1
TÓM TẮT LUẬN VĂN
M
ẦU
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trong quá trình
công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước với mục tiêu hội nhập và
phát triển cùng các nước trên thế giới. Trong xu thế đó đã đem lại cho
chúng ta nhiều thuận lợi cùng với thách thức khó khăn. Để giải quyết
các khó khăn đó các doanh nghiệp cần có các phương pháp tổ chức,
kinh doanh mang tính chiến lược nhằm đem lại hiệu quả cho doanh
nghiệp.
Cùng với sự phát triển của ngành khác ngành công nghiệp đã
và đang đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của
đất nước. Trong đó các doanh nghiệp cơ khí với mọi loại hình giữ vai
trò chủ chốt, là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác.
Tổ chức sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển trong các nhà máy hay doanh nghiệp cơ khí. Bởi vì, hiệu
quả của sự tiến bộ khoa học – kỹ thuật trong lĩnh vực thiết kế và chế
tạo máy chỉ có thể được đảm bảo trên cơ sở hoàn thiện các phương
pháp tổ chức sản xuất.
Tổ chức sản xuất bao hàm nhiều lĩnh vực hoạt động của nhà
máy như: Tổ chức chuẩn bị kỹ thuật, tổ chức lao động, lập kế hoạch
sản xuất, tổ chức kiểm tra kỹ thuật, tổ chức cung ứng vật tư – kỹ
thuật,.. Do đó người tổ chức các hoạt động đó cần phải hiểu sâu các
lĩnh vực kinh tế và tổ chức sản xuất, họ phải có khả năng giải quyết
những nhiệm vụ khoa học kỹ thuật cụ thể, đồng thời phải biết lập kế
hoạch sản xuất trong cơ chế thị trường cạnh tranh.
Nếu doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức sản xuất hợp lý thì doanh
nghiệp đó sẽ đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh, khi đó sẽ có
2
điều kiện để tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng khả năng đóng
góp vào ngân sách nhà nước.
Nhận thức được tầm quan trọng trên, tác giả đã chọn đề tài:
“Nghiên cứu phƣơng pháp tổ chức sản xuất trong các nhà máy cơ
khí”. Nhằm mục đích hiểu sâu hơn về phương pháp tổ chức sản xuất
trong các nhà máy cơ khí, hoàn thiện các vấn đề còn thiếu và hy vọng
có thể áp dụng được vào thực tế, để đóng góp một phần nhỏ cho sự
phát triển của doanh nghiệp.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài gồm :
- Hình thức và phương pháp tổ chức công việc của nhà máy
trên cơ sở của tiến bộ kỹ thuật và sử dụng tối ưu các nguồn vốn sản
xuất;
- Các phương pháp nâng cao năng suất lao động và tiền lương;
- Các phương pháp giảm giá thành, tăng lợi nhuận trên cơ sở
sử dụng các biện pháp hạch toán kinh tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài không nằm ngoài các doanh
nghiệp cơ khí với các dạng sản xuất khác nhau.
Nội dung của đề tài bao gồm 4 chương được bố cục như sau :
Chương 1: Tổng quan về các phương pháp tổ chức sản xuất.
Chương 2: Tổ chức lao động trong các nhà máy cơ khí.
Chương 3: Tổ chức sản xuất trong các nhà máy cơ khí.
Chương 4: Kế hoạch phát triển kinh tế – kỹ thuật của nhà máy.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CÁC PHƢƠNG PHÁP
TỔ CHỨC SẢN XUẤT
1.1 Khái niệm về tổ chức sản xuất.
Tổ chức sản xuất là khoa học nghiên cứu tổ hợp các điều kiện
và yếu tố tác động trong quá trình sản xuất trên cơ sở sử dụng các
3
kiến thức kỹ thuật, kinh tế, xã hội và các kinh nghiệm thực tế để hoàn
thành kế hoạch theo chỉ tiêu nhằm không ngừng nâng cao mức sống
của xã hội về vật chất, văn hoá và tinh thần.
Đối tượng nghiên cứu khoa học về tổ chức sản xuất bao gồm:
- Các phương pháp nâng cao năng suất lao động và tiền lương;
- Các phương pháp giảm giá thành, tăng lợi nhuận trên cơ sở
sử dụng các biện pháp hạch toán kinh tế.
1.2 Mối quan hệ của tổ chức sản xuất với các môn khoa học khác.
Môn học tổ chức sản xuất chiếm vị trí trung gian giữa các môn
học kỹ thuật và kinh tế. Xây dựng nội dung của môn học này phải
dựa vào kiến thức của các môn, kinh tế, kỹ thuật và kinh nghiệm thực
tế. Vì vậy, nó có thể được gọi là môn kinh tế - kỹ thuật.
Các môn kinh tế là cơ sở lý thuyết để xây dựng môn học tổ
chức sản xuất và xác định phương pháp giải quyết vấn đề đặt ra cho
mỗi nhà máy cơ khí trong những điều kiện sản xuất cụ thể.
Các môn học kỹ thuật nghiên cứu các quy luật phát triển và
hoàn thiện các tính chất cũng như kết cấu của sản phẩm và các
phương pháp chế tạo chúng, có ý nghĩa nghiên cứu nguyên liệu, vật
liệu, chi tiết và thiết bị.
Môn học đầu tiên có quan hệ chặt chẽ với môn học tổ chức sản
xuất là ‛‛công nghệ chế tạo máy”, nó là cơ sở để nghiên cứu vấn đề
kỹ thuật của tổ chức sản xuất.
1.3 Kinh nghiệm tổ chức sản xuất của tƣ bản chủ nghĩa.
1.4 Các nguyên tắc tổ chức sản xuất.
Tổ chức các quá trình sản xuất đều phải tuân theo một số
nguyên tắc sau đây:
Nguyên tắc chuyên môn hóa;
Nguyên tắc chuẩn hóa kết cấu;
4
Nguyên tắc tiêu chuẩn hóa công nghệ;
Nguyên tắc cân đối hài hoà;
Nguyên tắc song song;
Nguyên tắc thẳng dòng;
Nguyên tắc liên tục;
Nguyên tắc nhịp nhàng;
Nguyên tắc tự động hóa;
Nguyên tắc dự phòng;
1.5 Các phƣơng pháp chung về tổ chức sản xuất.
1.5.1 Tổ chức sản xuất theo thời gian.
1.5.1.1. Thời gian và cấu trúc của chu kỳ sản xuất .
Thời gian của chu kỳ sản xuất gồm hai thành phần: thời gian
làm việc và thời gian gián đoạn.
Thời gian làm việc là thời gian khi mà quy trình công nghệ và
các công việc chuẩn bị được thực hiện.
Thời gian gián đoạn có thể được chia ra: thời gian gián đoạn
giữa các nguyên công trong một ca làm việc và thời gian gián đoạn
giữa các ca làm việc.
1.5.1.2. Chu kỳ chế tạo chi tiết.
Chu kỳ chế tạo chi tiết là khoảng thời gian kể từ lúc bắt đầu
chế tạo chi tiết này đến khi bắt đầu chế tạo chi tiết kế tiếp, xét trong
điều kiện các chi tiết được chế tạo liên tục.
1.5.1.3 Chu kỳ chế tạo sản phẩm.
Chu kỳ chế tạo sản phẩm Tck bao gồm chu kỳ chế tạo các chi
tiết riêng lẻ và chu kỳ lắp ráp, chu kỳ các nguyên công sửa nguội,
điều chỉnh, chạy rà và chạy thử. Khi xây dựng sơ đồ chu kỳ trước hết
phải xác định khoảng thời gian của các công việc công nghệ, công
việc vận chuyển và công việc kiểm tra.
5
1.5.1.4 Các biện pháp giảm chu kỳ sản xuất.
Chu kỳ sản xuất có thể được giảm theo hai cách:
- Giảm thời gian gia công;
- Loại bỏ hoàn toàn hoặc giảm thiểu thời gian gián đoạn.
1.5.2 Tổ chức sản xuất theo không gian.
1.5.2.1 Cấu trúc sản xuất của nhà máy.
Trong bất kỳ nhà máy cơ khí nào đều có: các phân xưởng
chính, các phân xưởng phụ và các bộ phận phục vụ.
- Các phân xưởng chính bao gồm: phân xưởng đúc, phân
xưởng rèn dập, phân xưởng gia công cơ, phân xưởng nhiệt luyện và
phân xưởng lắp ráp.
- Các phân xưởng phụ bao gồm: phân xưởng dụng cụ, phân
xưởng làm mẫu, phân xưởng sửa chữa cơ khí, phân xưởng sửa chữa
điện…
- Các bộ phận phục vụ bao gồm: các kho chứa, các bộ phận
vận chuyển, các bộ phận vệ sinh, yêu cầu tế và các bộ phận khác của
nhà máy.
Như vậy, các phân xưởng chính, phân xưởng phụ và các bộ
phận phục vụ được gọi là cấu trúc của sản xuất của nhà máy.
Khi thiết kế cấu trúc của nhà máy cần phải tính đến các yếu tố sau:
- Đặc điểm kết cấu và công nghệ của sản phẩm.
- Quy mô sản xuất theo từng loại sản phẩm.
- Hình thức chuyên môn hoá của nhà máy.
- Quan hệ hợp tác của nhà máy với các nhà máy khác.
1.5.2.2 Hình thức chuyên môn hóa phân xưởng.
Có hai hình thức chuyên môn hóa phân xưởng:
- Theo dấu hiệu thực hiện quy trình công nghệ;
- Theo dấu hiệu chế tạo sản phẩm.
6
1.5.2.3. Cấu trúc sản xuất của phân xưởng.
Cấu trúc sản xuất của phân xưởng được hiểu là thành phần và
hình thức quan hệ của các công đoạn sản xuất và các bộ phận khác
trong phân xưởng. Cũng tương tự như chuyên môn hóa các phân
xưởng người ta phân biệt hai hình thức chuyên môn hóa trong phân
xưởng đó là:
- Các bộ phận trong phân xưởng được chuyên môn hóa theo
dấu hiệu công nghệ hay quy trình công nghệ;
- Các bộ phận trong phân xưởng được chuyên môn hóa theo
dấu hiệu sản phẩm.
1.5.2.4. Hướng phát triển của cấu trúc sản xuất của các nhà
máy cơ khí.
Cấu trúc sản xuất của nhà máy cơ khí có thể phát triển theo
những hướng sau đây:
- Chế tạo phôi chính xác.
- Thiết lập các công đoạn gia công khép kín và ứng dụng
hình thức chuyên môn hóa sản phẩm.
- Cơ khí hóa và tập trung nguyên công trong phạm vi cả nhà máy.
- Thành lập các nhà máy có quy mô lớn để tạo điều kiện áp
dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất và hoàn thiện hệ
thống quản lý sản xuất.
- Thiết kế mặt bằng không gian của nhà máy theo các chỉ tiêu
sau đây:
+ Đảm bảo nguyên tắc thẳng dòng và quãng đường di
chuyển của chi tiết là ngắn nhất.
+ Đảm bảo khả năng mở rộng nhà máy.
+ Đảm bảo các chi tiết về an toàn và môi trường.
7
1.5.3 Tổ chức sản xuất theo dây chuyền.
1.5.3.1 Khái niệm về sản xuất dây chuyền.
Sản xuất dây chuyền là dạng sản xuất mà trong đó quá trình
chế tạo các chi tiết giống nhau hoặc lắp ráp sản phẩm trong một
khoảng thời gian xác định được thực hiện liên tục theo trình tự của
quy trình công nghệ.
Sản xuất dây chuyền thuộc dạng sản xuất hàng khối hoặc hàng
loạt lớn bao gồm:
- Dây chuyền một sản phẩm;
- Dây chuyền nhiều sản phẩm;
- Dây chuyền nhóm;
- Dây chuyền gián đoạn.
1.5.3.2. Tổ chức sản xuất theo dây chuyền liên tục.
- Sự đồng bộ của các nguyên công:
Công việc trên dây chuyền liên tục phải dựa trên cơ sở phối
hợp giữa thời gian nguyên công với nhịp của dây chuyền.
- Tính dây chuyền liên tục
1.5.3.3. Điều kiện tổ chức và ưu điểm của tổ chức sản xuất dây
chuyền.
Điều kiện tổ chức của sản xuất dây chuyền:
Điều kiện thiết yếu để sản xuất dây chuyền đạt hiệu quả là quy
trình ổn định và đảm bảo được các chế độ: chế độ kỹ thuật, chế độ
phục vụ và chế độ lao động.
- Chế độ kỹ thuật: chế độ kỹ thuật đòi hỏi các phương pháp
gia công phải ổn định và có khả năng lặp lại các nguyên công một
cách có hệ thống trong những điều kiện định trước.
8
- Chế độ phục vụ: chế độ phục vụ đòi hỏi cung cấp cho dây
chuyền tất cả những yếu tố cần thiết để cho dây chuyền hoạt động
bình thường như phôi, dụng cụ, các thiết bị sửa chữa.
- Chế độ lao động: chế độ lao động đòi hỏi công nhân phải
tuân thủ theo nguyên tắc làm việc trên dây chuyền để đảm bảo cho
nhịp sản xuất được ổn định.
Ưu điểm của tổ chức sản xuất dây chuyền:
Sản xuất dây chuyền là hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả
nhất, ưu điểm của sản xuất dây chuyền là:
- Tăng năng suất lao động;
- Giảm chu kỳ sản xuất;
- Giảm phế phẩm;
- Sử dụng tất cả các nguồn vốn của nhà máy;
- Nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm.
CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC LAO ỘNG TRONG CÁC NHÀ MÁY
CƠ KHÍ
2.1 Tổ chức lao động.
2.1.1 Nhiệm vụ của tổ chức lao động.
Nhiệm vụ quan trọng của tổ chức lao động là sử dụng lực
lượng lao động một cách hợp lý nhằm nâng cao năng suất lao động.
Nội dung chính của công tác tổ chức lao động là thiết kế và ứng dụng
các biện pháp trong lĩnh vực sau đây:
- Phân chia lao động và bố trí công nhân trong sản xuất;
- Thành lập ca làm việc và cách bố trí ca làm việc;
- Phục vụ nhiều máy và tích hợp các chuyên môn;
- Yêu cầu đối với thiết bị sản phẩm;
9
- Yêu cầu về vệ sinh và đảm bảo điều kiện lao động thuận lợi;
- Tổ chức cạnh tranh lành mạnh và tuân thủ kỹ thuật lao động;
- Định mức lao động;
- Tổ chức tiền lương;
- An toàn lao động.
2.1.2 Phân chia lao động.
Cơ sở của phân chia lao động
Phân chia lao động trong nhà máy nhằm đảm bảo phân phối
công việc giữa những người thực hiện có chuyên môn sâu và kinh
nghiệm sản xuất, đồng thời nhằm mục đích xác định trách nhiệm cá
nhân trong công việc và củng cố quan hệ hợp tác trong quá trình lao
động tập thể. Phân chia lao động trong nhà máy được xác định theo 3
dấu hiệu cơ bản sau đây:
- Theo đặc tính lao động và mục đích công việc;
- Theo tính đồng nhất về kỹ thuật (công nghệ) của công việc;
- Theo độ phức tạp và trách nhiệm công việc.
Lao động tập thể và tổ chức đội lao động
2.1.3 Tổ chức ca làm việc và cách bố trí thời gian làm việc.
Chọn mối quan hệ hợp lý giữa các ca làm việc:
Nhiệm vụ chính của công tác tổ chức ca làm việc là chọn hình
thức quan hệ hợp lý giữa các ca nối tiếp nhau, tổ chức luân phiên thời
gian làm việc và nghỉ ngơi, chọn ca chuẩn bị.
2.1.4 Tổ chức phục vụ nhiều máy.
Phục vụ nhiều máy là hình thức tổ chức khi mà một hoặc một
nhóm công nhân cùng làm việc trên một số máy, trong khi thực hiện
thao tác bằng tay trên một máy này thì các máy khác chạy tự động.
10
2.1.5 Tích hợp các ngành nghề.
Điều kiện cần thiết để tích hợp các ngành nghề là khả năng của
công nhân có thể thực hiện được nhiều công việc khác nhau. Đối với
các công nhân thì sản xuất tích hợp ngành nghề là rất quan trọng
trong điều kiện sản xuất dây chuyền.
Tích hợp ngành nghề không chỉ nên thực hiện đối với các công
nhân chính mà còn đối với công nhân phụ.
2.1.6 Tổ chức và phục vụ chỗ làm việc.
Tổ chức phục vụ chỗ làm việc là hệ thống các biện pháp nhằm
tạo ra các điều kiện cần thiết để đạt được năng suất lao động cao với
chi phí nhỏ nhất và sử dụng hết khả năng kỹ thuật của thiết bị.
Chỗ làm việc hợp lý là chỉ tiêu tổ chức của các nhà máy. Tổ
chức chỗ làm việc phụ thuộc vào đặc điểm và mức độ cơ khí hóa của
các nguyên công, cách bố trí công nhân, số lượng máy và đặc tính
công việc.
2.1.7 Yêu cầu về điều kiện làm việc của công nhân.
Tạo điều kiện làm việc thuận lợi cho công nhân là một nhiệm
vụ quan trọng của tổ chức lao động. Các điều kiện này thường được
chia ra 5 nhóm:
- Đặc biệt thuận lợi;
- Thuận lợi;
- Không thuận lợi;
- Rất không thuận lợi;
- Không thể chấp nhận được.
2.1.8 Tổ chức đào tạo công nhân.
Đào tạo công nhân được thực hiện trong hệ thống đào tạo
ngành nghề của quốc gia và đào tạo trực tiếp trong quá trình sản xuất.
11
Đào tạo công nhân bao gồm: đào tạo công nhân mới và nâng cao
trình độ chuyên môn của công nhân đang làm việc tại nhà máy.
Nâng cao trình độ chuyên môn của từng công nhân mà không
tách khỏi sản xuất (vừa làm vừa học) nhằm đạt được những mục đích
chính sau đây:
Đào tạo nâng bậc cao hơn;
Đào tạo ngành nghề bổ sung;
Đào tạo có mục đích.
2.1.9 Thi đua và kỷ luật lao động.
- Thi đua: Thi đua trong lao động là một trong những nhân tố
nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Phong trào thi
đua trong nhà máy diễn ra giữa các phân xưởng, giữa các công nhân
cùng ngành nghề, giữa các kỹ sư...
- Kỷ luật lao động: Tuân theo kỷ luật lao động có nghĩa là
đảm bảo thời gian làm việc, hoàn thành công việc với trách nhiệm
cao nhất. Kỷ luật lao động bao gồm: Kỷ luật công nghệ; Kỷ luật kế
hoạch.
2.2 ịnh mức lao động.
2.2.1 Ý nghĩa và nội dung của định mức lao động.
Vì thước đo của lao động là thời gian cho nên năng suất lao
động được đặc trưng bằng chỉ số thời gian cần chi phí để thực hiện
công việc. Thời gian càng nhỏ năng suất lao động càng cao. Tiết
kiệm chi phí lao động là một chỉ tiêu hoàn thiện công nghệ và tổ chức
sản xuất. Chính vì vậy, trong điều kiện sản xuất cụ thể, định mức lao
động có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Nhiệm vụ chính của định mức lao động là xác định: mức thời
gian, có nghĩa là chi phí thời gian cần thiết để thực hiện một đơn vị
công việc; mức sản phẩm là số đơn vị sản phẩm được chế tạo ra trong
12
một đơn vị thời gian và mức công nhân, có nghĩa là số công nhân cần
thiết để thực hiện một khối lượng công việc cụ thể. Định mức lao
động cũng là cơ sở để lập kế hoạch sản xuất và thiết kế quy trình
công nghệ.
2.2.2 Năng suất lao động.
2.2.3 Các phương án tăng năng suất lao động.
Tăng năng suất lao động là một nhiệm vụ quan trọng của các
nhà máy. Giải quyết vấn đề này phải được gắn liền với việc giảm
khối lượng lao động và hạ giá thành sản phẩm. Những biện pháp chủ
yếu để tăng năng suất lao động là:
1. Tăng mức độ cơ khí hóa và tự động hóa toàn bộ quy trình
công nghệ.
2. Thiết kế kết cấu của máy hoàn thiện hơn.
3. Sử dụng nhiều máy tự động, bán tự động và các máy điều
khiển theo chương trình số.
4. Tăng số dây chuyền tự động và nhà máy tự động.
5. Tăng chế độ cắt bằng cách cải tiến các kết cấu cũ và chế tạo
các kết cấu mới của dao cắt, sử dụng dao hợp kim cứng, hợp kim
gốm và dao kim cương.
6. Giảm thời gian cơ bản của T0
7. Giảm thời gian phụ Tp
8. Giảm thời gian phục vụ Tpv
9. Chế tạo phôi bằng các phương pháp có độ chính xác cao.
10. Hoàn thiện quy trình công nghệ
13
2.2.4 Các tiêu chuẩn để định mức lao động.
2.3 Tổ chức tiền lƣơng.
2.3.1. Tiền lương.
Tiền lương là một phần của sản phẩm xã hội được cấp cho mỗi
người lao động tương ứng với số lượng và chất lượng lao động của họ.
Tổ chức tiền lương phải đảm bảo được các yêu cầu sau:
- Tuân theo nguyên tắc phân chia lao động;
- Đảm bảo tương quan giữa tăng lương và tăng năng suất lao
động. Tăng năng suất lao động phải đi trước việc tăng lương, đó là
quy luật của tái sản xuất mở rộng và là nguồn gốc của việc nâng cao
mức sống vật chất tinh thần của người lao động.
2.3.2 Các hình thức trả lương.
Có hai hình thức trả lương:
- Trả lương theo sản phẩm;
- Trả lương theo thời gian lao động.
2.4 Tổ chức quản lý và giám sát lao động.
2.4.1 Quản lý lao động.
Quản lý nhân sự nói chung và quản lý lao động nói riêng là
một trong những chức năng cơ bản của các quá trình quản lý doanh
nghiệp, bởi quản lý con người là quản lý một trong những yếu tố
quan trọng nhất của doanh nghiệp, không thể thiếu đối với mọi loại
hình doanh nghiệp.
2.4.2. Kiểm tra giám sát và đánh giá lao động.
Mặc dù người lao động đã có những trách nhiệm, nghĩa vụ và
quyền lợi ràng buộc trong hợp đồng lao động. Nhưng việc kiểm tra
và giám sát vẫn cần được thực hiện nhằm phát hiện hành vi vi phạm
kỷ luật của người lao động, phát hiện kịp thời về tài sản của nhà máy
khi xảy ra những sự cố cháy nổ, thiết bị hư hỏng hoặc các nguyên
nhân khách quan khác.
14
CHƢƠNG 3: TỔ CHỨC SẢN XUẤT TRONG CÁC NHÀ MÁY
CƠ KHÍ
3.1 Tổ chức chuẩn bị kỹ thuật trong sản xuất.
3.1.1 Nội dung của chuẩn bị kỹ thuật trong sản xuất.
Chuẩn bị kỹ thuật trong sản xuất là toàn bộ các công việc liên
quan đến thiết kế mới, hoàn thiện các kết cấu và các quy trình công
nghệ nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
3.1.2 Nhiệm vụ của chuẩn bị kỹ thuật trong sản xuất.
Chuẩn bị kỹ thuật trong bất kỳ nhà máy cơ khí nào đều có 3
nhiệm vụ:
Nhiệm vụ thứ nhất: Nhiệm vụ này xuất phát trực tiếp từ nội
dung của chuẩn bị kỹ thuật nhằm đảm bảo tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh
vực của nền kinh tế quốc dân mà nhà máy phục vụ. Vì vậy, chuẩn bị
kỹ thuật phải hướng tới việc sử dụng các kết cấu mới của nhà máy và
công nghệ chế tạo tiên tiến.
Nhiệm vụ thứ hai: Nhiệm vụ này cần phải tạo ra điều kiện
thuận lợi cho nhịp sản xuất của nhà máy kéo theo kế hoạch của cấp
trên đặt ra. Để đạt được mục đích này phải luôn luôn hướng tới việc
chọn phôi, chọn vật liệu hợp lý và sử dụng các trang bị công nghệ
mới.
Nhiệm vụ thứ ba: Nhiệm vụ này phải giải quyết vấn đề giảm
thời gian, khối lượng và giá thành chế tạo chi tiết (hay sản phẩm).
3.1.3 Các giai đoạn của chuẩn bị kỹ thuật trong sản xuất.
Chuẩn bị kỹ thuật trong sản xuất có thể chia ra 4 giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn nghiên cứu;
- Giai đoạn chuẩn bị thiết kế;
- Giai đoạn chuẩn bị công nghệ;
- Giai đoạn tổ chức.
15
3.2 Tổ chức kiểm tra kỹ thuật.
3.2.1 Nhiệm vụ của kiểm tra kỹ thuật.
Chất lượng của nhà máy cơ khí là một chỉ tiêu quan trọng nhất.
Chất lượng sản phẩm là toàn bộ tính chất, thoả mãn những yêu cầu
làm việc của sản phẩm. Toàn bộ chỉ tiêu của chất lượng sản phẩm
được ghi trong bản vẽ và trong các bộ tiêu chuẩn. Sản phẩm đáp ứng
được các chỉ tiêu này được gọi là thành phẩm, còn các sản phẩm
không đáp ứng được các chỉ tiêu này được gọi là phế phẩm. Vì vậy,
mỗi nhà máy cơ khí phải có nhiệm vụ:
- Đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu ghi trên bản vẽ
và trên các bộ tiêu chuẩn;
- Phát hiện và ngăn ngừa phế phẩm;
- Nghiên cứu và tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm;
Để giải quyết những nhiệm vụ tổ hợp này, nhà máy phải luôn
luôn thực hiện kiểm tra kỹ thuật chất lượng sản phẩm và quy trình
công nghệ.
3.2.2 Đối tượng của kiểm tra kỹ thuật.
Kiểm tra kỹ thuật cần phải được tiến hành cho tất cả các đối
tượng mà chúng có thể ảnh hưởng ít nhiều đến mức độ chất lượng và
mức độ đồng nhất của sản phẩm. Nhìn chung, đối tượng của kiểm tra
kỹ thuật bao gồm:
- Nguyên vật liệu chính và phụ pha trộn và sử dụng vữa xây dựng;
- Bán thành phẩm nhận từ nhà máy khác;
- Phôi ở các giai đoạn sản xuất khác nhau;
- Chi tiết ở các giai đoạn sản xuất khác nhau;
- Cụm chi tiết hoặc sản phẩm ở giai đoạn lắp khác nhau;
- Thiết bị sản xuất và các trang bị công nghệ (dụng cụ, đồ gá
các loại, khuôn mẫu …);
16
- Quy trình công nghệ và chế độ cắt;
- Văn hoá sản xuất (trật tự, vệ sinh, an toàn …).
3.2.3 Chức năng của kiểm tra kỹ thuật
- Chức năng trung tâm của kiểm tra kỹ thuật phải là chức
năng phòng ngừa phế phẩm. Vì vậy, kiểm tra kỹ thuật trước hết phải
là kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu bán thành phẩm nhập về từ các
nhà máy khác.
- Chức năng phòng ngừa của kiểm tra kỹ thuật còn được thực
hiện trực tiếp ở quy trình công nghệ. Hàng ngày cần phải kiểm tra
các phương pháp gia công ( ở quy trình công nghệ), chế độ cắt và các
thông số khác có thể ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm.
3.3 Tổ chức dịch vụ dụng cụ.
3.3.1 Vai trò, nhiệm vụ và thành phần của dịch vụ dụng cụ.
Tổ chức dịch vụ dụng cụ bao gồm dụng cụ cắt, dụng cụ đo
lường, khuôn mẫu và đồ gá,… hợp lý sẽ tạo điều kiện tốt để nhà máy
hoàn thành kế hoạch và giảm chi phí sản xuất.
Nhiệm vụ của dịch vụ dụng cụ là cung cấp cho phân xưởng và
chỗ làm việc dụng cụ có chất lượng cao với các chi phí nhỏ nhất (chi
phí chế tạo, chi phí mua, chi phí bảo quản và chi phí bảo hành).
Thành phần của dịch vụ dụng cụ thuộc vào dạng sản xuất và
quy mô của nhà máy. Cần phân biệt:
- Bộ phận dịch vụ dụng cụ của nhà máy.
- Bộ phận dịch vụ dụng cụ của phân xưởng.
3.3.2 Phân loại và ký hiệu dụng cụ.
Phân loại và ký hiệu dụng cụ được dùng để hệ thống hoá
chủng loại dụng cụ tồn tại ở nhiều nhà máy khác nhau. Phân loại và
ký hiệu được tiến hành theo đặc tính sử dụng công dụng:
17
Theo đặc tính sử dụng trong các nhà máy cơ khí, dụng cụ được
chia ra: dụng cụ tiêu chuẩn và dụng cụ chuyên dùng.
+ Dụng cụ tiêu chuẩn là dụng cụ được sử dụng rộng rãi
và thoả mãn các tiêu chuẩn quốc gia.
+ Dụng cụ chuyên dùng là dụng cụ được dùng cho một
nguyên công xác đinh.
Theo công dụng dụng cụ được chia ra các loại như dụng cụ cắt,
dụng cụ đo, khuôn mẫu, đồ gá,…
3.3.3. Định mức tiêu thụ dụng cụ.
Mức tiêu thụ dụng cụ là số lượng dụng cụ cần thiết để thực
hiện một khối lượng công việc nhất định.
3.3.4 Lập kế hoạch dịch vụ dụng cụ.
Lập kế hoạch dụng cụ bao gồm:
- Tính toán số dụng cụ đưa vào vận hành và lưu thông;
- Lập kế hoạch và điều chỉnh nhu cầu sử dụng dụng cụ;
- Lập kế hoạch và điều chỉnh sản xuất dụng cụ.
3.3.5. Tổ chức phục hồi dụng cụ.
Phục hồi dụng cụ cho phép tiết kiệm nguyên vật liệu và chi phí
sản xuất. Kết quả phục hồi dụng cụ có thể làm giảm 25 30% nhu
cầu sử dụng dụng cụ mới của nhà máy. Vì vậy, phục hồi dụng cụ cần
phải được tiến hành thường xuyên và xem đó như là một biện pháp
cần thiết để bổ xung vào nguồn dự trữ dụng cụ của nhà máy.
Các nhóm dụng cụ cần phục hồi được phân loại như sau:
- Dụng cụ có thể được sử dụng cho các nguyên công khác mà
không cần sửa chữa lại;
- Dụng cụ có thể phục hồi lại nguyên kích thước ban đầu
nhưng có chức năng công nghệ thay đổi (ví dụ, dao phay và dao
khoét bị gãy lưỡi có thể hàn lại nhưng dùng vào việc khác);
18
- Dụng cụ có thể dùng làm bán thành phẩm hay có thể dùng
chế tạo các lưỡi của dụng cụ khác(ví dụ, các lưỡi dao phay có thể
dùng chế tạo các lưỡi của dụng cụ khác);
- Dụng cụ bị gãy hoặc phoi thép gió có thể đúc lại thành phôi
cho dụng cụ thép gió.
Để cho quá trình phục hồi được thực hiện thuận lợi và đúng
nguyên tắc cần tuân theo các điều kiện sau đây:
- Các dụng cụ mới chỉ được chuyển cho các phân xưởng sử
dụng sau khi có văn bản bàn giao các dụng cụ đã qua sử dụng của các
phân xưởng cho phân xưởng dụng cụ nhà máy;
- Phân xưởng dụng cụ nhà máy chỉ có kế hoạch chế tạo các
dụng cụ mới sau khi có sự từ chối phục hồi của bộ phận phân loại
dụng cụ đã qua sử dụng.
3.4 Tổ chức dịch vụ sửa chữa.
3.4.1 Nhiệm vụ và ý nghĩa của dịch vụ sửa chữa.
Để sử dụng hiệu quả thiết bị cần thực hiện nhiều biện pháp chăm
sóc và theo dõi thiết bị như: kiểm tra độ chính xác, tra dầu mỡ, loại bỏ
các khuyết tật, kiểm tra nguyên tắc vận hành,…Để thực hiện các công
việc trên đây ở các nhà máy người ta tổ chức dịch vụ sửa chữa.
Nhiệm vụ của dịch vụ sửa chữa bao gồm ngăn ngừa độ mòn
của thiết bị một cách hợp lý; phục vụ và sửa chữa ở trạng thái sẵn
sàng với thời gian dừng thấp nhất và chi phí cho sửa chữa, chăm sóc
và theo dõi cũng thấp nhất.
3.4.2 Hệ thống sửa chữa theo kế hoạch.
Hệ thông sửa chữa theo kế hoạch là toàn bộ những công việc
chăm sóc kỹ thuật và sửa chữa thiết bị được thực hiện theo kế hoạch
định trước nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng thiết bị. Hệ thống sửa
chữa theo kế hoạch bao gồm những loại công việc sau đây:
19
- Phục vụ giữa các lần sửa chữa;
- Các công việc phòng ngừa định kỳ;
- Sửa chữa theo kế hoạch.
3.4.3 Định mức sửa chữa.
Cơ sở của hệ thống theo kế hoạch là các định mức xác định thứ
tự và thời gian sửa chữa, đồng thời xác định cả khối lượng lao động
và vật tư tiêu hao cho sửa chữa. Các định mức quan trọng của hệ
thống sửa chữa theo kế hoạch là:
- Chu kỳ giữa các lần sửa chữa;
- Khối lượng lao động và khối lượng vật liệu;
- Độ phức tạp sửa chữa.
3.4.4 Tổ chức chuẩn bị sửa chữa.
Tất cả các công việc của sửa chữa theo kế hoạch đều cần các
khâu chuẩn bị kỹ thuật và chuẩn bị thực tế. Chuẩn bị kỹ thuật của
công việc sửa chữa bao gồm hai phần chuẩn bị thiết kế và chuẩn bị
công nghệ.
3.5 Tổ chức cung ứng vật tƣ - kỹ thuật.
3.5.1 Nhiệm vụ của tổ chức cung ứng vật tư và kỹ thuật.
Nhiệm vụ chủ yếu của cung ứng vật tư - kỹ thuật là đảm bảo
cho nhà máy có được những thiết bị sản xuất hợp lý với khả năng
quay vòng tối đa và tồn đọng tối thiểu.
Hiệu quả sử dụng thiết bị sản xuất phụ thuộc vào hình thức tổ
chức và phương pháp cung ứng vật tư, vì phần thiết bị thường là
tương đối ổn định. Những yếu tố quan trọng của cung ứng vật tư kỹ
thuật là:
- Phân loại và ký hiệu vật tư;
- Định mức tiêu thụ vật liệu;
- Định mức dự trữ vật liệu.
20
3.5.2 Phân loại và ký hiệu vật liệu:
Chủng loại vật liệu được dùng trong các nhà máy cơ khí rất
khác nhau- có tới 30.000 loại. Phân loại vật liệu có nghĩa là phân chia
chúng ra thành các nhóm, nhóm nhỏ theo dấu hiệu đồng nhất. Khi
phân loại vật liệu cần chỉ rõ ký hiệu của chúng, tiêu chuẩn kỹ thuật
đồng thời cần ghi cả giá công nghiệp và giá kế hoạch.
Giá công nghiệp là giá do nhà sản xuất bán ra, còn giá kế
hoạch là giá bao gồm giá công nghiệp cộng thêm các khoản chi phí
như thuế, vận chuyển bảo quản,…
3.5.3 Định mức tiêu thụ vật liệu:
Định mức tiêu thụ vật liệu được dùng để xác định nhu cầu vật
liệu khi lập kế hoạch cung ứng vật tư - kỹ thuật, để kiểm tra tính hợp
lý của sử dụng vật liệu và để tính toán giá thành sản phẩm.
Khi xây dựng mức tiêu thụ vật liệu phải chú ý đến cả vật liệu
được hớt đi trong quá trình gia công chứ không phải chỉ có vật liệu
và tính kinh tế của sử dụng vật liệu, người ta sử dụng các chỉ tiêu sau
đây:
- Khối lượng sản phẩm trước khi gia công;
- Khối lượng của sản phẩm sau khi gia công;
- Hệ số sử dụng vật liệu theo chi tiết;
- Hệ số sử dụng vật liệu theo sản phẩm;
- Hệ số thành phẩm đầu ra.
3.5.4 Định mức dự trữ vật liệu.
Mỗi nhà máy đều có số lượng vật liệu dự trữ nhất định để cung
cấp liên tục cho các phân xưởng sản xuất. Số lượng vật liệu dự trữ
của nhà máy đủ lớn để đảm bảo cho quá trình sản xuất ổn định nhưng
đồng thời phải là nhỏ nhất để thời gian tồn đọng trong kế hoạch và
tăng tính lưu thông của vật liệu.
- Xem thêm -