Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tóm tắt lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước...

Tài liệu Tóm tắt lý thuyết mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước

.PDF
24
78
105

Mô tả:

TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌ C KINH TẾ TP. HỒ CHÍ M INH KH OA KINH TẾ ---    --- Tiểu Luận Môn Học Tài Chính Tiền Tệ Đề Tài số 3: TÓM TẮT LÝ THUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT VÀ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN SVTH: STT Nguyễn Thị Thư Trinh 78 Lê Thị Như Hiền 17 Châu Thị Hồng 21 Đặng Thị Xuân Hà 13 Hoàng Thi Kim Ánh 1 TP. Hồ Chí Minh Ngày 28/10/2012 Page 1 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN MỤC LỤC Lời M ở Đầu.............................................................................................................................. 3 Chương 1 : Tổng Quan Về Lạm Phát Và Bội Ch i Ngân Sách Nhà N ướ c ............... 4 1.1. Lạm Phát: 1.1.1. Khái niệm lạm phát:............................................................................................. 4 1.1.2. Phân loại lạm phát ............................................................................................... 4 1.1.3. Cách đo lường lạm phát ...................................................................................... 5 1.1.4. Nguy ên nhân gây ra lạm phát ............................................................................. 5 1.1.5. Các t ác động của lạm phát .................................................................................. 6 1.1.6. Thực trạng lạm phát ở nước t a hiện nay ............................................................ 8 1.1.7. Biện pháp khắc phục lạm phát ............................................................................ 8 1.2. Bội Chi Ngân Sách Nhà Nước: 1.2.1. Khái niệm bội chi ngân sách nhà nư ớc ...........................................................10 1.2.2. Nguyên nhân bội chi ngân sach nhà nước ......................................................10 1.2.3. Thực trạng bội chi ngân sách nhà nư ớc hiện nay ..........................................11 1.2.4. Biện pháp khắc phục .........................................................................................12 Chương 2 : Mối Quan Hệ Giữa Lạm Phát Và Bộ i Chi Ngân Sách Nhà Nước .....15 Kết Luận : ..............................................................................................................................22 Page 2 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN Lời Mở Đầu  Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hoá thương mại đã và đang là xu thế nổi bật của nền kinh tế thế giới đương đại. Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đã đặt mỗi quốc gia trước những thời cơ và thách thức to lớn, đòi hỏi các quốc gia phải có những chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới cũng như trong khu vực. Và một trong những thách thức to lớn ấy chính là lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước. Lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Đây là một vấn đề hết sức phức tạp không thể giải quyết trong một sớm một chiều mà đòi hỏi một sự đầu tư lớn về thời gian cũng như sức lực mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Kiềm chế lạm phát và kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước không chỉ là nhiệm vụ riêng của chính phủ mà là của toàn xã hội. Trong thời gian gần đây, vấn đề này đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đề xuất các phương án khắc phục. Để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề này, nhóm thực hiện đề tài đã tìm hiểu, tổng hợp và tóm tắt lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm phát và bội chi ngân sách nhà nươc. Do khả năng và điều kiện thời gian còn hạn chế, vậy nên nội dung bài viết chắc sẽ không tránh khỏi được những thiếu sót nhất định. Vì vậy nhóm thực hiện đề tài chúng em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy để bài viết của chúng em được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn ! Tp. Hồ Chí Minh, ngày 28/10/2012 Nhóm thực hiện đề tài Page 3 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN Chương 1 Tổng Quan Về Lạm Phát Và B ội Chi Ngân Sách Nhà Nước 1.1 Lạm Phát: 1.1.1. khái niệm lạm phát Lạm phát là quá trình gia tăng liên tục và kéo dài của mức giá chung hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá. 1.1.2. Phân loại lạm phát Người ta chia lạm phát thành 3 loại là:  Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn... Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh  Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế , các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.  Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xẩy ra. Page 4 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN Nhưng nếu gắn 3 loại lạm phát trên với thời gian lạm phát thì lại được chia làm 3 loại là: Lạm phát kinh niên, lạm phát nghiêm trọng và siêu lạm phát. 1.1.3. Cách đo lường lạm phát Trong thực tế để đo lường lạm phát, nguời ta có thể dùng hai chỉ số sau : - Hệ số giảm phát GD P (GDP deflator) được tính trên cơ sở so sánh giá trị GD P tính theo giá hiện hành và GD P tính theo giá kỳ trước. Nghĩa là đo lường mức tăng và giảm giá trên tất cả các loại hàng hoá dịch vụ tính trong GDP. - Chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá cả CPI: được tính theo bình quân gia quyền của một nhóm các hàng hoá thiết yếu. Ở Việt Nam nhóm hàng lương thực, giá vàng, đô la có lẽ có trọng số lớn. Chỉ số này không phản ánh sự biến động giá chung nhưng phản ánh biến động giá cả ảnh hưởng nhiều nhất đến đời sống, tiêu dùng. Đối với Việt Nam để đo lường lạm phát người ta sử dụng chỉ số CPI 1.1.4. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua. - Do sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế, mâu thuẫn về phân phối gây ra tăng giá. Cơ chế lan truyền đã tạo nên căng thẳng thêm các mâu thuẫn đó và dẫn đến lạm phát tăng lên. Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng trưởng cao nhưng lại tồn tại nhiều khiếm khuyết, hạn chế và yếu kém. Lạm phát do mất cân đối cơ cấu kinh tế xuất hiện khi có quan hệ không bình thường trong các cân đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp - nông nghiệp, công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ, sản xuất - dịch vụ, xuất khẩu - nhập khẩu, tích luỹ - tiêu dùng. Những thay đổi cơ bản trong cơ cấu kinh tế - xã hội do tăng trưởng kinh tế thường dẫn đến giá tăng lên khi cơ cấu thị trường chưa được hoàn chỉnh, các nguồn vật lực có giới hạn, các quan hệ không được đặt trong một sự cân đối hợp lý, năng lực sản xuất không được khai thác hết, trạng thái vừa thừa vừa thiếu xuất hiện. - Do chi phí đẩy : Như chúng ta đã biết, ở hầu hết các nước đang phát triển thường phải nhập một khối lượng lớn nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất trong nước, nếu giá của những loại nguyên vật liệu này trên thị trường thế giới tăng lên làm cho chi phí sản xuất các sản phẩm sẽ tăng lên và để bảo tồn sự tồn tại của các cơ sở sản xuất trên cơ sở đảm bảo sản xuất có lãi và bù đắp được chi phí bắt buộc các nhà sản xuất phải đưa giá bán trên thị trường trong nước tăng lên theo. Page 5 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN - Do cầu kéo hay là do sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá và dịch vụ. Khi tổng cầu hàng hoá và dịch vụ có khả năng thanh toán lớn hơn tổng cung hàng hoá và dịch vụ đã đẩy giá tăng lên để thiết lập một sự cân bằng mới trên thị trường, trong đó tổng cung bằng tổng cầu. Lạm phát phụ thuộc vào độ co giãn của giá cung hàng hoá và dịch vụ. Cung hàng hoá và dịch vụ có thể tăng nhanh do tăng giá một chút nếu độ co giãn của giá là lớn. M ột mặt, nếu các cơ sở sản xuất đang hoạt động thấp hơn công suất hiện có và còn nhiều công suất sản xuất chưa được sử dụng thì cung hàng hoá sẽ tăng nhờ tác động tăng cầu hàng hóa và có thể không gây ra lạm phát. - Do tác động của chính sách tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Với quan điểm này thì lạm phát xuất hiện khi có một khối lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường. Điều này được biểu hiện ở chỗ đồng tiền nội địa mất giá. - Do yếu tố tâm lý, người tiêu dùng chạy theo các tin đồn từ đó làm tăng lượng cầu đột biến, không chuyển tiền của mình sang đầu tư sản xuất - kinh doanh mà mua vàng, kim loại quý... 1.1.5. Tác động của lạm phát Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. * Đối với lĩnh vực sản xuất: Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. * Đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi Page 6 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. * Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. * Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốtvà kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. Theo Gregory M ankiw thì lạm phát gây ra 5 tổn thất sau:  Làm giảm sức mua của đồng tiền. Vì vậy, lạm phát đồng nghĩa với một loại thuế vô hình lấy đi một phần thu nhập của công dân và những người nắm giữ tiền mặt.  Buộc các doanh nghiệp phải thay đổi biểu giá thường xuyên. Việc thay đổi này gây ra chi phí cho doanh nghiệp.  Gây ra thay đổi giá tương đối trong khi đó người sản xuất và tiêu dùng không thích ứng kịp. Nền kinh tế thị trường dựa vào giá tương đối để phân bố nguồn lực một Page 7 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN cách hiệu quả. Lạm phát làm cho việc phân bố nguồn lực trở nên kém hiệu quả, khi xét dưới góc độ kinh tế học vi mô.  Làm giảm nguồn thu thuế do nhiều điều khoản của luật thuế không tính đến tác động của lạm phát. Lạm phát có thể thay đổi nghĩa vụ thuế của cá nhân mà người làm luật không lường hết được.  Gây ra bất tiện cho cuộc sống trong một thế giới mà giá cả thị trường thường xuyên thay đổi. Tiền là thước đo mà trong đó chúng ta tính chi phí các giao dịch kinh tế. Lạm phát làm cho thước đo này co giãn, làm đảo lộn kế hoạch tài chính cá nhân và doanh nghiệp. Như vậy, có thể thấy lạm phát gây ra nhiều mặt tiêu cực cho xã hội và nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế lạm phát không hẳn là hoàn toàn có tác động tiêu cực. Trong cuốn “Lý thuyết về việc làm, tiền tệ và lãi suất”, Keynes đã chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ giảm giá. Lập luận của Keynes cho rằng trong điều kiện kinh tế trì trệ, thất nghiệp tăng cao thì chính phủ có thể chi tiêu nhiều hơn (chính tài khóa mở rộng) và duy trì một tỷ lệ lạm phát nhất định để kích thích kinh tế tăng trưởng. 1.1.6. Thực Trạng lạm phát ở nước ta những năm gần đây Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm và ước tính cho năm 2012, chi tiêu của nhà nước ( so với GDP ) đã tăng từ 5% năm 2000 lên trên 8% sau năm 2005. Tỷ lệ vốn đầu tư / GD P cũng tăng lên đến 34% năm 2000 và đến 40% từ năm 2004 đến năm 2007, từ đây các nhân tố lạm phát được nuôi dưỡng. Năm 2004 đã xuất hiện những dấu hiểu của cuộc lạm phát mới và được xác nhận lại vào năm 2005 nhưng đã không có những giải pháp thỏa đáng. Và lạm phát đã dần tăng lên, đến năm 2007 lạm phát khoảng 12% và tăng lên 22% vào năm 2008 một con số đáng báo động cho nền kinh tế còn non trẻ như việt nam. Với những biện pháp kiềm chế lạm phát thì bước sang năm 2009 lạm phát đã giảm xuống còn 6%, nhưng lại tăng mạnh vào năm 2011. Theo công bố của tổng cục thống kê thì lạm phát đã tăng lên mức 18,58% trong năm 2011. Chính phủ đã đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát, giảm lạm phát xuống mức dưới 9% vào năm 2012 đảm bảo kiềm chế lạm phát ở mức 1 con số. 1.1.7. Biện pháp khắc phục lạm phát 1.1.7.1. Biện pháp tình thế Page 8 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN Những biện pháp này được áp dụng với mục tiêu giạm tức thời “cơn sốt lạm phát” trên cơ sở đó sẽ áp dụng các biện pháp ổn định tiền tệ lâu dài . Các biện pháp này thường được áp dụng khi nền kinh tế lâm vào tình trạng siêu lạm phát . Thứ nhất : Các biện pháp tình thế thường được chính phủ các nước áp dụng , trước hết là giảm lượng tiền giấy trong nền kinh tế như ngừng phát hành tiền vào lưu thông . Biện pháp này còn gọi là chính sách đóng băng tiền tệ . Tỷ lệ lạm phát tăng cao ngay lập tức ngân hàng trung ương phải dừng các biện pháp có thể đưa đến tăng cung ứng tiền tệ như ngừng thực hiện các nghiệp vụ triết khấu và tái triết khấu đối với các tổ chức tín dụng , dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , không phát hành tiền bù đắp bội chi ngân sách. Nhà nước áp dụng các biện pháp làm giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế như: ngân hàng trung ương bán ra các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ , bán ngoại tệ vàvay , phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế bù đắp cho bội chi ngân sách nhà nước , tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tăng lãi suất tiền gửi tiét kiệm dân cư . các biện pháp này rất có hiệu lực vì trong một thời gian ngắn nó có thể giảm bớt được một khối lượng khá lớn tiền nhàn rỗi trong dân cư do đó giảm được sức ép lên giá cả hàng hoá vầ dịch vụ trên thị trường . ở việt nam các biện pháp này đã dược áp dụng thành công vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 . Thứ hai : Thi hành chính sách tài chính thắt chặt như tạm hoãn những khoản chi chưa cần thiết trong nền kinh tế , cân đối lại ngân sách và cắt giảm chi tiêu đến mức có thể được . Thứ ba : Tăng quỹ hàng hoá tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thông bằng cách khuyến khích tự do mậu dịch , giảm nhẹ thuế quan và các biện pháp cần thiết khác để thu hút hàng hoá từ ngoài vào. Thứ tư : Đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài . Thứ năm : Cải cách tiền tệ , đây là biện pháp cuối cùng khi các biện pháp trên chưa đem lại hiệu quả mong muốn . 1.1.7.2. Biện pháp chiến lược Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân . Tổng hợp các biện pháp này sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế lâu dài cho đất nước Page 9 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN Thứ nhất : Thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng lưu thông hàng hoá. Đây là biện pháp chiến lược hàng đầu để hạn chế lạm phát , duy trì sự ổn định tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân . Sản xuất trong nước càng phát triển thì càng tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định tiền tệ . Chú trọng thu hút ngoại tệ qua việc xuất khẩu hàng hoá , phát triển ngành du lịch … Thứ hai : kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính . Thực hiện tốt biện pháp này sẽ góp phần to lớn vào việc giảm chi tiêu thường xuyên của ngân sách do đó giảm bội chi ngân sách nhà nước . Thứ ba : Tăng cường công tác quản lý điều hành ngân sách nhà nước trên cơ sở tăng các khoản thu cho ngân sách một các hợp lý, chống thất thu, đặc biệt là thất thu về thuế, nâng cao hiệu quả của các khoản chi ngân sách nhà nước . 1.2. Bội Chi Ngân Sách Nhà Nước: 1.2.1. Khái niệm bội chi ngân sách Bội chi ngân sách nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó. Nhưng thu gồm những khoản nào, chi gồm những khoản gì? Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về ngân sách nhà nước hàng năm như sau: Bảng : Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hàng năm Thu Chi A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí). D. Chi thường xuyên. B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước). E. Chi đầu tư. C. Bù đắp thâm hụt. F. Cho vay thuần - Viện trợ. (= cho vay mới - thu nợ gốc). - Lấy từ nguồn dự trữ. Vay thuần (= vay mới - trả nợ gốc). A + B +C = D + E + F Công thức tính bội chi NSNN của một năm sẽ như sau: Bội Chi Ngân Sách Nhà Nước = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C Page 10 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN 1.2.2. Nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước Có 2 nhóm nguyên nhân cơ bản gây ra bội chi ngân sách nhà nước: - Nhóm nguyên nhân thứ nhất là tác động của chu kỳ kinh doanh. Khủng hoảng làm cho thu nhập của Nhà nước co lại, nhưng nhu cầu chi lại tăng lên, để giải quyết những khó khăn mới về kinh tế và xã hội. Điều đó làm cho mức bội chi NSNN tăng lên. ở giai đoạn kinh tế phồn thịnh, thu của Nhà nước sẽ tăng lên, trong khi chi không phải tăng tương ứng. Điều đó làm giảm mức bội chi NSNN. Mức bội chi do tác động của chu kỳ kinh doanh gây ra được gọi là bội chi chu kỳ. - Nhóm nguyên nhân thứ hai là tác động của chính sách cơ cấu thu chi của Nhà nước. Khi Nhà nước thực hiện chính sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng sẽ làm tăng mức bội chi NSNN . Ngược lại, thực hiện chính sách giảm đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước thì mức bội chi NSNN sẽ giảm bớt. Mức bội chi do tác động của chính sách cơ cấu thu chi gây ra được gọi là bội chi cơ cấu. Trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có thiên tai lớn,...), tổng hợp của bội chi chu kỳ và bội chi cơ cấu sẽ là bội chi ngân sách nhà nước. 1.2.3. Thực Trạng Bội Chi Ngân Sách Nhà Nước Hiện Nay - Giai đoạn từ năm 1986 – 1990 : bội chi ngân sách là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát cao trong thập kỷ này trong đó có việc bù đắp thâm hụt ngân sách bằng sự phát hành tiền : 59,7% mức thâm hụt trong thời gian 5 năm được thanh toán bằng cách phát hành tiền : 9,3 tỷ đồng năm 1985; 22,9 tỷ đồng năm 1986; 89,1 tỷ đồng năm 1987; 450 tỷ đồng năm 1988; 1.655 tỷ đồng năm 1989 và 1.200 tỷ đồng năm 1990…. - Giai đoạn từ năm 1991 – 1995 : tình trạng thâm hụt ngân sách có xu hướng giảm qua các năm nhưng lạm phát vẫn còn cao, và được bù đắp bằng vay của dân và vay nước ngoài. Tỷ lệ bội chi ngân sách bình quân giai đoạn này so với GD P chỉ ở mức 2,63 %. - Giai đoạn từ năm 1996 – 2000 : tỷ lệ bội chi bình quân 3,87% GDP, đây là thời kỳ suy thoái do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á, mức bội chi ngân sách không tác động gây ra lạm phát. Page 11 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN - Giai đoạn 2001 – 2005 : bội chi ngân sách về cơ bản được cân đối ở mức 4.9% GD P. Tốc độ tăng bội chi khá cao, ở mức 17 – 18 %/năm. - Giai đoạn 2006 – 2010 : bội chi ngân sách về cơ bản được cân đối ở mức 5.5% GD P. Hình 1. Thâm hụt ngân sách ở Việt Nam 1991-2010 (theo cách tính Việt Nam) Nguồn: Bộ Tài chính (2011). Ghi chú: Trục phải: Thâm hụt so với GDP (% ): Trụctrái: Mức thâmhụt (nghìn tỷđồng). Hình 2 cho thấy tỷ lệ thâm hụt ngân sách so GD P trong 10 năm qua đang ở trong xu thế đi lên. Bội chi ngân sách tăng cao thể hiện chính sách tài khoá lỏng lẻo, nói lên sự chi tiêu của chính phủ cho đầu tư và thường xuyên vượt quá mức có thể của nền kinh tế. 1.2.4. Một Số Giải Pháp Khắc Phục Bội Chi Ngân Sách Nhà Nước Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm đau đầu các chính trị gia giữa một bên là phát triển bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ sự lựa chọn đó họ đưa ra mức bội chi “hợp lý”, bảo đảm nhu cầu tài trợ cho chi tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Bội chi ngân sách nhà nước được hiểu một cách chung nhất là sự vượt trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc Page 12 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN thâm hụt ngân sách nhà nước do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để bù đắp chi tiêu;… Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Bội chi ngân sách nhà nước tác động đến kinh tế vĩ mô phụ thuộc nhiều vào các giải pháp nhằm bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Mỗi giải pháp bù đắp đều làm ảnh hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Về cơ bản, các quốc gia trên thế giới thường sử dụng các giải pháp chủ yếu nhằm xử lý bội chi ngân sách nhà nước như sau: Thứ nhất: Nhà nước phát hành thêm tiền. Việc xử lý bội chi ngân sách nhà nước có thể thông qua việc nhà nước phát hành thêm tiền và đưa ra lưu thông. Tuy nhiên, giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Đặc biệt, khi nguyên nhân bội chi ngân sách nhà nước là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây “tăng trưởng nóng” và không cân đối với khả năng tài chính của quốc gia. Thứ hai: Vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước, nhà nước có thể vay nợ nước ngoài và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá. Vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất, và cái vòng nợ – trả lãi – bội chi sẽ làm tăng mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của ngân sách nhà nướcchocácthờikỳsau Thứ ba: Tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế. Việc tăng các khoản thu, đặc biệt là thuế có thể sẽ bù đắp sự thâm hụt ngân sách nhà nước và giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi ngân sách nhà nước, bởi vì nếu tăng thuế không hợp lý sẽ dẫn đến làm giá cả hàng hóa tăng gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân, nghiêm trọng hơn sẽ triệt tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kinh doanh và làm mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thứ tư: Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ ngân Page 13 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN sách nhà nước. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi ngân sách nhà nước và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết. Thứ năm: Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế – xã hội, nhằm giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn môi trường v.v.. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý ngân sách nhà nước nói chung và xử lý bội chi ngân sách nhà nước nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết Page 14 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯ ƠNG MINH TUẤN Chương 2 Mối Quan Hệ Giữa Bội Chi Ngân Sách Nhà Nước Và Lạm Phát Một trong những thách thức đối với công tác điều hành kinh tế vĩ mô ở Việt Nam trong những năm gần đây đó là tình trạng lạm phát cao. Trong 2 năm gần đây, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đã khá cao so với các nước trên thế giới. Hình 2 . So sánh tỷ lệ lạm phát của Việt Nam và một số nước (% thay đổi so với cùng kỳ năm trước) Việt N am Thái Lan Phi-Líp-pin Malaysia 2011 2010 Lào In-đô-nê-xia Ấn Đ ộ Trung Quốc 0 5 10 15 20 Nguồn: IMF (2011a). Số năm 2011 là số dự báo của IMF Lạm phát cao so với thế giới của Việt Nam không chỉ diễn ra trong năm 2011 mà còn cả ở những năm trước đó. Theo số liệu của IMF (2011a), Việt Nam có tỷ lệ lạm phát trung bình của giai đoạn 2001-2005 (5,35%) đứng thứ 67 thế giới và của giai đoạn 2006-2010 (11,5%) đứng thứ 24 thế giới. Năm 2010, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam là 11,75%, trong khi đó tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc là 4,7%, của M alaysia là 2,08%, của Thái Lan là 3,05%. Tỷ lệ lạm phát năm 2011 của Việt Nam tiếp tục được dự báo cao hơn đáng kể so với nhiều nước trong khu vực (IM F, 2011). Page 15 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯ ƠNG MINH TUẤN Xét về nguyên nhân gây ra lạm phát thời gian qua, hiện nay cũng có một số ý kiến cho rằng thâm hụt ngân sách là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng lạm phát cao trong những năm gần đây. Tuy nhiên, lạm phát ở Việt Nam được cho là xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân tiền tệ dường như đang nhận được sự đồng thuận (Xem thêm nghiên cứu của Đặng Ngọc Tú, 2010; Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành, 2011 về các nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua). Lạm phát cao của Việt Nam trong một thời gian dài thường được giải thích là do giá thế giới biến động nhưng thực tế, song dường như cách lập luận này thiếu thuyết phục khi lạm phát của các nước đang phát triển cũng chịu các tác động tương tự như nước ta nhìn chung có xu hướng giảm và không ở mức cao như nước ta. Gần đây, tốc độ lạm phát trung bình của các nước này luôn dưới hai con số. Đó cùng là lý do mà một số nghiên cứu đã cho rằng chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức chính là nguyên nhân gây ra áp lực lạm phát của Việt Nam những năm gần đây. Trong 10 năm qua, trong khi các nước trong khu vực có xu hướng duy trì ổn định tỷ lệ cung tiền trên GD P thì Việt Nam đã tăng liên tục tỷ lệ này, mặc dù giảm không nhiều trong năm 2008 nhằm đối phó với nguy cơ lạm phát tăng cao. Nếu như năm 2000 tỷ lệ cung tiền M2 trên GDP của Việt Nam là 50,5% thì tỷ lệ này đã lên tới 140,8% vào năm 2010; mức này cao hơn rất nhiều so với Inđônêxia (38,5%), Phi-líp-pin (47,8%) và Thái Lan (116,6%). Page 16 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯ ƠNG MINH TUẤN Hình 3. Tỷ lệ cung tiền (M2) so GD P danh nghĩa của Việt Nam và một số nước trong khu vực Châu Á Nguồn: ADB (2011). Phân tích về diễn biến lạm phát và bội chi ngân sách nhà nước trong giai đoạn 10 năm qua có thể rút ra một số đánh giá khái quát như sau: Thứ nhất: Bội chi ngân sách là hiện tượng kéo dài liên tục song tình trạng lạm phát cao chỉ xuất hiện ở một số năm và có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Hình 3 cho thấy tốc độ lạm phát mặc dù lúc tăng lúc giảm, nhưng nhìn chung, đang theo xu hướng tăng kể từ năm 2001. Thứ hai: Lạm phát và bội chi ngân sách có những giai đoạn diễn biến trái chiều nhau. Hệ số tương quan giữa thâm hụt (theo cả hai cách tính) ở trong Bảng 9 phần nào đã thể hiện điều này. Cụ thể có những năm Việt Nam có mức thâm hụt không giảm so với năm trước song lại rơi vào tình trạng thiểu phát hoặc có tỷ lệ giảm phát hoặc lạm phát thấp, ví dụ như giai đoạn 1999-2000. Page 17 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯ ƠNG MINH TUẤN Tương tự, giai đoạn 2001- 2006 trong khi bội chi ngân sách tiếp tục ổn định ở mức xung quanh 5% GD P như giai đoạn trước đó song lạm phát lại ở mức cao hơn và có xu hướng biến động nhiều hơn. Hình 4. Bội chi ngân sách và lạm phát ở Việt Nam 2001-2010 25 20 15 10 5 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 -5 Thâm hụt th eo cách tính của Việt Nam (B CVN 1) Thâm hụt th eo cách tính của Việt Nam (có bao gồm TPCP, vay về cho vay lại) B CVN 2 Thâm hụt th eo th ông lệ quốc tế (BC QT) Chỉ số giá C PI Nguồn: Tổng cục Thống kê (2011) và tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính. Số năm 2010 là số ước thực hiện. Thâm hụt ngân sách (% GDP danh nghĩa); Chỉ số giá (%, tốc độ tăng so năm trước). Trong giai đoạn 5 năm gần đây, diễn biến của lạm phát và thâm hụt cũng có xu hướng trái chiều nhau, ngoại trừ năm 2007. Thậm chí năm 2008 khi thâm hụt ngân sách so với GD P chỉ là 4,58% thì lạm phát lại tăng vọt lên tới trên 19,9%. Trong khi năm 2009 thâm hụt ngân sách là cao nhất lên đến 6,9% song tốc mức lạm phát lại chỉ là 6,5%. Thứ ba: M ối quan hệ giữa Bội chi ngân sách và lạm phát có phụ thuộc vào độ trễ. Cụ thể, hệ số tương quan giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát khi khi tính trễ 1 năm (đối với thâm hụt) có giá trị dương. Hay nói cách khác, lạm phát năm nay và thâm hụt năm trước diễn biến cùng chiều. Page 18 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯ ƠNG MINH TUẤN Tuy nhiên, tương tự như phân tích ở trên điều này cũng không đồng nghĩa với việc hai biến này có quan hệ và tác động “nhân quả”. Hệ số tương quan giữa bội chi ngân sách và lạm phát 1991-2010 BCVN1 BCQT BCVN1 1,00 BCQT 0,74 1,00 LP -0,50 -0,30 LP 1,00 Nguồn: Tính toán từ số liệu của Bộ Tài chính. Ghi chú: - BCVN1: Bôi chi theo cách tính Việt Nam; - BCQT: Thâm hụt theo thông lệ quốc tế; - LP: Tốc độ lạm phát. Trên thế giới cũng có quốc gia mà bội chi ngân sách kéo dài lại không gây ra tác động đáng kể nào đối với lạm phát. Italia trong thập niên 1980 đã rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài ở mức khoảng 10% GN P, song tỷ lệ lạm phát trong giai đoạn này lại giảm từ mức 20% xuống khoảng 5%. Nhật Bản cũng là một ví dụ điển hình về trường hợp này khi mà thâm hụt ngân sách liên tục ở mức cao trong nhiều năm song tỷ lệ lạm phát gần như ở mức 0% (Saleh, 2003). Thực tế của nước M ỹ những năm của thập niên 1980 cũng chỉ ra các bằng chứng tương tự. Những phân tích trên đã cho thấy mối quan hệ giữa bội chi ngân sách và lạm phát ở Việt Nam cũng là không rõ nét. Cũng về mối quan hệ này, sau khi sử dụng mô hình để phân tích và ước lượng các nhân tố vĩ mô quyết định đến lạm phát ở Việt Nam với nguồn dữ liệu trong giai đoạn 2001-2010, hai tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2011) cũng đã kết luận “không có tác động rõ ràng của thâm hụt ngân sách đối với lạm phát trong giai đoạn nghiên cứu”. Tuy nhiên, những kết luận nói trên không hàm ý là thâm hụt không tác động đối với lạm phát ở Việt Nam vì thực tế thâm hụt ngân sách có thể tác động đến lạm phát trực tiếp và gián tiếp qua nhiều kênh khác nhau. Page 19 TIỂU LUẬN MÔN HỌC GVHD: TRƯ ƠNG MINH TUẤN Đối với mỗi quốc gia, nguyên nhân gây ra lạm phát có thể là: do cầu kéo hay là do sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá và dịch vụ; do chi phí đẩy khi có tác động của các yếu tố bên ngoài tác động vào không gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế; lạm phát là do tiền tệ, giá tăng lên ít nhiều là do tăng cung tiền tệ quá mức cầu của nền kinh tế. Thâm hụt ngân sách có thể được bù đắp thông qua các kênh: in tiền (vay của ngân hàng nhà nước); vay trong nước và vay nước ngoài, cắt giảm chi tiêu và tăng thu trên cơ sở thu thuế. Nếu như việc tài trợ thâm hụt ngân sách được thực hiện thông vay nợ trên thị trường trong nước sẽ gây áp lực làm tăng lãi suất trong nền kinh tế. Trong trường hợp này, việc vay bù đắp thâm hụt ngân sách thông qua vay nợ tác động đến lạm phát như thế nào phụ thuộc vào quan điểm điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Nếu như ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu ổn định lãi suất thì việc huy động để bù đắp thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến lạm phát vì để đạt được mục tiêu ổn định lãi suất thì cung tiền phải tăng lên và kéo theo đó là sự gia tăng của lạm phát. Mặt khác, nếu chính phủ huy động vốn thông qua vay nước ngoài để bù đắp cho thâm hụt, tỷ giá của đồng nội tệ sẽ đứng trước sức ép tăng giá. Theo đó, để giữ ổn định được tỷ giá, ngân hàng trung ương sẽ thể phải can thiệp vào thị trường ngoại tệ thông qua việc cung ứng thêm lượng tiền đồng và nếu việc này không được dung hòa kịp thời thì sẽ làm mở rộng cung tiền và sẽ làm gia tăng lạm pháp tương tự như trong trường hợp thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng. Ở Việt Nam bên cạnh những vấn đề nói trên hiện còn có ý kiến cho rằng tuy việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách đã chấm dứt song việc Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ thị trường mở tham gia mua lại số trái phiếu Chính phủ mà các tổ chức tín dụng mua trực tiếp từ Chính phủ có thể trở thành nhân tố làm tăng M2 (cung tiền). Thực tế khi Chính phủ vay bù đắp cho thâm hụt ngân sách trực tiếp từ các hộ gia đình và doanh nghiệp thì về nguyên tắc sẽ không làm thay đổi M 2, song nếu thực hiện qua các tổ chức tín dụng thì sẽ kéo theo sự gia tăng của M2 và khi đó có thể dẫn đến lạm phát. Điều này cũng phần nào lý giải cho trường hợp có sự hiện diện của hệ số tương quan dương giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát khi tính đến yếu tố trễ một năm như trình bày ở trên. Bên cạnh đó, hiện cũng có ý kiến cho rằng một lý do khác mà bội chi ngân sách có thể tác động đến lạm phát ở Việt Nam, đó là hiệu quả đầu tư của từ nguồn vốn ngân sách nhà nước còn thấp, tình trạng thất thoát còn cao. Tuy nhiên, đây Page 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan