân, đặc điểm, những diện mạo điển
6
hình của tôn giáo mới và tác động nhiều mặt của nó tới xã hội Nhật Bản trong
giai đoạn này. Việc thực hiện đề tài luận văn “Tôn giáo mới ở Nhật Bản sau
Thế chiến 2 đến những năm 1990" chắc chắn sẽ có ý nghĩa lí luận và thực tiễn
rất bổ ích. Nó sẽ cung cấp thêm thông tin về các tôn giáo mới ở Nhật Bản,
góp phần làm phong phú thêm cho ngành nghiên cứu Nhật Bản ở Việt Nam
hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Luận văn lấy đối tượng là đời sống tôn giáo mới ở Nhật Bản sau chiến
tranh, cụ thể là quá trình phát sinh, phát triển, những tác động xã hội của các
tôn giáo mới trong giai đoạn từ sau Thế chiến 2 (1945) đến năm 1990. Tuy
nhiên, nghiên cứu đời sống tôn giáo mới trong giai đoạn này chúng tôi không
thể bỏ qua các tôn giáo mới xuất hiện trước đó mà những biểu hiện của nó
còn rất mới trong giai đoạn đang nghiên cứu của luận văn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: luận văn tập trung nghiên cứu các tôn
giáo mới ở Nhật Bản giai đoạn từ sau Thế chiến 2 (1945) đến những năm
1990.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở của phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về tôn giáo, tác giả giải quyết các vấn đề cơ bản của đề tài, đồng
thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phân tích, so sánh,
tổng hợp... Ngoài ra, tác giả còn kết hợp lý luận với thực tiễn, kết hợp việc tự
nghiên cứu và tham khảo các đề tài nghiên cứu của các tác giả khác đăng trên
các tạp chí khoa học hoặc các trung tâm nghiên cứu, các giáo trình giảng dạy
về Nhật Bản và tôn giáo ở các trường đại học.
5. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn gồm ba chương:
7
Chương 1: Tôn giáo mới ở Nhật Bản sau kết thúc Thế chiến 2 đến những
năm 1990: khái niệm, nguyên nhân, đặc điểm và quá trình phát triển.
Chương 2: Những diện mạo chủ yếu của tôn giáo mới ở Nhật Bản từ kết
thúc Thế chiến 2 đến những năm 1990
Chương 3: Ảnh hưởng của tôn giáo mới đối với xã hội và nhà nước ở Nhật
Bản từ sau kết thúc Thế chiến 2 đến những năm 1990.
8
CHƯƠNG 1
TÔN GIÁO MỚI Ở NHẬT BẢN SAU THẾ CHIẾN 2
ĐẾN NHỮNG NĂM 1990: KHÁI NIỆM,
NGUYÊN NHÂN, ĐẶC ĐIỂM VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Như chúng ta đã biết, sau khi Thế chiến 2 kết thúc, đời sống tôn giáo ở
Nhật Bản diễn ra rất sôi động với diện mạo mới. Đó là sự xuất hiện ngày một
nở rộ của các nhóm, các đoàn thể, hiệp hội mà sau này được gọi là “tôn giáo
mới”. Tôn giáo mới phát triển thành một hiện tượng tại Nhật Bản, sau đó,
hiện tượng này cũng thấy tràn lan tại nhiều quốc gia phương Tây và Châu Á
khác. Tuy nhiên, sự phát triển của tôn giáo mới ở Nhật Bản là có tính điển
hình so với các nước khác trên thế giới cả về tốc độ phát triển, quy mô và
những nét đặc trưng phản ánh điển hình những vấn đề của xã hội hiện đại.
Vậy tôn giáo mới ở Nhật Bản là gì, chúng xuất hiện do những nguyên nhân
nào, đặc điểm của chúng ra sao và sự phát triển của chúng tại Nhật Bản diễn
ra như thế nào là những vấn đề chúng tôi muốn trình bày khái quát trong
chương này.
1.1. Khái niệm tôn giáo mới ở Nhật Bản sau Thế chiến 2
Khái niệm “Tôn giáo mới” lần đầu tiên xuất hiện tại Nhật Bản là vào
thời gian sau kết thúc Thế chiến 2 (1945). Tôn giáo mới được phân biệt với
các tôn giáo truyền thống mà thường là các giáo phái có nguồn gốc từ Phật
giáo và Thần đạo. Có rất nhiều cách hiểu về thuật ngữ “tôn giáo mới” khác
nhau. Tùy theo góc độ tiếp cận đối tượng mà trong các công trình nghiên cứu
về tôn giáo mới ở Nhật Bản cho đến nay có thế thấy thuật ngữ tôn giáo mới
được hiểu theo 3 cách [20, tr.75] hay 4 cách [29, tr.1-2]. Ở đây chúng tôi trình
bày được phân chia theo 4 cách hiểu cơ bản theo quan điểm của Giáo sư
Inoue Nobutaka của Đại học Kogakuin Nhật Bản:
9
Cách hiểu thứ nhất cho rằng tôn giáo mới là các tôn giáo xuất hiện từ
đầu thế kỷ XIX. Cách hiểu thứ hai lại cho rằng tôn giáo mới là các tôn giáo
xuất hiện khoảng trong thời kỳ Duy tân Minh Trị. Cách hiểu thứ ba cho rằng
tôn giáo mới là các tôn giáo xuất hiện từ đầu thế kỷ XX. Cách hiểu cuối cùng
thì cho rằng đó là các tôn giáo xuất hiện sau Thế chiến 2.
Theo quan niệm thứ nhất, tức là coi tôn giáo mới là những giáo phái xuất
hiện tại Nhật Bản từ đầu thế kỷ XIX thì phải kể đến hàng loạt các tổ chức tôn
giáo dựa trên tín ngưỡng tôn thờ thần núi rất phổ biến vào đầu thế kỷ XIX
như Fuji-kô. Những tôn giáo này được coi là những giáo phái sớm nhất của
các tôn giáo mới tại Nhật Bản.
Theo quan niệm thứ hai, phải kể đến các giáo phái như Kurozumikyo
xuất hiện ở miền Tây Nhật Bản cùng thời gian với Konkokyo và Tenrikyo. Ba
tổ chức này đã có rất đông đảo tín đồ ngay từ ngày đầu thành lập và có ảnh
hưởng mạnh đến các tổ chức tôn giáo ở các giai đoạn sau.
Theo quan điểm thứ ba cho rằng tôn giáo mới xuất hiện từ đầu thế kỷ
XIX thì phải kể đến giáo phái Omoto và Reiyukai xuất hiện như những phong
trào quần chúng được đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư
bản trong giai đoạn này.
Quan điểm cho rằng tôn giáo mới xuất hiện sau Thế chiến 2 dựa trên sự
phát triển bùng phát của những phong trào tôn giáo mới kể từ sau 1945 dựa
trên nguyên tắc phân li giữa giáo hội và nhà nước, nguyên tắc tự do tôn giáo.
Mặc dù mối quan điểm đều có những mặt mạnh của nó song cũng không
khỏi có những điểm còn cần phải tranh cãi. Ngay quan điểm thứ nhất cũng dễ
nhận thấy rằng mặc dù phôi thai của tôn giáo mới chắc chắn là đã xuất hiện
vào khoảng đầu thế kỷ XIX, nhưng chúng chỉ có hình thái đầy đủ vào cuối
thời kỳ Tokugawa (khoảng những năm 1860). Ngược lại quan điểm thứ ba có
thể chỉ ra rằng, mặc dù các tôn giáo mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX như
10
Omoto và Reiyukai nhưng không thể không chịu ảnh hưởng sâu sắc về tổ
chức và giáo lí của những phong trào tôn giáo mới xuất hiện trước đó. Quan
điểm cuối cùng không thừa nhận sự tiếp nối của các tôn giáo mới sau Chiến
tranh với các tôn giáo xuất hiện trước đó, mà chú ý quá mức tới những biểu
hiện ồn ào bề ngoài của các tôn giáo sau Thế chiến 2.
Hơn thế nữa, sự khác biệt ý kiến cũng tồn tại khi nhìn nhận các phong
trào được nêu nên trong danh mục các tôn giáo mới. Vấn đề liên quan đến hai
mối quan tâm cơ bản. Thứ nhất là liên quan đến sự phân biệt được rút ra giữa
tôn giáo mới và các phong trào đổi mới trong các tôn giáo đã tồn tại, nhất là
trong các tôn giáo truyền thống. Quan điểm thứ hai liên quan đến sự phân biệt
giữa các tôn giáo mới và tôn giáo dân gian [29, tr.2].
Không có một quan điểm rõ ràng nào được đưa ra với vấn đề liên quan
thứ nhất nhưng phần lớn đều quan niệm rằng một tôn giáo được coi là “mới”
nếu nó bắt đầu với một thủ lĩnh mới, được gọi bằng cái tên mới, thậm chí
quan hệ mật thiết của nó với các giáo phái truyền thống trước đó cũng được
hiểu như cơ sở của sự đổi mới.
Cuộc tranh luận để đi đến việc phân biệt giữa tôn giáo mới và tôn giáo
dân gian tập trung vào những đặc tính về tổ chức. Trong trường hợp những
đoàn thể tôn giáo nhỏ được chỉ đạo bởi những nhân vật kiểu “ông đồng bà
cốt” hay “nhà thần” (Ogamiya) thì việc xác minh nó thuộc nhóm tôn giáo mới
hay tôn giáo dân gian là rất khó khăn. Trong một số lượng nhỏ các tổ chức,
những tín đồ thường có liên hệ đến thủ lĩnh của nhóm như là những “khách
hàng”. Một số tổ chức trong số đó có biểu hiện hoạt động giống như các
nhóm tôn giáo mới có quy mô lớn. Như vậy là, việc quyết định một tổ chức
tôn giáo thuộc về nhóm tôn giáo nào đó cần dựa vào mức độ đổi mới của nó
về tư tưởng và mục đích mà nhóm đó thể hiện.
11
Trong luận văn này, do mục đích muốn tìm hiểu đặc điểm của đời sống
tôn giáo mới giai đoạn sau Thế chiến 2 cho đến những năm 1990 nên nếu khu
biệt, loại trừ các tôn giáo mới xuất hiện những năm trước đó thì việc xem xét
sẽ trở nên phiến diện, vì nói đến các tôn giáo mới sau chiến tranh không thể
không đề cập đến các tôn giáo mới vừa xuất hiện trong giai đoạn trước đó,
hoặc về căn bản đã định hình trong những giai đoạn trước đó còn ảnh hưởng
rất sâu sắc đến đời sống tôn giáo mà luận văn đề cập đến, chẳng hạn như
trường hợp của Giáo phái Omoto hay Soka Gakkai. Chính vì luận văn sử
dụng thuật ngữ “tôn giáo mới’ theo cách hiểu thứ 3 và thứ 4, tức các tôn giáo
xuất hiện sau 1945 và những tôn giáo đã có từ đầu thế kỷ thứ XX nhưng đang
tiếp tục tồn tại trong giai đoạn sau này.
1.2. Nguyên nhân xuất hiện của các tôn giáo mới ở Nhật Bản sau
Thế chiến 2
Mặc dù ở Nhật Bản tôn giáo mới là một hiện tượng từng xuất hiện từ
các giai đoạn trước Thế chiến 2, nhưng giai đoạn kể từ sau kết thúc chiến
tranh, tôn giáo mới ở Nhật Bản có diện mạo rất đặc trưng. Trước hết là sự
phát triển nhanh chóng có tính bùng phát về lượng tạo ra sự thay đổi nhanh
chóng diện mạo đời sống tôn giáo trên quần đảo này. Trước 1945 ở Nhật Bản
chỉ có 43 tổ chức tôn giáo được nhà nước chính thức thừa nhận, trong đó có
13 tổ chức Thần đạo, 20 tổ chức Phật giáo, 2 tổ chức Kitô giáo (1 Thiên chúa
giáo và 1 Tin lành). Nhưng sau khi Sắc lệnh Pháp nhân Tôn giáo (宗教法人
令) được ban hành thì các nhóm độc lập mới tách ra từ các tổ chức tôn giáo
cũ và các tổ chức tôn giáo mới đăng ký hoạt động tăng nhanh đến mức cuối
năm 1949 số các giáo phái lên đến 430. Số các đền, chùa, nhà thờ tách ra khỏi
tổ chức mẹ để trở thành các tổ chức tôn giáo độc lập lên đến 1546) [20,
tr.154] . Mặc dù suốt hơn nửa thế kỷ qua cùng với những bước thăng trầm của
đời sống kinh tế - xã hội ở Nhật Bản các tôn giáo mới cũng có những bước
12
phát triển rất khác nhau trong mỗi giai đoạn, nhưng chiều hướng chung đáng
chú ý là số lượng các đoàn thể tôn giáo vẫn tiếp tục tăng [20, tr.77]. Theo
thống kê của Niên giám tôn giáo Nhật Bản xuất bản năm 2008 thì tính đến
ngày 30 tháng 12 năm 2007 tổng số các tổ chức tôn giáo trên toàn lãnh thổ
Nhật Bản lên tới 223.428 đơn vị bao gồm cả các tổ chức đã có tư cách pháp
nhân và chưa có tư cách pháp nhân. Trong số đó 88.861 tổ chức thuộc hệ
Thần đạo, 85.897 tổ chức thuộc hệ Phật giáo, 9.260 tổ chức thuộc hệ Kitô và
39.410 tổ chức khác. Nếu chỉ tính riêng các đoàn thể tôn giáo đã được công
nhận tư cách pháp nhân thì có tới 182.310 tổ chức, trong đó 85.313 tổ chức
thuộc hệ Thần đạo, 77.544 tổ chức thuộc hệ Phật giáo, 4.347 tổ chức thuộc hệ
Kitô và 15.106 tổ chức khác [42, tr.43]. Người ta đặt câu hỏi “tại sao số lượng
các tổ chức tôn giáo mới ở Nhật Bản lại tăng lên nhanh chóng như vậy?” Sau
đây là ba nguyên nhân chính được nhiều nhà nghiên cứu tôn giáo mới của
Nhật Bản đưa ra mà chúng tôi cho là có sức thuyết phục hơn cả:
Thứ nhất là sự thay đổi chính sách tôn giáo. Nếu so với chính sách tôn
giáo của Nhật Bản giai đoạn trước thì sau khi kết thúc Thế chiến 2, chính sách
tôn giáo của Nhật Bản đã thay đổi căn bản. Nguyên tắc “tế chính nhất trí” vốn
tồn tại hàng nghìn năm trong lịch sử Nhật Bản đã bị bãi bỏ. Thay vào đó là
nguyên tắc “chính giáo phân li”, hoạt động tôn giáo và hoạt động nhà nước là
độc lập. Hơn thế nữa, theo Hiến pháp Nhật Bản 1946 và Luật Pháp nhân tôn
giáo, các tổ chức tôn giáo không được quyền tham gia vào các hoạt động của
Nhà nước, không tham gia vào hoạt động chính trị. Trái lại, nhà nước cũng
không can thiệp vào các hoạt động trong phạm vi tín ngưỡng của các tổ chức
tôn giáo; tôn giáo tách biệt với giáo dục nhà trường.
Trước Thế chiến 2, mặc dù tự do tôn giáo đã được hiến pháp công nhận,
song trên thực tế sự can thiệp của nhà nước đối với tôn giáo vẫn còn là một
trở ngại rất đáng kể. Theo điều 28 của Hiến pháp Minh Trị, mặc dù tự do tôn
13
giáo được tuyên bố nhưng lại bị rào đón: “Các thần dân Nhật Bản, trong
phạm vi không làm tổn hại đến hoà bình và trật tự, và không chống lại bổn
phận của họ với tư cách là những thần dân, sẽ được hưởng tự do tín ngưỡng
tôn giáo” [20, tr.78]. Năm 1939 Luật Đoàn thể tôn giáo được ban hành. Luật
này không chỉ nhằm mở rộng quyền kiểm tra các tổ chức tôn giáo mà còn
nhằm quản lí chúng một cách chặt chẽ hơn dưới hình thức được giải thích là
vì hoà bình, ổn định. Thực tế là trong thời kỳ Duy tân Minh Trị, với khẩu hiệu
“Hòa hồn, dương tài”, Nhật Bản một mặt nỗ lực tiếp thu các thành quả văn
minh kỹ thuật phương Tây, nhưng cũng cố gắng bảo vệ và đề cao văn hóa dân
tộc. Chính phủ Minh Trị ngay từ ngày đầu đã chủ trương làm thuần khiết văn
hóa dân tộc Nhật Bản trên cơ sở thực hành chính sách thượng tôn Thần đạo và
gạt bỏ những ảnh hưởng của các giá trị văn hóa ngoại lai một cách cực đoan
trong đó có việc tẩy trừ Phật giáo, Nho giáo và các tôn giáo có nguồn gốc
nước ngoài khác. Chính sách cực đoan này sau bị dư luận trong nước và quốc
tế phản đối dữ dội nên phải điều chỉnh lại song thái độ kiềm chế của chính
quyền với các tôn giáo khác vẫn tiếp tục ảnh hưởng kéo dài đến các giai đoạn
về sau. Thêm vào đó do Nhật Bản tham gia chiến tranh nên điều kiện để tôn
giáo mới nảy sinh là hạn chế. Mặc dù vậy trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ
đã tồn tại rất nhiều loại nhóm tín ngưỡng như là tiền đề cho việc hình thành
những tổ chức tôn giáo mới sau chiến tranh. Điển hình trong đó là các nhóm
như Nhóm trẻ em ( 子 供 組 - kodomo gumi), nhóm con trai ( 若 者 組 wakamono), nhóm con gái (娘組- musume gumi), nhóm niệm Phật (念仏講nembutsu kò), nhóm koshin (更新講- koshin kò), nhóm người già (年寄り組toshiyori kumi)… Tất cả các nhóm này đều đảm đương những vai trò nhất
định trong việc tham gia tổ chức các lễ hội và nghi lễ tín ngưỡng trong năm.
Ví dụ nhóm niệm Phật gồm những người phụ nữ chuyên đảm đương việc
niệm Phật trong các buổi lễ, nhóm người già gồm các cụ từ 65 tuổi trở lên
14
chuyên đảm đương các buổi lễ Thần đạo và Phật giáo, nhóm con trai và nhóm
con gái chuyên giúp việc bày biện và dọn dẹp trong các buổi lễ và thực hiện
múa trong lễ hội Bon. Nhìn chung những người tham gia hoạt động các nhóm
tôn giáo này thường cảm nhận đó như một thói quen, một tập quán, ít người ý
thức được rõ ràng hành vi tín ngưỡng của mình, họ thường chỉ hoạt động với
hy vọng được thần linh ban phước lành cho gia đình và cộng đồng của họ.
Thực tế thì sau khi Luật pháp nhân tôn giáo được công bố với việc công nhận
thực sự quyền tự do tôn giáo và với quy định lỏng lẻo về những điều kiện tổ
chức tôn giáo thì các hội này đã trở thành hạt nhân để hình thành các tổ chức
tôn giáo mới. Cũng cần nói thêm rằng trong số các tổ chức tôn giáo xuất hiện
sau chiến tranh có nhiều tổ chức đã tồn tại và hoạt động từ trước đó nhưng
không được thừa nhận chính thức.
Thứ hai là sự phát triển nhanh chóng của quá trình đô thị hoá. Bắt đầu từ
những năm 1950 Nhật Bản đã bước vào quá trình đô thị hoá với tốc độ cao.
Đô thị hóa ở Nhật diễn ra mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của
các ngành công nghiệp, các thành phố mọc lên nhanh chóng, đặc biệt là các
thành phố lớn có mật độ dày đặc ở đảo Honshu, trong đó thành phố lớn nhất
Nhật Bản đồng thời cũng là thành phố lớn nhất thế giới là Tokyo đã đạt 25
triệu dân năm 1990. Ngay từ năm 1960 Tokyo đã trở thành trung tâm kinh tế
của Nhật Bản và của thế giới Trước đây, theo dự báo của cơ quan thống kê
Nhật Bản về dân số thành phố, thành phố Tokyo đến năm 1990 có 18 triệu
dân và đến 200 là 19 triệu dân và 2020 là 28 triệu dân, nhưng thực tế Tokyo
đã đạt 29,8 triệu dân ngay từ đầu năm 1995, đang là thành phố đứng đầu về
dân số thế giới và còn giữ vị trí đến năm 2010. Ở Tokyo tập trung 26 % dân
số đô thị của Nhật. Vùng Tokyo kể cả vùng ngoại ô có sức mạnh kinh tế rất
lớn, lớn hơn tiềm lực kinh tế của toàn nước Ý hay nước Anh. Vùng Tokyo
chiếm 33% GNP của toàn nuớc thời kì 1987-1988 [55, tr.3]. Osaka là thành
15
phố lớn thứ hai của Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng 25%/ năm trong những
năm 1985-1990.
Mặc dù trong suốt quá trình hiện đại hoá dân số không ngừng tăng, song
đến đầu những năm 1960 tỉ lệ giữa dân sống ở thành thị và dân sống ở nông
thôn đã đạt 7/3, ngày nay thì thỉ lệ chênh lệch này còn cao hơn nhiều. Từ xưa
Phật giáo và Thần đạo đều lấy cơ sở là gia đình và cộng đồng, song sự phát
triển của đô thị hoá đã làm lung lay sơ sở đó. Bắt đầu từ những năm 1950
người ta được chứng kiến hiện tượng di chuyển dân số từ nông thôn ra thành
thị với quy mô ngày một to lớn. Các thanh niên đến tuổi lao động hầu như đều
hướng ra các đô thị, nhất là các đô thị lớn nơi họ có thể tìm kiếm việc làm với
mức thu nhập cao hơn. Trong khi các vùng nông thôn thậm chí không đủ số
lượng tín đồ cần thiết để thực hiện các nghi lễ Thần đạo hàng năm thì ở các
đô thị dân số tập trung ngày một đông đến nỗi có một số lễ hội phải huỷ bỏ do
sợ tai nạn vì có quá đông người tràn ra đường phố. Điều đáng nói là những
người ra sống tại thành phố đã còn rất ít cơ hội hoặc không còn cơ hội để liên
hệ thường xuyên với những ngôi chùa, ngôi đền mà trước đây họ là những
thành viên. Họ cũng không có ý muốn gia nhập vào bất kỳ một ngôi chùa nào
khác ở thành phố. Chính vì vậy thành phố trở thành nơi mà nhiều người vốn
đã cắt đứt liên hệ với truyền thống tôn giáo và sống trong tình trạng dường
như trống rỗng và hụt hẫng về tinh thần. Đó chính là một trong những điều
kiện thuận lợi để tôn giáo mới nảy sinh trong những con người bình thường.
Thứ ba là tác động của sự phát triển nhanh của đời sống kinh tế- xã hội.
Thời kỳ gần 20 năm từ năm 1955 đến năm 1973 là thời kỳ mà nền kinh tế
Nhật Bản có tốc độ tăng trưởng rất cao. GDP thực tế theo giá so sánh hàng
năm (năm gốc là 1965) của Nhật Bản trong thời kỳ này hầu hết đều có tốc độ
tăng lên tới hai chữ số. Đây là hiện tượng chưa từng xảy ra trong lịch sử của
bất cứ quốc gia nào. Các nhà nghiên cứu gọi đó là giai đoạn phát triển “thần
16
kỳ” hoặc là thời kỳ phát triển cao độ của nền kinh tế Nhật Bản. Chính trong
thời kỳ này, Nhật Bản đã từ một nước có nền kinh tế bị tàn phá nặng nền
trong Thế chiến 2 đã đuổi kịp các nền kinh tế tiên tiến của thế giới. Nếu vào
năm 1950, GNP của Nhật còn nhỏ hơn của bất cứ nước phương Tây nào và
chỉ bằng vài phần trăm so với của Mỹ, thì đến năm 1960 nó đã vượt qua
Canada, giữa thập niên 1960 vượt qua Anh và Pháp, năm 1968 vượt Tây Đức.
Năm 1973, GNP của Nhật Bản bằng một phần ba của Mỹ và lớn thứ hai trên
thế giới [56,tr.3]. Mặc dù những năm sau đó, sự phát triển của nền kinh tế
Nhật Bản có chậm dần lại nhưng những thành tựu đem lại vẫn tiếp tục đem lại
cho xã hội Nhật Bản những bước phát triển rất sâu sắc.
Cùng với sự gia tăng phát triển đó là sự thịnh vượng của xã hội Nhật
Bản, song sự cạnh tranh trong xã hội cũng trở nên quyết liệt hơn gấp nhiều
lần so với các giai đọan trước. Con người sống trong một môi trường có nhiều
sức ép tâm lý. Để tồn tại mọi người đều phải nỗ lực hết sức mình. Mặc dù vậy
sự thành công hay thất bại của một người không chỉ do tài năng và sự cố gắng
bản thân mà nhiều khi còn phụ thuộc vào những yếu tố ngẫu nhiên mà người
ta quen gọi là may mắn, rủi ro, không ít khi người ta đổ tại số trời. Mặt khác
trong một xã hội hiện đại hoá nhanh chóng như vậy những mỗi quan hệ
truyền thống cũ không ngừng bị rạn nứt, thay vào đó là những quan hệ nhiều
khi mang tính máy móc, cơ giới mà ở phương Tây đã từng gọi là kiểu quan hệ
phi nhân1[20; tr.80]. Cũng chính vì vậy có không ít người có cảm giác chán
ghét và xa lánh xã hội. Nhiều trường hợp rủi ro như ốm nặng, phá sản.v.v.
thường tìm đến Thần, Phật để hy vọng sự phù hộ hay ít ra để có được một
chút thư thái trong tâm hồn. Đáng chú ý là trong xã hội lại thường xuất hiện
những con người tự tuyên bố là có một khả năng tâm linh đặc biệt nào đó,
1
Quan hệ phi nhân là hiện tượng xuất hiện đầu tiên ở phương Tây trong thời hiện đại khi việc áp dụng tự
động hoá trong xã hội tăng lên không ngừng. Các quan hệ trao đổi, giao dịch hàng ngày giữa con người dần
được thay thế bằng máy mọc tự động. Tình trạng này đã tước dần các quan hệ xã hội và làm cho con người
cảm thấy cô đơn ngay trong một xã hội đô thị đông đúc.
17
chẳng hạn khả năng chữa bệnh không phải bằng y học mà bằng phép thuật.
Giống như sự xuất hiện của nhiều người được coi là có khả năng tâm linh đặc
biệt ở Việt Nam, những người này xuất xứ từ những người rất bình thường và
họ có được khả năng đó sau một biến cố đặc biệt nào đó, chẳng hạn sau một
tai nạn hoặc sau một trận ốm thập tử nhất sinh. Họ tuyên bố rằng đã được một
vị thần hay Phật uỷ thác để đem lại hạnh phúc cho mọi người. Những người
bình dân cho dù đã thấm ít nhiều giáo huấn của Thần, Phật hay Kitto thì vẫn
cứ thấy bị lôi cuốn bởi những loại tín ngưỡng kiểu này vì nó có gì đó rất giản
dị và rất thiết thực, thường thì không bị gò bó như các tôn giáo truyền thống.
1.3. Đặc điểm của các tôn giáo mới
Tuy có rất nhiều tổ chức tôn giáo mới với sự đa dạng về hệ phái, cách
thức tổ chức... nhưng do xuất hiện hoặc chính thức được công nhận vào cùng
một thời điểm, chung mục đích nhằm thu hút những tín đồ hầu như đã có sẵn
trong mình ít nhiều giáo huấn của Thần, Phật, thậm chí chịu ảnh hưởng của cả
Nho giáo (những tôn giáo vốn có sẵn), và chung một bối cảnh xã hội để phát
triển, nên tôn giáo mới có những đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất là tính ma thuật- bí ẩn : Tính ma thuật- bí ẩn là đặc điểm
chung của tôn giáo của mọi thời đại. Đây cũng là đạc điểm tạo nên diện mạo
thần thiêng và sức hút tín đồ của các tôn giáo. Tôn giáo mới ở Nhật Bản sau
Thế chiến 2 lại càng thể hiện rõ đặc điểm này. Tiêu biểu nhất phải kể tới giáo
phái Chân lý Aum tuyên truyền rằng tu luyện Yoga có thể thu được năng
lượng chữa bệnh, có thể bay lên khỏi mặt đất, nhờ vào tu luyện có thể đọc
được ý nghĩ, nhìn được tương lai, thậm chí có thể vượt lên sinh tử... Hay như
trường hợp giáo chủ Deguchi Nao, người sáng lập giáo phái Omoto (大本教Đại Bản giáo) tuyên bố nhận được chỉ thị từ thần linh và viết lại những lời
thần chỉ qua Giáng bút (お筆先- Ofudesaki), về sau con rể của bà là Deguchi
Onisaburo chủ yếu dựa vào hiện tượng thần nhập để trực tiếp truyền chỉ thị
18
- Xem thêm -