1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu tôm hàng đầu trên thế giới với hai đối tượng nuôi chính là
tôm sú và tôm thẻ chân trắng, tổng khối lượng sản phẩm tôm sú và tôm thẻ năm 2012 đã đạt trên 480 ngàn tấn,
trong đó lượng tôm thẻ chân trắng đạt trên 130 ngàn tấn và có xu hướng gia tăng. Song song với các sản phẩm
xuất khẩu chính, một lượng đáng kể đầu và vỏ tôm cũng được tạo ra từ các qui trình sản xuất, ước tính lên đến
200 ngàn tấn mỗi năm. Trên đầu và vỏ tôm có chứa một lượng đáng kể protein, chitin, khoáng, protease và
astaxanthin. Do đó, việc xử lý kịp thời và hiệu quả lượng nguyên liệu tôm còn lại không những sẽ góp phần hạn
chế ô nhiễm môi trường mà còn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng tài nguyên thông
qua việc thu hồi các hợp chất có hoạt tính sinh học.
Ở nước ta việc khai thác nguồn nguyên liệu tôm còn lại mới chỉ tập trung chủ yếu vào chitin và do sử
dụng phương pháp hóa học nên không thu hồi được các hợp chất có giá trị khác như protein và astaxanthin. Bên
cạnh đó,chất lượng chitin vẫn còn nhiều hạn chế và công nghệ sản xuất chitin đã gây ô nhiễm môi trường rất
nghiêm trọng. Vì vậy, để có thể sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu còn lại từ quá trình chế biến tôm, đặc biệt
là với tôm thẻ chân trắng - một đối tượng nuôi mới, đồng thời thúc đẩy sự hình thành và phát triển bền vững
ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng từ nguồn nguyên liệu này ở Việt Nam cần thiết phải
nghiên cứu công nghệ cải tiến để có thể thu hồi chitin đồng thời với các hợp chất có giá trị sinh học khác và
giảm ô nhiễm môi trường.
Kết hợp phương pháp sinh học với hóa học đang là hướng đi được quan tâm trong thu hồi chitin và các
hợp chất có giá trị từ nguyên liệu giáp xác nhưng để có thể áp dụng vào thực tiễn cần phải nghiên cứu các giải
pháp hỗ trợ để nâng cao hiệu quả đồng thời hiểu rõ hơn về động học quá trình.
Xu thế mới trong cải tiến công nghệ hiện nay là chú trọng khai thác và áp dụng tác nhân vật lý để hỗ trợ
quá trình hóa học và sinh học, trong đó sóng siêu âm đang đặc biệt được quan tâm. Sóng siêu âm là một tác nhân
vật lý "xanh" đã được chứng minh hiệu quả và triển khai ở qui mô công nghiệp trong nhiều lĩnh vực như chế
biến thực phẩm, công nghiệp hóa học, công nghiệp dệt. Do đó nghiên cứu kết hợp xử lý sóng siêu âm trong quá
trình sản xuất chitin, chitosan có thể mở ra một hướng đi mới, giúp cải tiến hiệu quả công nghệ thu hồi chitin,
chitosan hiện có.
Luận án " Tối ưu hóa quá trình thu nhận chitin-chitosan từ phế liệu tôm thẻ chân trắng nhằm nâng
cao hiệu quả và chất lượng sản phẩm" được thực hiện với mục đích nghiên cứu kết hợp phương pháp enzyme,
phương pháp hóa học với phương pháp vật lý để đề xuất một hướng đi mới cho phép cải tiến công nghệ sản xuất
chitin, chitosan ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận án là tối ưu hóa các công đoạn chính trong quá trình thu nhận chitin, chitosan bằng
công nghệ kết hợp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm lượng hóa chất sử dụng, tận dụng được nguồn
protein có giá trị sinh học và hạn chế ô nhiễm môi trường.
3. Phạm vi và nội dung nghiên cứu
Luận án sẽ tập trung nghiên cứu 03 công đoạn chính có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và
hiệu quả của quá trình thu nhận chitin, chitosan từ vỏ động vật giáp xác: công đoạn khử protein, khử khoáng và
deacetyl, trên cơ sở đó đề xuất qui trình cải tiến cho phép cải thiện chất lượng của sản phẩm và nâng cao hiệu
2
quả về mặt môi trường. Các nội dung chính trong luận án bao gồm: (1) Xác định thành phần (thành phần khối
lượng, thành phần hóa học, thành phần khoáng và thành phần acid amin) của đối tượng tôm thẻ chân trắng; (2)
Nghiên cứu tối ưu hóa chế độ thu nhận chitin và protein từ phần đầu và vỏ tôm thẻ chân trắng; (3) Nghiên cứu
động học quá trình khử protein trên vỏ tôm thẻ chân trắng bằng pepsin; (4) Nghiên cứu tối ưu hóa và động học
quá trình deacetyl chitin, thu hồi từ đối tượng tôm thẻ chân trắng, trong điều kiện dị thể với sự hỗ trợ của sóng
siêu âm; và (5) Đề xuất qui trình thu nhận chitin, chitosan và protein sử dụng công nghệ cải tiến (kết hợp phương
pháp enzyme, phương pháp hóa học và phương pháp vật lý) cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả
của quá trình.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính trong luận án là nguyên liệu còn lại (phần đầu và phần vỏ thân) của quá
trình chế biến tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) xuất khẩu, kích cỡ trung bình từ 81-120 con/kg.
5. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn và tính mới của luận án
Luận án đã công bố dẫn liệu về thành phần khối lượng và thành phần hóa học của đối tượng nguyên liệu
tôm thẻ chân trắng được nuôi và chế biến ở khu vực Khánh Hòa, đồng thời đánh giá tác động của việc chậm xử
lý đến sự biến đổi của đầu tôm thẻ chân trắng. Kết quả thu được là căn cứ khoa học để các doanh nghiệp chế
biến tôm và sản xuất chitin thực hiện các điều chỉnh cần thiết cho quá trình xử lý nguyên liệu còn lại, từ đó nâng
cao được hiệu quả sử dụng tài nguyên, hạn chế được các tác động xấu đến môi trường.
Lần đầu tiên việc nghiên cứu động học quá trình khử protein dưới xúc tác của enzyme protease (pepsin)
cũng được thực hiện. Kết quả nghiên cứu động học thu được giúp hiểu rõ hơn đặc điểm cấu trúc của vỏ tôm, bản
chất quá trình khử protein bằng enzyme pepsin đồng thời cung cấp mô hình toán hỗ trợ cho việc mở rộng qui mô
áp dụng cũng như kiểm soát, điều chỉnh quá trình khử protein bằng enzyme.
Các kết quả nghiên cứu tối ưu hóa và động học quá trình deacetyl trong điều kiện dị thể có kết hợp với
sóng siêu âm lần đầu tiên được công bố giúp hiểu rõ hơn tác dụng của hỗ trợ quá trình deacetyl của sóng siêu
âm, đồng thời cung cấp các căn cứ khoa học để mở rộng phạm vi áp dụng sóng siêu âm vào lĩnh vực sản xuất
chitin, chitosan.
Việc áp dụng công nghệ kết hợp (Integrated) giữa phương pháp sinh học, hóa học và vật lý vào quá trình
thu hồi chitin, chitosan và protein cũng lần đầu tiên được đề cập trong luận án. Các qui trình được đề xuất sẽ mở
ra một hướng đi mới trong việc cải tiến công nghệ thu hồi chitin, chitosan hiện có: cho phép nâng cao chất lượng
sản phẩm, thu hồi protein có hoạt tính sinh học, đồng thời tiết giảm đáng kể lượng hóa chất sử dụng và chất thải.
6. Kết cấu của Luận án
Luận án gồm 142 trang nội dung, 19 trang tài liệu tham khảo (242 tài liệu) và 56 trang phụ lục. Nội dung
luận án được trình bày trong 3 chương với 28 bảng biểu và 28 hình ảnh, đồ thị và 13 sơ đồ, qui trình.
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1. Thành phần và giá trị của nguyên liệu còn lại sau quá trình chế biến tôm xuất khẩu
Nguyên liệu còn lại sau khi chế biến tôm gồm có đầu, vỏ, đuôi và một lượng không đáng kể thịt vụn; Tỷ
lệ giữa các phần thay đổi tùy thuộc vào giống loài, độ tuổi, mùa vụ và phương pháp chế biến tuy nhiên theo số
liệu thống kê tỷ lệ nguyên liệu còn lại so với khối lượng toàn thân tôm dao động khoảng 40-60%.
Mặc dù có sự khác nhau về tỷ lệ các thành phần hóa học ở các loài tôm nhưng protein luôn là thành phần
chiếm tỷ trọng lớn nhất (từ 33-49,8% khối lượng chất khô), tiếp đến là chất khoáng và chitin (tương ứng từ 21,6-
3
38% và từ 13,5-20% khối lượng chất khô). Như vậy, nguyên liệu còn lại của quá trình chế biến tôm là nguồn
nguyên liệu quan trọng để thu nhận protein và chitin.
Trên đầu tôm có chứa một hệ gồm nhiều loại enzyme khác nhau trong đó một lượng đáng kể là enzyme
protease. Hệ enzyme protease trên đầu tôm bao gồm cả endoprotease và exoprotease, có hoạt lực tương đương
một số protease thương mại tuy nhiên chúng rất dễ bị tổn thất theo lượng protein hòa tan. Đối với tôm thẻ chân
trắng (Penaeus vannamei), hệ protease hoạt động mạnh ở 60oC trong vùng pH=7,5-8, đây cũng chính là giá trị
pH tự nhiên của đầu tôm tươi. Khai thác trực tiếp nguồn protease trên đầu tôm để thủy phân protein sẽ cho phép
tiết kiệm được chi phí bổ sung enzyme từ bên ngoài.
1.2. Pepsin và khả năng ứng dụng trong thu nhận protein và chitin
Pepsin có bản chất của một endopeptidase, thuộc nhóm aspartate protease, có tính đặc hiệu đối với các
liên kết peptide giữa các acid amin kỵ nước với các acid amin vòng thơm như phenylalanine, tryptophan và
tyrozin. Phân tử pepsin được hình thành từ một chuỗi protein đơn. Khối lượng phân tử trung bình của pepsin
thương mại vào khoảng 34,644 Da với 327 gốc acid amin, trong đó các acid amin có tính acid chiếm một tỷ lệ
cao (43 trong tổng số 327), tạo nên giá trị pI khá thấp. Trung tâm hoạt động của pepsin được hình thành bởi hai
tiểu phần có gốc aspartate, Asp32 và Asp215, một tiểu phần sẽ đóng vai trò chất nhận proton, và tiểu phần còn
lại là chất cho proton. pH hoạt động của pepsin trong khoảng từ 1-5, tùy theo cơ chất. Trong giải pH từ 5-7, hoạt
tính của pepsin giảm đáng kể. Ở pH trên 7, pepsin bị biến tính và mất khả năng hoạt động tuy nhiên hoạt tính của
pepsin có thể phục hồi khi pH của hệ thay đổi về vùng tối thích. Sản phẩm thủy phân protein của pepsin có hoạt
tính sinh học cao hơn so với các enzyme khác như Alcalase , α-chymotrypsin, và trypsin. Với các tính chất đặc
trưng này, có thể sử dụng pepsin để kết hợp quá trình khử protein với quá trình khử khoáng giúp rút ngắn thời
gian và thu hồi sản phẩm thủy phân protein có hoạt tính sinh học.
Pepsin thương mại hiện nay chủ yếu được thu nhận từ lớp niêm mạc dạ dày lợn theo phương pháp
truyền thống nên chi phí sản xuất cao hơn so với một số enzyme protease thương mại khác được thu nhận từ sinh
khối vi sinh vật. Tuy nhiên các nguồn thu nhận pepsin đang được nghiên cứu mở rộng (từ nội tạng cá hay từ
một số loài vi sinh vật như nấm Botrytis cinerea hay vi khuẩn Aspergillus niger) cùng với sự cải tiến về công
nghệ thu hồi dựa trên hệ thống hai pha (Aqueous two-phase system) do đó chắc chắn giá thành của pepsin sẽ có
sự điều tiết hợp lý hơn trong tương lai.
1.3. Sóng siêu âm và tiềm năng ứng dụng
Sóng siêu âm là sóng âm thanh có tần số cao hơn tần số tối đa mà tai người có thể nghe thấy được
(>20kHz). Trong lĩnh vực công nghệ thực phẩm và công nghệ sinh học, sóng siêu âm có tần số thấp - cường độ
cao (20 -100kHz) có phạm vi ứng dụng khá rộng, đặc biệt được dùng để điều chỉnh tính chất vật lý và hóa học
của thực phẩm, của enzyme cũng như của các đối tượng được chiếu sóng.
Cơ chế tác động của sóng siêu âm trong hệ có chất lỏng chủ yếu liên quan đến hiện tượng tạo lỗ hổng
(cavitation). Tùy thuộc vào đặc tính của hệ được chiếu sóng siêu âm (tính chất của môi trường lỏng, sự có hay
không có mặt của khí và các thành phần không tan) và điều kiện chiếu sóng (tần số, mức năng lượng, thời gian,
phương thức tạo sóng, ...) mà các tác động trên có thể xảy ra với các mức độ khác nhau. Với cơ chế tác động đa
chiều, sóng siêu âm có thể thay đổi cấu trúc không gian của các chất tham gia phản ứng (nguyên liệu, enzyme)
và tăng cường sự tiếp xúc giữa các chất tham gia phản ứng nhờ đó có tác dụng đẩy nhanh tốc độ và rút ngắn
đáng kể thời gian phản ứng.
4
Việc nghiên cứu và ứng dụng sóng siêu âm để đẩy nhanh tốc độ phản ứng hóa học, nâng cao hiệu suất
tách chiết các chất có hoạt tính sinh học với các hệ dị thể (rắn - lỏng) đang rất được quan tâm vì sóng siêu âm có
khả năng xúc tiến các phản ứng hóa học, giúp giảm nhẹ điều kiện phản ứng (nhiệt độ, thời gian, lượng hóa chất
sử dụng), tiết kiệm chi phí đồng thời còn cho phép giữ và/hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm. Kết quả của các
nghiên cứu cho thấy tác động hóa học, vật lý và năng lượng hình thành nhờ xử lý sóng siêu âm đã cho phép giảm
thiểu được rất đáng kể lượng hóa chất và chất thải thải ra môi trường, góp phần tạo nên các quá trình công nghệ
"xanh" và chúng hoàn toàn có thể phát triển để đưa vào áp dụng ở qui mô công nghiệp.
1.4. Những vấn đề cần giải quyết đối với công nghệ sản xuất chitin, chitosan ở Việt Nam
Nguyên liệu dùng để sản xuất chitin chủ yếu là phần đầu tôm và vỏ tôm từ qui trình chế biến tôm sú và
tôm thẻ chân trắng xuất khẩu. Tại các doanh nghiệp chế biến tôm, đầu tôm luôn được tách ra khỏi thân từ rất
sớm, sau khi tiếp nhận (trừ sản phẩm tôm nguyên con); còn vỏ tôm sẽ được tách ra ở các giai đoạn muộn hơn,
tùy thuộc vào đặc điểm của sản phẩm. Tuy nhiên, sau đó chúng lại được nhập chung và lưu giữ khá lâu (thường
từ 4-8h) ở nhiệt độ phòng trong khu vực chứa phế liệu trước khi được vận chuyển đến các cơ sở sản xuất chitin
hoặc thức ăn gia súc. Lúc này đầu và vỏ tôm thường đã có dấu hiệu hư hỏng rất rõ: chảy dịch, mùi hôi và biến
màu. Thói quen xử lý này đã làm giảm hiệu quả thu hồi các sản phẩm hữu ích đồng thời gây ô nhiễm môi
trường.
Công nghiệp sản xuất chitin, chitosan của nước ta hiện tại còn đơn giản và chưa được đầu tư đúng mức.
Các cơ sở sản xuất đa phần tập trung ở khu vực miền Tây Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long nhưng có qui
mô nhỏ, khoảng 2000 tấn sản phẩm/năm và chủ yếu sử dụng phương pháp hóa học; phương pháp sinh học kết
hợp với hóa học chỉ mới được một vài cơ sở triển khai thăm dò ở qui mô nhỏ. Các cơ sở sản xuất chitin hiện nay
đều sử dụng acid HCl trong công đoạn khử khoáng và NaOH để khử protein. Nồng độ HCl sử dụng thường nằm
trong khoảng 4-6% và xử lý ở nhiệt độ thường trong thời gian khoảng 1 ngày. Nồng độ của dung dịch NaOH
nằm trong khoảng 4-5%, ở nhiệt độ thường hoặc có gia nhiệt, thời gian trong khoảng 1 ngày. Quá trình khử
protein chỉ được gia nhiệt khi yêu cầu chất lượng của chitin cao còn hầu hết là xử lý ở nhiệt độ thường. Dịch thu
được sau khử protein được đưa lên tháp để cô đặc và sản phẩm protein thu hồi có dạng sệt, được tận dụng làm
thức ăn gia súc nhưng chất lượng rất kém.
Sản phẩm chính của các cơ sở sản xuất là chitin nhưng chất lượng vẫn còn thấp, hàm lượng khoáng và
protein cao, dễ bị biến màu; chất lượng không ổn định, giá thành cao; giá bán thấp do đó khả năng ứng dụng và
thương mại hóa hạn chế. Số lượng các cơ sở sản xuất chitin hiện đang ngày càng giảm vì bị cấm hoạt động do
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nguyên nhân gây ô nhiễm đến từ hai nguồn: dịch rỉ protein trong quá
trình vận chuyển nguyên liệu từ doanh nghiệp chế biến tôm về nơi sản xuất chitin và lượng chất thải từ qui trình
sản xuất chitin, chitosan. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi phải có các giải pháp khoa học để xử lý triệt để tình trạng ô
nhiễm này.
Tóm lại, hướng sử dụng nguyên liệu còn lại của quá trình chế biến tôm ở nước ta chỉ mới tập trung chủ
yếu đến việc thu hồi chitin mà chưa quan tâm nhiều đến việc thu hồi và duy trì giá trị sinh học cho protein cũng
như chưa tạo ra được các sản phẩm có tính ứng dụng và thương mại hóa cao. Thêm vào đó, các nghiên cứu chỉ
tập trung ở việc thiết lập qui trình công nghệ mà chưa có các nghiên cứu sâu về mặt động học và cũng chưa đánh
giá được mức độ ảnh hưởng và sự tương tác của các thông số xử lý trong qui trình công nghệ.
5
CHƯƠNG II: NGUYÊN VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên liệu chính
Nguyên liệu tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) nuôi, ở khu vực Khánh Hòa, được sử dụng ở 2
dạng: dạng nguyên con để xác định thành phần khối lượng (có cỡ trong khoảng từ 60-160 con/kg), thành phần
hóa học, thành phần acid amin, thành phần khoáng (cỡ trong khoảng từ 81-120 con/kg, cỡ phổ biến); và ở dạng
nguyên liệu còn lại sau quá trình chế biến tôm thẻ chân trắng xuất khẩu (cỡ trong khoảng từ 81-120 con/kg, có
phần đầu và phần vỏ tôm tách riêng) để nghiên cứu thu hồi chitin, chitosan và protein. Nguyên liệu được thu
mẫu khi còn tươi, có màu sắc và mùi đặc trưng tại công ty Cổ phần NhaTrang Seafoods (F17), Nha Trang,
Khánh Hòa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Dùng phương pháp thực nghiệm, kết hợp giữa qui hoạch cổ điển với qui hoạch thực nghiệm để bố trí thí
nghiệm và thu thập số liệu; Khai thác các phần mềm chuyên dụng để xử lý số liệu, phân tích hồi qui và xác định
các chế độ tối ưu.
Đặc điểm của đối tượng tôm thẻ chân trắng được khảo sát về thành phần khối lượng, thành phần hóa học
cơ bản và sự biến đổi của nguyên liệu khi lưu giữ trong điều kiện được mô phỏng theo thực tế tại các doanh
nghiệp chế biến tôm.
Qui trình thu nhận chitin và protein được nghiên cứu riêng cho phần đầu và phần vỏ tôm theo hướng
khai thác khả năng kết hợp phương pháp enzyme với phương pháp hóa học và vật lý. Quá trình khử khoáng
được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp hóa học với HCl theo hướng hạn chế ảnh hưởng của môi trường acid
đến mạch polysaccharide của chitin. Quá trình khử protein chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp sinh học:
đối với phần đầu tôm sẽ khai thác hệ enzyme protease có sẵn trên nguyên liệu; còn đối với phần vỏ sẽ sử dụng
enzyme pepsin bổ sung từ bên ngoài. Mục tiêu là xác lập được chế độ tự thủy phân và xử lý pepsin tối ưu, cho
phép thu nhận dịch thủy phân có hoạt tính chống oxy hóa và loại tối đa lượng protein trên phần rắn. Quá trình
deacetyl để chuyển chitin thành chitosan sẽ được thực hiện trong điều kiện dị thể với NaOH. Công đoạn tiền xử
lý chitin và khả năng kết hợp sóng siêu âm sẽ được tập trung nghiên cứu nhằm cải tiến quá trình deacetyl truyền
thống. Bên cạnh đó các thông số động học của quá trình thủy phân protein trên vỏ tôm dưới xúc tác của pepsin
và deacetyl khi có sóng siêu âm cũng được khảo sát.
Dựa vào các kết quả nghiên cứu 3 công đoạn chính đã thu được kết hợp với kế thừa kết quả nghiên cứu
của các tác giả đi trước, qui trình sản xuất chitin, chitosan áp dụng công nghệ kết hợp sẽ được đề xuất. Sản phẩm
chitin, chitosan thu nhận từ qui trình đề xuất sẽ được đặc trưng tính chất thông qua việc xác định các chỉ tiêu liên
quan đến độ tinh sạch, khối lượng phân tử, độ acetyl/deacetyl, đặc điểm cấu trúc (phổ nhiễu xạ tia X, phổ FT-IR
và phổ NMR) và một số tính chất lý-hóa quan trọng; Sản phẩm thủy phân protein sẽ được đánh giá khả năng
chống oxy hóa thông qua đánh giá khả năng kiểm soát gốc tự do DPPH và tổng năng lực khử.
Mức độ nâng cao chất lượng sẽ được đánh giá dựa vào tiêu chuẩn chất lượng chitin, chitosan thương mại
do các công ty có uy tín công bố, cụ thể là công ty AxioGen (Ấn Độ) và công ty Ensymm (Đức). Hiệu quả quá
trình được đánh giá chủ yếu ở khía cạnh môi trường, dựa vào khả năng tiết giảm lượng hóa chất sử dụng so với
qui trình hiện đang được áp dụng trong thực tiễn trên cùng đối tượng tôm thẻ chân trắng.
6
2.3. Các phương pháp phân tích đã áp dụng
Các phương pháp phân tích sử dụng trong nghiên cứu là các phương pháp thường qui kết hợp với các
phương pháp hiện đại: phương pháp phân tích sắc ký lỏng cao áp (HPLC); Phương pháp xác định phân tử lượng
trung bình độ nhớt của polymer thông qua đo độ nhớt nội và phương trình Mark-Houwink-Sakurada (MHS); Phổ
nhiễu xạ tia X; Phổ hấp phụ quang phổ hồng ngoại (FT-IR); Phổ proton cộng hưởng từ hạt nhân (H1NMR);
Phương pháp chụp ảnh trên kính hiển vi điện tử quét (SEM).
2.4.
Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phân tích ANOVA kết hợp với Turkey Test để so sánh giá trị trung bình của các mẫu; Sử dụng
phương pháp mặt đáp ứng để tìm các phương trình hồi qui và thông số tối ưu của quá trình xử lý vỏ tôm với
pepsin và deacetyl chitin; Sử dụng phần mềm Sigmaplot 12.5 để vẽ đồ thị và phân tích hồi qui (chức năng
Regression và Global Curve Fit); Phần mềm Origin Pro 8.0 để xử lý phổ nhiễu xạ tia X; Phần mềm Design
Expert 8.0.7 và phần mềm MINTAB 16.1 để thiết kế thí nghiệm, phân tích tối ưu và xử lý thống kê; Giá trị
p<0.05 được xem là có ý nghĩa về mặt thống kê.
2.5. Thiết bị, hóa chất phục vụ nghiên cứu
Sử dụng enzyme pepsin (EC 3.4.2.3.1) do công ty hóa chất Merck sản xuất với mã số sản phẩm là
107185 0100. Hóa chất khác dùng trong nghiên cứu đều thuộc loại tinh khiết, trong đó hóa chất dùng trong quá
trình thu nhận chitin, chitosan (NaOH và HCl) do công ty LoBa, Ấn Độ, sản xuất và hóa chất dùng trong phân
tích các chỉ tiêu do công ty Mecrk, Đức, sản xuất.
Sử dụng bể siêu âm của hãng Elma Co. (Đức), Model S15-S900H để tạo sóng siêu âm. Sóng siêu âm
dùng trong nghiên cứu có tần số 37kHz với mức năng lượng tổng (RMS) đạt 35W.
CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần của đối tượng tôm thẻ chân trắng
Kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ trung bình của phần đầu và phần vỏ (bao gồm cả đuôi) so với khối
lượng toàn thân của tôm thẻ chân trắng (cỡ 60-160 con/kg) nằm trong khoảng 27,5±3,93 và 11,21± 2,63 (%),
tương ứng, căn cứ vào số liệu này có thể ước tính lượng nguyên liệu còn lại sau quá trình chế biến tôm thẻ chân
trắng sẽ vào khoảng 38,70±6,46 (%) so với lượng nguyên liệu đưa vào chế biến.
Phần đầu và vỏ của đối tượng tôm thẻ chân trắng với cỡ từ 81-120 con/kg, cỡ phổ biến, có hàm lượng
khoáng tương đương nhau: 25,61% và 26,66%, tương ứng, nhưng hàm lượng protein và chitin lại có sự khác
nhau khá đáng kể, hàm lượng protein trên đầu tôm cao hơn khoảng 18% nhưng hàm lượng chitin lại thấp hơn
50% so với vỏ tôm. So với phần thịt, hàm lượng acid amin trên phần đầu và vỏ tôm bằng khoảng 50% và 30%,
tương ứng; Thành phần và tỷ lệ của các acid amin không có sự khác nhau nhiều và đều có mặt các acid amin
không thay thế; Các acid amin glycine/arginine, glutamic/glutamine, aspartic/asparagine, và alanine luôn chiếm
tỷ lệ lớn, tuy nhiên, các acid amin Tyr, Phe, Leu và Val ở phần đầu và vỏ lại có tỷ lệ cao hơn so với phần thịt.
Thành phần khoáng K và Cu trong đầu và vỏ tôm thẻ chân trắng có sự chênh lệch không lớn, trong khi thành
phần Na, Ca và Fe lại có sự khác biệt đáng kể. Các kim loại nặng phát hiện thấy chủ yếu nằm ở phần đầu tôm
(Cd, As và Pb) nhưng đều có hàm lượng dưới mức cho phép dùng trong thực phẩm, trên vỏ tôm chỉ phát hiện
thấy Pb với hàm lượng tương đương trên phần đầu. Hàm lượng Se và Hg ở cả 2 phần đều nằm dưới giới hạn
phát hiện.
7
Các phân tích trên cho thấy bên cạnh chitin, lượng protein trên vỏ và đầu tôm cần được ưu tiên thu hồi
với chế độ xử lý thích hợp để duy trì giá trị sinh học và cần có chế độ xử lý riêng đầu và vỏ tôm để nâng cao
hiệu quả thu hồi chitin và protein.
3.2. Thu hồi chitin và dịch thủy phân protein có hoạt tính sinh học từ đầu tôm thẻ chân trắng
3.2.1. Ảnh hưởng của thời gian lưu giữ đến sự biến đổi của đầu tôm
Chất lượng của phần đầu tôm còn lại sau quá trình chế biến tôm thẻ chân trắng xuất khẩu suy giảm
nhanh theo thời gian lưu giữ ở nhiệt độ phòng (27-30oC), hàm lượng bazơ nitơ bay hơi tăng liên tục theo thời
gian và gần đạt mức giới hạn không cho phép sử dụng làm thực phẩm sau 4h (28,7±0,5 mg/100g so với mức giới
hạn là 30mg/100g); Cùng với sự biến đổi xấu về chất lượng còn có sự hao hụt đáng kể về khối lượng tổng và
hao hụt protein (tương ứng 5,08±1,26% và 15,59±0,44% sau 4h). Việc xử lý sớm phần đầu tôm, không muộn
hơn 4h, sẽ giúp hạn chế mức độ tổn thất, biến đổi chất lượng và ô nhiễm môi trường.
50
Tû lÖ hao hôt so víi ban ®Çu (%)
F
Hao hut khèi lîng
Hao hôt Protein
Baz¬ nit¬
20
E
DE
40
E
D
15
30
10
cd
C
5
B
A
bc
b
20
d
bcd
10
a
a
a
0
Hµm lîng baz¬ nit¬ bay h¬i (mg/100g)
25
0
0
2
4
6
8
Thêi gian chê (h)
Hình 3.1: Ảnh hưởng của thời gian lưu giữ ở nhiệt độ phòng (27-30oC) đến sự hao hụt khối lượng, hao hụt
protein và hàm lượng bazơ nitơ bay hơi của phần đầu tôm thẻ chân trắng
3.2.2. Nghiên cứu chế độ thu hồi protein và chitin từ đầu tôm thẻ chân trắng
Kết quả thu được ứng với mẫu 0h ở Hình 3.2 và Hình 3.3 cho thấy chỉ cần sử dụng lực cơ học để đánh
đảo mạnh đầu tôm trong 2 phút và lọc qua rây có mắt lưới 1mm đã có thể phân riêng đầu tôm thành 2 phần: phần
dịch protein và phần vỏ giáp của đầu tôm (được gọi tắt là vỏ đầu). Phần dịch thu được có chứa trên 70% lượng
protein của toàn bộ đầu tôm và phần vỏ đầu chỉ chiếm 7,45± 1,89% so với tổng khối lượng đầu tôm và có hàm
lượng protein trên 20% (so với khối lượng chất khô).
4.3
80
cd
cde cd
a
a
a
e
e
cde
bcd
bc
e
4.2
4.1
ab
a
4.0
70
3.9
60
3.8
50
3.7
40
3.6
30
3.5
Hµm lîng protein cßn l¹i (%)
HiÖu suÊt thu håi Nit¬ (%)
90
Tû lÖ thu nhËn s¶n phÈm cã ho¹t tÝnh
chèng oxy hãa (%)
22
e
a
a
92
a
90
b
20
b
88
86
18
bc
bcd
84
cde
16
def
ef
ef
82
ef
14
f
g
12
78
g
10
1
2
3
4
Thêi gian (h)
HiÖu suÊt thu håi nit¬ ë tû lÖ Níc: NL 1:0
HiÖu suÊt thu håi nit¬ ë tû lÖ níc: NL 1:1
HiÖu suÊt thu håi nit¬ ë tû lÖ níc: NL 1:2
Tû lÖ thu nhËn s¶n phÈm ë tû lÖ níc:NL 0:1
Tû lÖ thu nhËn s¶n phÈm ë tû lÖ níc:NL 1:1
Tû lÖ thu nhËn s¶n phÈm ë tû lÖ níc: NL 2:1
Hình 3.2: Ảnh hưởng của thời gian và lượng nước bổ
sung đến hiệu suất thu hồi nitơ và sản phẩm có hoạt
tính chống oxy hóa khi thực hiện quá trình tự thủy
phân đầu tôm ở 60oC, pH tự nhiên
76
74
8
0
80
HiÖu qu¶ khö protein (%)
100
72
0
1
2
3
4
Thêi gian (h)
HL Protein ë tû lÖ NL:Níc1:0
HL Protein ë tû lÖ NL:Níc 1:1
HL Protein ë tû lÖ NL: Níc 1:2
HQK Protein ë tûlÖ NL:Níc 1:0
HQK Protein ë tû lÖ NL: Níc 1:1
HQK Protein ë tû lÖ NL:Níc 1:2
Hình 3.3: Ảnh hưởng của thời gian và lượng nước
bổ sung đến hàm lượng protein còn lại trên phần
vỏ đầu và hiệu quả khử protein khi thực hiện quá
trình tự thủy phân đầu tôm ở 60oC, pH tự nhiên.
Các chữ cái khác nhau thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê với p<0,05
8
Tuy nhiên, khi kết hợp với quá trình tự thủy phân, hiệu suất thu hồi protein của phần dịch và mức độ
tinh sạch của phần vỏ đầu sẽ được nâng cao một cách đáng kể so với chỉ thực hiện đánh đảo. Theo chiều tăng
của thời gian tự thủy phân, hiệu suất thu hồi nitơ, tỷ lệ thu nhận sản phẩm có hoạt tính chống oxy hóa, và khả
năng khử protein trên vỏ đầu đều tăng ở tất cả các tỷ lệ nước bổ sung. Tuy nhiên, ở chế độ thủy phân có tỷ lệ
nước bổ sung so với nguyên liệu là 1:1 hiệu quả thu hồi protein có xu hướng cao hơn so với ở tỷ lệ 0:1 và 2:1 (ở
cả hiệu suất thu hồi nitơ và tỷ lệ thu nhận sản phẩm có khả năng chống oxy hóa), đồng thời lượng protein còn lại
trên vỏ đầu cũng đạt giá trị thấp nhất. Sản phẩm thủy phân sau 2h với chế độ bổ sung nước: NL là 1:1 cũng có
khả năng khử gốc tự do DPPH cao nhất (Hình 3.5). Khi kéo dài thời gian thủy phân sau 2h, hiệu quả thu hồi
protein và khả năng khử protein của mẫu có tỷ lệ nước bổ sung 1:1 không còn tăng đáng kể và khả năng chống
Lîng DPPH bÞ khö (M/g nguyªn liÖu)
1.2
A
a
1.0
b b
cdefbcdef
0.8
bcd
bc
bcde
bcdef
bcde
bcd
bcdef
f
def
ef
0.6
0.4
0.2
0.0
Møc ®é hÊp phô quang häc ë bíc sãng 700nm
oxy hóa có xu hướng giảm.
0.18
B
a ab
0.16
0.14
abc
1
2
Thêi gian (h)
3
abcd
cde
0.12
abc
abcde
abcde
bcde
cde
0.10
cde
de
e
0.08
0.06
0.04
0
0
abc
a
1
2
3
4
4
Thêi gian (h)
Tû lÖ NL:Níc 1:0
Tû lÖ NL:Níc 1:1
Tû lÖ NL:Níc 1:2
Hình 3.5: Ảnh hưởng của thời gian và tỷ lệ nước bổ sung đến khả năng khử gốc tự do DPPH (A) và tổng
năng lực khử (B) của dịch thủy phân. Các chữ cái khác nhau thể hiện sự khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê với p<0,05.
Phần vỏ đầu thu được sau khi thực hiện quá trình tự thủy phân ở chế độ tối ưu (nhiệt độ 60oC, tỷ lệ
NL:nước 1:1, trong 2h, ở pH tự nhiên) và được tách bằng lực cơ học có hàm lượng protein 13,78± 0,75%,
khoáng 34,23±0,2% % (khối lượng chất khô) sẽ được tiếp tục xử lý để thu chitin. Dựa vào kết quả nghiên cứu
của các tác giả đi trước, chế độ xử lý tiếp theo cho phần vỏ đầu được đề xuất là: xử lý HCl 0,25M trong 12h ở
nhiệt độ phòng và xử lý với NaOH 1% trong 8h ở 70oC. Chitin thu được sau xử lý với chế độ đề xuất có có hàm
lượng protein và khoáng đều thấp hơn 1% (0,59 ± 0,17% và 0,45±0,12%, tương ứng).
Tóm lại, thực hiện chế độ tự thủy phân ở điều kiện thích hợp (tỷ lệ NL:nước là 1:1, thời gian thủy phân
2h ở nhiệt độ 60oC và pH tự nhiên) đồng thời kết hợp với sử dụng lực cơ học để đánh đảo và lọc cho phép thu
hồi dịch thủy phân protein có hoạt tính chống oxy hóa cùng với chitin từ đầu tôm thẻ chân trắng tươi một cách
hiệu quả: hiệu suất thu hồi nitơ đạt khoảng 86,19±1,67%, tỷ lệ thu nhận sản phẩm có hoạt tính chống oxy hóa
khoảng 4,09±0,12%, đồng thời giảm được trên 90% lượng nguyên liệu cần xử lý hóa chất khi thu hồi chitin. Tuy
nhiên cần có thêm các nghiên cứu toàn diện hơn về hoạt tính sinh học của dịch thủy phân protein thu được cũng
như tìm kiếm các giải pháp tinh chế để thương mại hóa sản phẩm thủy phân protein.
3.3. Thu hồi chitin và dịch thủy phân protein có hoạt tính sinh học từ vỏ tôm thẻ chân trắng
3.3.1. Thiết lập chế độ xử lý với HCl
Kết quả theo dõi sự biến đổi hàm lượng khoáng và lượng khoáng còn lại trên vỏ tôm theo thời gian xử lý
với HCl ở Hình 3.6 cho thấy quá trình khử khoáng chủ yếu diễn ra trong 2h đầu, với khoảng 96% lượng khoáng
được loại bỏ, khoảng thời gian sau 2h chỉ khử thêm một lượng khoáng không đáng kể, tốc độ khử khoáng dần
đạt đến giá trị giới hạn sau 10h, đồng thời, đã có khoảng 30% lượng protein bị loại bỏ cùng với khoáng; hàm
lượng protein và khoáng còn lại lần lượt là 32,26% và 2,61% (so với khối lượng chất khô). Khi 96% khoáng có
9
trong vỏ tôm đã bị khử pH của hệ cũng đạt đến sự ổn định (dao động quanh giá trị pH=1,77±0,06). Do đó, chế
độ khử khoáng được lựa chọn như sau: xử lý với dd HCl 0,25M ở nhiệt độ phòng trong 2h với tỷ lệ dd HCl:vỏ
tôm là 4:1(v/w).
30
90
HiÖu qu¶ khö kho¸ng (%)
Hµm lîng kho¸ng cßn l¹i (%)
100
25
20
80
Hµm lîng kho¸ng cßn l¹i
HiÖu qu¶ khö kho¸ng
15
10
70
60
5
50
0
40
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
Thêi gian (h)
Hình 3.6: Sự thay đổi hàm lượng khoáng và hiệu quả khử khoáng khi xử lý vỏ tôm với HCl 0,25M theo
thời gian ở nhiệt độ phòng (27-30oC)
3.3.2. Đánh giá khả năng sử dụng pepsin
Kết quả ở Hình 3.7 cho thấy hoạt động xúc tác của pepsin làm tăng đáng kể hiệu quả khử protein và khử
khoáng, mức độ gia tăng phụ thuộc lượng enzyme sử dụng. Ở tỷ lệ 5U/g protein, có thêm khoảng 40% protein và
20% khoáng được khử so với mẫu đối chứng và khi tỷ lệ là 25U/g protein thì khả năng khử protein và khử
khoáng đạt mức ổn định, tương ứng với hiệu quả khử 85,93±0,25% và 90,34±0,9%. Nếu tính cả hiệu quả khử có
được do xử lý với HCl, tổng hiệu quả khử protein và khử khoáng lên đến 91,16±0,65%; và 99,79± 0,02%, tương
ứng. Mặc dù mức độ khử khoáng tổng tăng không nhiều giữa mẫu đối chứng và mẫu có sử dụng pepsin nhưng
sự gia tăng đó lại có ý nghĩa quan trọng ở chỗ góp phần khử triệt để lượng khoáng trong vỏ tôm, đưa hàm lượng
khoáng còn lại xuống dưới mức 1%, đáp ứng yêu cầu của chitin chất lượng cao.
120
HiÖu qu¶ khö (%)
100
80
60
HQK protein tõ qu¸ tr×nh xö lý víi Pepsin
HQK kho¸ng tõ qu¸ tr×nh xö lý víi Pepsin
HQK protein tæng
HQK kho¸ng tæng
40
20
0
0
5
10
15
20
25
30
35
Nång ®é Pepsin bæ sung (U/g protein)
Hình 3.7: Ảnh hưởng của nồng độ pepsin đến hiệu quả khử protein và khử khoáng
A
B
Hình 3.8: Ảnh chụp SEM (20kV) vỏ tôm trước (A) và sau khi xử lý với dung dịch HCl 0,25M trong 2h (B)
10
Ảnh chụp cấu trúc vỏ tôm sau khi xử lý với HCl bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM) ở Hình 3.8 cho
thấy sau khi xử lý với acid HCl vỏ tôm có cấu trúc xốp hơn với sự xuất hiện nhiều khoảng trống; Điều này đã
giúp cho các phân tử pepsin có điều kiện xâm nhập, tiếp xúc sâu hơn vào cấu trúc của vỏ tôm.
3.3.3.
Tối ưu quá trình xử lý với pepsin
Tiến hành xử lý số liệu thực nghiệm ở Bảng 3.8 bằng phương pháp mặt đáp ứng trên phần mềm DX
8.0.7 thu được mô hình hồi qui bậc 2 biểu diễn mối quan hệ giữa hiệu quả khử protein và các biến độc lập nhiệt
độ (30-40oC), tỷ lệ enzyme (5-25U/gprotein) và thời gian (6-18h) ở Phương trình (3-2).
= 73,37 + 16,3X1 + 7,73X2 + 8,62X3 + 4,47X1X2 + 2,97X1X3 –7,17X12 – 6,26X22 – 8,90X32 (Phương trình 3-2)
Trong đó:
là hiệu quả khử protein dự đoán; X1, X2, X3 lần lượt là giá trị mã hóa của biến nhiệt độ, tỷ lệ enzyme
và thời gian.
Trong Phương trình (3-2), hàm mục tiêu tỷ lệ nghịch với biến bình phương của nhiệt độ, bình phương
của tỷ lệ enzyme và bình phương của thời gian do đó có đồ thị biểu diễn là dạng mặt parabol lồi và sẽ tồn tại giá
trị cực đại của hàm mục tiêu. Các kết quả phân tích thống kê thu được chứng tỏ giữa hàm hồi qui thu được và
các biến độc lập có mức độ phù hợp và tương quan cao: hệ số tương quan (R-square) và hệ số tương quan hiệu
chỉnh (R square-adjusted) đều trên 0,99; giá trị p của kiểm định mức độ không phù hợp lớn hơn 0,47. Với hệ số
tương quan dự đoán, Pred-RSquared, bằng 0,958 Phương trình (3-2) có thể dự đoán chính xác 95,8% kết quả so với
thực nghiệm. Kết quả ở Bảng 3.9 cũng cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa kết quả tính toán từ Phương
trình (3-2) với kết quả thu được từ thực nghiệm. Điều này một lần nữa khẳng định độ tin cậy của phương trình
hồi qui đã thu được và hoàn toàn có thể sử dụng Phương trình (3-2) để kiểm soát, điều khiển và dự đoán hiệu
quả khử protein đạt được khi áp dụng quá trình xử lý vỏ tôm bằng pepsin vào thực tiễn.
Bảng 3.8: Kết quả thực nghiệm theo mô hình Box-Behnken
No
1
2
3
4
5
6
7
8
X1,
o
C
-1
1
-1
1
-1
1
-1
1
X2, U/g.protein
X3, h
Y, (%)*
No
X1, oC
X2, U/g.protein
X3, h
Y, (%)*
-1
-1
1
1
0
0
0
0
0
0
0
0
-1
-1
1
1
41,89
65,30
45,64
86,95
34,99
61,91
46,77
85,55
9
10
11
12
13
14
15
0
0
0
0
0
0
0
-1
1
-1
1
0
0
0
-1
-1
1
1
0
0
0
41,08
58,57
57,11
76,09
73,15
73,17
73,76
*
Số liệu trình bày là trung bình cộng của 3 lần lặp
Bảng 3.9: Hiệu quả khử protein của pepsin theo phương trình hồi qui và theo thực nghiệm
Điều kiện
Hiệu quả khử protein (%)
X1=40 C ; X2= 10U/g.pro; X3=15h
X1=40oC ; X2= 12,5U/g.pro; X3=14h
X1=40oC ; X2= 15U/g.pro; X3=15h
X1=40oC ; X2= 15U/g.pro; X3=16h
X1=40oC ; X2= 20U/g.pro; X3=16h
Từ thực nghiệm* Từ phương trình
82,41 ± 0,97
81,25
86,58 ± 0,51
85,39
89,87 ± 0,19
89,52
90,22 ± 0,14
89,74
93,29 ± 0,16
92,48
STT
1
2
3
4
5
o
*
Số liệu trình bày là trung bình cộng của 3 lần lặp
Chế độ xử lý pepsin tối ưu cho đối tượng vỏ tôm thẻ chân trắng (đã qua khử khoáng với dd HCl 0,25 M)
như sau: nhiệt độ 40oC, thời gian 16h, nồng độ enzyme bổ sung 20U/g protein, ở pH=2; với chế độ này khoảng
92% lượng protein đã bị loại, hàm lượng protein và khoáng còn lại tương ứng là 8,2±1,6% và 0,56±0,04%.
11
3.3.4. Khả năng kết hợp sóng siêu âm và pepsin trong quá trình thu nhận chitin
Kết quả ở Hình 3.12 cho thấy thời gian chiếu sóng siêu âm (37kHz, RMS=35W) có ảnh hưởng rất lớn
đến khả năng hoạt động của pepsin, cụ thể trong vòng 25 phút đầu, sóng siêu âm có xu hướng làm tăng khả năng
hoạt động của pepsin, mức độ gia tăng hoạt độ cao nhất đạt được khoảng 8% sau khoảng 20-25 phút chiếu sóng
nhưng khi kéo dài thời gian chiếu sóng thì hoạt độ của pepsin lại có xu hướng giảm (p<0,05), sau 40 phút chiếu
sóng liên tục thì hoạt độ của pepsin không còn có sự khác biệt so với mẫu đối chứng (p>0,05) và nếu kéo dài
trên 40 phút, khả năng hoạt động của pepsin sẽ thấp hơn so mẫu không chiếu siêu âm (p<0,05).
46
35
Cã sãng siªu ©m
Kh«ng cã sãng siªu ©m
11
a
Hµm lîng protein cßn l¹i (%)
Ho¹t ®é enzyme (U/mg)
44
42
40
38
30
10
b
bc
9
cde bcd
25
def
def
20
fg
fg
8
g
7
6
15
8
10
12
14
16
10
5
36
0
0
20
40
60
80
2
100
4
6
8
10
12
14
16
Thêi gian (h)
Thêi gian (phót)
Hình 3.12: Ảnh hưởng của thời gian chiếu sóng
siêu âm (37kHz, 35W) đến hoạt độ của pepsin
Kh«ng tiÒn xö lý Pepsin
TiÒn xö lý Pepsin víi sãng siªu ©m
Hình 3.17: Ảnh hưởng của công đoạn tiền xử lý pepsin
với sóng siêu âm đến khả năng loại protein trên vỏ tôm
(20U/g protein, 40oC, pH=2).
Các chữ cái khác nhau biểu hiện sự khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê với p<0,05.
Đồ thị ở Hình 3.17 cho thấy sau 14h xử lý ở điều kiện nhiệt độ và nồng độ enzyme tối ưu, hiệu quả khử
protein với pepsin đã được tiền xử lý 25 phút với sóng siêu âm tần số 37kHz (RMS 35W) tương đương với hiệu
quả đạt được sau 16h xử lý với pepsin không được tiền xử lý và việc kéo dài thời gian xử lý lên16h không làm
giảm hàm lượng protein còn lại một cách đáng kể (Hình 3.17, ảnh nhỏ). Như vậy, tiền xử lý pepsin trong 25 phút
trước khi thực hiện quá trình xử lý vỏ tôm sẽ giúp rút ngắn thời gian khử protein 2h.
3.3.5. Hoàn thiện qui trình thu nhận chitin và protein từ vỏ tôm thẻ chân trắng theo công nghệ đề xuất
Sau khi thực hiện chế độ khử protein lần 2 với dd NaOH 1%, trong 8h ở 70oC, tỷ lệ dd NaOH:NL=2:1
chitin thu được từ qui trình có sử dụng pepsin có độ tinh sạch cao (hàm lượng tro và protein đều dưới <1%,
tương ứng là 0,56±0,04% và 0,79±0,02%); cấu trúc mạch polysacchride hầu như ít bị ảnh hưởng (DA=
97,01±0,85% và phân tử lượng trung bình theo độ nhớt Mv= 1652Da); Sản phẩm thu được rất phù hợp để sản
xuất các dẫn xuất có giá trị sinh học và thương mại cao từ chitin như N-acetyl glucosamine. Dịch thủy phân
protein thu được từ quá trình xử với pepsin cũng có thể thu hồi để sản xuất các chế phẩm có hoạt tính chống oxy
hóa, hiệu suất thu hồi đạt khoảng 3,52±1,54% (Bảng 3.10).
Bảng 3.10: Kết quả đánh giá khả năng thu hồi protein từ dịch thủy phân với pepsin
Khả năng thu
hồi nitơa (%)
Tỷ lệ thu hồi chế
phẩm có hoạt tính
chống oxy hóab (%)
64,2±2,7
3,52±1,54
a
Chỉ tiêu
Khả năng chống oxy hóa
dd chế phẩm có nồng độ 1mg/ml
DPPH
(mM)
0,13±0,01
TNLK
(OD700nm )
0,1640±0,015
So với dd BHA (1mg/ml) (%)
DPPH
TNLK
46,79±4,19
46,02±1,67
So với lượng nitơ trong nguyên liệu ban đầu; b So với khối lượng nguyên liệu ban đầu.
3.4. Động học quá trình khử protein của pepsin
12
Đại lượng ln(P/Po) (với P là lượng protein còn lại theo thời gian và Po là lượng protein ở thời điểm ban
đầu) có mối quan hệ tuyến tính với thời gian với hệ số tương quan R luôn đạt 0,99 (Hình 3.22). Kết quả này cho
phép khẳng định quá trình loại protein dưới tác dụng của pepsin tuân theo phản ứng giả bậc nhất (Pseudo-first
order) và có thể đặc trưng bằng phương trình vi phân có dạng: dP/dt = -kP, trong đó P biểu diễn lượng protein
còn lại theo thời gian và k là hằng số vận tốc của phản ứng.
0.0
k1
Ln (P/Po)
-0.5
-1.0
k2
-1.5
-2.0
k3
-2.5
-3.0
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
22
24
Thêi gian (h)
Hình 3.22: Sự thay đổi giá trị logarith của tỷ số (P/Po) theo thời gian xử lý với pepsin ở điều kiện nhiệt độ
40oC, pH2, nồng độ enzym 0.42g/L, với P là lượng protein còn lại theo thời gian (g), Po là lượng protein ở
thời điểm ban đầu (g)
Số liệu ở Bảng 3.11 cho thấy có sự thay đổi đột ngột của hằng số vận tốc ở các giai đoạn khử protein,
giá trị của hệ số vận tốc khử protein ở các giai đoạn 1 (0-2h), giai đoạn 2 (2-8h) và giai đoạn 3 (8-24h) lần lượt là
k1= 7,2.10-2, k2=3,05.10-2, k3=6,510-3(phút-1). So với giai đoạn 1, hệ số vận tốc ở giai đoạn 2 đã giảm một nửa và
ở giai đoạn 3 chỉ còn khoảng 1/10. Sự thay đổi đột ngột về hằng số vận tốc của phản ứng chứng tỏ có sự khác
nhau về mức độ liên kết giữa protein và chitin giữa các lớp trong cấu trúc vỏ tôm. Động học quá trình loại
protein bằng NaOH cũng có xu hướng tương tự, tuy nhiên, có sự khác nhau về thời điểm xảy ra sự thay đổi và
độ lớn của giá trị hằng số vận tốc. Trong trường hợp khử protein với NaOH, kết quả nghiên cứu của Percot
(2003) cho thấy hệ số vận tốc khử thay đổi tại mốc thời gian 30 phút và 8h đồng thời hệ số vận tốc ở giai đoạn 1
(0-30 phút) cao hơn đáng kể so với trường hợp của pepsin nhưng lại bằng/hoặc giảm 1/2 ở giai đoạn 2 (30 phút 8h), tùy thuộc nhiệt độ, và thấp hơn rất đáng kể ở giai đoạn 3 (Bảng 3.11).
Bảng 3.11: Hằng số vận tốc quá trình loại protein khi xử lý với pepsin và NaOH
Hằng số tốc độ
k1 (10-2phút -1)
k2 (10-3phút -1)
k3 (10-4phút -1)
*
Xử lý với Pepsin*
([E] =0,42 g/L, E/S = 1,68/1000 g/g)
40oC
0,72 ± 0,09
3,05 ± 0,57
6,50± 0,01
Xử lý với NaOH**
(1M, 15mL/g)
50oC
70oC
2,10 ± 0,04
2,68 ± 0,05
3,12 ± 0,16
1,52 ± 0,08
0,48 ± 0,10
1,53 ± 0,27
Số liệu trình bày là kết quả của 3 lần lặp; ** Kết quả theo công bố của tác giả (Percot, 2003)
Quá trình khử protein dưới tác dụng xúc tác của pepsin diễn ra chủ yếu trong 2h đầu; Kết quả phân tích
động học kết hợp với phân tích hồi qui cho thấy hiệu quả khử (DP) và vận tốc khử (r) ở giai đoạn này tuân theo
Phương trình (3-9) và Phương trình (3-10), tương ứng và giá trị của hằng số vận tốc k2 = 40,983 (min-1) và kd
(=k3*Km) = 1,535 (min-1).
(Phương trình 3-9)
(Phương trình 3-10)
3.5. Nâng cao hiệu quả deacetyl trong điều kiện dị thể
3.5.1. Tác dụng hỗ trợ của công đoạn tiền xử lý
13
Đồ thị ở Hình 3.27 cho thấy quá trình tiền xử lý đã có tác dụng tăng cường khả năng deacetyl rất đáng
kể. Độ deacetyl của các mẫu được tiền xử lý với nước nóng và sóng siêu âm cao hơn gần 20% so với mẫu không
được tiền xử lý khi cùng được deacetyl theo cách truyền thống với NaOH 60% (w/w) trong 3h. Tuy nhiên không
có sự khác biệt có ý nghĩa về độ deacetyl đạt được giữa 02 cách thức tiền xử lý đã thực hiện (p>0,05).
100
90
ChiÕu siªu ©m
Ng©m níc nãng
Kh«ng xö lý
a
DD (%)
a
80
b
70
60
50
MÉu
Hình 3.27: Ảnh hưởng của cách thức tiền xử lý đến khả năng deacetyl.
Các chữ cái khác nhau biểu hiện sự khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê với p<0,05.
Kết quả chụp SEM ở Hình 3.28 cho thấy bề mặt mẫu chitin được tiền xử lý với sóng siêu âm có nhiều
nếp nhăn hơn so với bề mặt của mẫu chỉ ngâm nước nóng và kết quả xử lý số liệu đo phổ nhiễu xạ tia X trên
phần mềm Origin Pro 8.0 trình bày ở Bảng 3.13 cho thấy so với mẫu chitin không được tiền xử lý, độ rắn tổng
(χcr) của chitin sau khi tiền xử lý với sóng siêu âm và nước nóng ở nghiên cứu này giảm tương ứng 1,38 và
2,54%. Như vậy, thực hiện tiền xử lý chitin thu nhận từ vỏ tôm thẻ chân trắng giúp giảm tỷ lệ vùng kết tinh và
tăng hiệu quả deacetyl, chế độ tiền xử lý được đề xuất là ngâm nước nóng 60oC trong 60 phút.
A
B
Hình 3.28: Ảnh chụp SEM (10kV) mẫu chitin đã được xử lý trong 60 phút ở 60oC với nước nóng (A) và
chiếu siêu âm (B).
Bảng 3.13: Độ rắn của chitin sau khi được tiền xử lý và mẫu đối chứng
Mẫu chitin
Không xử lý
Xử lý với nước nóng
Xử lý với sóng siêu âm
CrI020 (%)
90,09
88,68
90,13
CrI110 (%)
95,85
95,05
95,97
χcr (%)
74,12
71,58
72,74
3.5.2. Đánh giá khả năng hỗ trợ quá trình deacetyl của sóng siêu âm
Đồ thị ở Hình 3.30 cho thấy sóng siêu âm có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến độ deactyl và độ hòa tan
trong dải nồng độ khảo sát (35-65%, w/w). Tác động của sóng siêu âm đến độ deacetyl thể hiện rõ rệt khi nồng
độ NaOH ≤45%. Khi nồng độ NaOH sử dụng ≤45%, DD của mẫu được deacetyl trong điều kiện có sóng siêu âm
cao hơn rất đáng kể (p<0,05) so với mẫu đối chứng, không có sóng siêu âm, và giá trị DD đạt được tỷ lệ thuận
với sự gia tăng nồng độ nhưng khi nồng độ NaOH ≥50% sự ảnh hưởng của sóng siêu âm và nồng độ thể hiện
không rõ rệt, độ deacetyl ở các mẫu chênh lệch không đáng kể (p>0,05). Trong cùng điều kiện về nồng độ và
thời gian, độ hòa tan của mẫu được deacetyl trong điều kiện có sóng luôn cao hơn đáng kể so với mẫu đối chứng.
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng giảm theo chiều tăng của nồng độ và khi nồng độ NaOH=65% thì không có sự
14
khác biệt đáng kể (p>0,05). So với độ deacetyl, sóng siêu âm có ảnh hưởng lớn hơn đến độ hòa tan, mức độ ảnh
hưởng được duy trì ngay cả khi nồng độ NaOH = 60%.
90
d
e
fg
efg ef
g
efg
100
efg
hf
hi g
ij
h
50
55
60
j
ij
B
c
70
§é Deacetyl (%)
efg
A
80
§é hßa tan (%)
80
60
50
a
a
e c
c
60
40
40
b
a b
30
20
20
35
40
45
50
55
60
65
35
40
Nång ®é NaOH (%, w/w)
45
65
Nång ®é NaOH (%, w/w)
Cã sö dông sãng siªu ©m
Kh«ng cã sãng siªu ©m
Hình 3.30: Ảnh hưởng của nồng độ NaOH và phương thức deacetyl đến độ deacetyl và độ hòa tan của
mẫu sau 6h xử lý ở 80oC.
Các chữ cái khác nhau biểu hiện sự khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê với p<0,05
Tính chất của chitosan thu được trong điều kiện deacetyl có và không có sự hỗ trợ của sóng siêu âm
(80 C, 4h, NaOH=60%, w/w) được đặc trưng bằng phổ nhiễu xạ tia X và phổ FT-IR. Kết quả phân tích phổ
o
nhiễu xạ tia X ở Hình 3.31 cho thấy có sự dịch chuyển nhẹ góc phản xạ tại vị trí 020, từ 2θ=9,54o sang
2θ=10,08o kèm theo sự giảm nhẹ về mức độ kết tinh ở chitosan được deacetyl sau 4h trong điều kiện có siêu âm
Lin (counts)
so với chitosan được deacetyl theo cách truyền thống (độ rắn tổng 71,38% so với 72,81%, tương ứng).
A
160
140
120
100
80
60
40
20
0
-20
10.08273
20.1758
38.59359
Lin (counts)
0
10
160
140
120
100
80
60
40
20
0
-20
20
30
40
50
2THETA
9.54498
B
20.21717
0
10
20
30
40
50
2THETA
55
50
3800
3500
3200
2900
2600
2300
2000
1800
1600
Wavenumber cm-1
1400
1200
1000 900
800
669.51
630.70
612.42
583.04
543.54
531.02
798.13
773.65
896.01
1030.95
1082.15
1154.35
1262.14
1321.87
1421.75
1380.14
1657.23
2922.26
3448.70
40
45
Transmittance [%]
60
65
Hình 3.31: Phổ nhiễu xạ tia X của chitosan được deacetyl trong điều kiện có (A) và không có sự hỗ trợ của
sóng siêu âm (B) với [NaOH]=60% ở 80oC, 4h.
700
600
500
Hình 3.32: Phổ FT-IR của chitosan được deacetyl với [NaOH]=60% (w/w) ở 80oC trong 4h trong điều kiện
có (đường màu đỏ) và không có sự kết hợp với sóng siêu âm (đường màu đen).
15
Phổ FT-IR của chitosan được deacetyl trong điều kiện có và không có sóng siêu âm ở Hình 3.32 có các
peak đặc trưng cho chitosan theo mô tả của Rinaudo (2006) và khá tương đồng nhau. Điều này chứng tỏ sóng
siêu âm có tần số 37kHz (35W) không có tác động đáng kể nào đến các liên kết hóa học trong phân tử chitosan.
Tuy nhiên phổ FT-IR của chitosan thu được trong điều kiện có sóng siêu âm có cường độ hấp phụ tại vị trí 1560
và 1312 cm-1 (tương ứng với amide II và amide III) giảm và peak ở vị trí 1415cm-1 sắc nhọn hơn, điều này khẳng
định sự có mặt của sóng siêu âm đã giúp đạt được độ deacetyl cao hơn.
3.5.3.
Động học quá trình deacetyl khi có sự hỗ trợ của sóng siêu âm
Sự thay đổi giá trị DD khi deacetyl trong điều kiện có và không kết hợp với sóng siêu âm (37kHz, RMS
35W) theo thời gian với dải nồng độ NaOH từ 35-60% (w/w) có cùng xu hướng: tăng theo thời gian xử lý và tiến
dần đến một giới hạn ổn định; Thời điểm đạt được độ deactyl cao nhất tỷ lệ nghịch với nồng độ NaOH sử dụng:
nồng độ càng tăng, thời điểm đạt giá trị DD ổn định càng đến sớm, ngoại trừ trường hợp deacetyl ở nồng độ
35%. Tuy nhiên, ở cùng điều kiện về nồng độ NaOH và thời gian, các mẫu được deacetyl khi có sóng siêu âm
luôn đạt đến giá trị ổn định sớm hơn và có giá trị cao hơn (Hình 3.33).
80
50
100
40
80
20
DD (%)
DD (%)
DD (%)
60
30
40
60
40
20
10
0
0
0
60
120
180
240
300
C
0
0
360
60
120
180
240
300
360
0
60
Thêi gian (phót)
Thêi gian (phót)
100
100
80
80
DD (%)
DD (%)
20
B
A
60
40
120
180
240
300
360
Thêi gian (phót)
60
Kh«ng cã sãng siªu ©m
Cã sãng siªu ©m
40
20
20
D
E
0
0
0
60
120
180
240
300
0
360
60
120
180
240
300
360
Thêi gian (phót)
Thêi gian (phót)
Hình 3.33: Sự thay đổi của độ deacetyl theo thời gian deacetyl trong điều kiện có và không có siêu âm với
các nồng độ NaOH (w/w) khác nhau
(A) 35%, (B) 40%, (C) 45%, (D) 50% và (E) 60%. Giá trị biểu diễn là trung bình cộng của 3 lần lặp.
Bảng 3.16: Vận tốc deacetyl (%/phút) (x102)a
Chế độ deacetyl
Nồng độ NaOH (%) (w/w)
Giai
đoạnb
Không có sóng siêu âm
35
a
Xử lý với sóng siêu âm
40
45
50
60
35
40
45
50
60
1
18,58
44,53
173,58
271,19
311,32
78,58
196,35
252,32
355,94
416,37
2
54,41
63,81
51,87
49,23
59,66
55,58
50,62
42,19
37,62
37,51
3
2,25
11,30
10,76
4,96
3,14
1,61
8,43
8,70
2,56
1,41
4
0,24
8,08
3,90
3,24
1,87
0,16
3,77
6,55
3,53
1,88
Giá trị biểu diễn là giá trị trung bình của 3 lần lặp; bGiai đoạn: 1 (0-15 phút); 2 (15-60 phút); 3 (60-240 phút); 4 (240 -360 phút)
Giá trị vận tốc deacetyl ở Bảng 3.16 cho thấy tốc độ phản ứng giảm dần theo thời gian và chủ yếu diễn
ra trong 1 giờ đầu, đặc biệt là ở 15 phút đầu tiên. Ở giai đoạn 1 (0-15 phút), vận tốc phản ứng deacetyl luôn tăng
khi tăng nồng độ NaOH và khi được hỗ trợ bởi sóng siêu âm nhưng trái lại ở các giai đoạn sau (2, 3 và 4), vận
16
tốc deacetyl lại có xu hướng giảm khi có mặt sóng siêu âm và/hoặc khi nồng độ NaOH sử dụng cao hơn, ngoại
trừ trường hợp [NaOH]=35%. Số liệu cũng cho thấy quá trình deacetyl diễn ra rất chậm sau 4 giờ và đặc biệt ở
nồng độ NaOH ≤35% thì hầu như không diễn ra, kể cả khi có mặt sóng siêu âm.
Phản ứng deacetyl trong điều kiện có và không có sóng siêu âm đều tuân theo phương trình giả bậc nhất,
có dạng dX/dt = k* X, với X là độ deacetyl ở thời điểm t và k là hệ số vận tốc deacetyl; tuy nhiên giá trị của hệ
số vận tốc k thay đổi theo nồng độ NaOH, sự tham gia của sóng siêu âm và thời gian với xu hướng tương tự như
đã quan sát được ở vận tốc deacetyl nêu trên (Bảng 3.17)
Bảng 3.17: Hệ số vận tốc deacetyl (phút-1) (x103)a
Chế độ deacetyl
Nồng độ NaOH (%) (w/w)
Giai
đoạnb
Không có sóng siêu âm
35
a
Xử lý với sóng siêu âm
40
45
50
60
35
40
45
50
60
1
43,81
78,11
151,36
178,58
187,19
106,36
158,77
174,11
195,62
205,55
2
36,78
30,63
13,11
9,12
9,60
22,01
11,82
8,48
5,83
5,10
3
0,70
2,36
1,75
0,71
0,40
0,39
1,35
1,29
0,34
0,17
4
0,07
1,27
0,53
0,42
0,22
0,04
0,52
0,82
0,44
0,22
Giá trị biểu diễn là giá trị trung bình của 3 lần lặp; bGiai đoạn: 1 (0-15 phút); 2 (15-60 phút); 3 (60-240 phút); 4 (240 -360 phút)
Như vậy, sóng siêu âm (37kHz, 35W) giúp cho quá trình deacetyl được đẩy nhanh và diễn ra đồng đều
hơn, cải thiện đáng kể độ hòa tan nhưng không làm thay đổi bản chất của quá trình deacetyl và không có ảnh
hưởng đáng kể nào đến các liên kết hóa học trong phân tử chitosan so với khi deacetyl theo cách truyền thống.
3.5.4. Ảnh hưởng của nồng độ, nhiệt độ và thời gian đến độ deacetyl và độ hòa tan trong điều kiện
deacetyl dị thể với sóng siêu âm
Kết quả khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ (70-80oC), thời gian (2-6h), nồng độ (40-60%) theo mô hình
yếu tố hai mức ở Bảng 3.19 và Bảng 3.20 cho thấy tất cả các biến đơn và biến tương tác giữa nồng độ với nhiệt
độ và thời gian đều có ảnh hưởng đến độ deacetyl và độ hòa tan trong miền nghiên cứu; Trong đó biến nồng độ
là biến có ảnh hưởng đáng kể nhất, với mức độ 26,73% đối với độ deacetyl và 52,65% đối với độ hòa tan. Yếu tố
có tầm ảnh hưởng quan trọng sau nồng độ đến độ hòa tan là nhiệt độ nhưng trái lại là thời gian lại có ảnh hưởng
lớn hơn nhiệt độ đối với độ deacetyl. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến độ hòa tan và độ deacetyl tương ứng là
11,10% và 3,73%; trong khi đó ảnh hưởng của thời gian là 5,85% và 10,13%, tương ứng.
Bảng 3.19: Kết quả phân tích thống kê ảnh hưởng
Bảng 3.20: Kết quả phân tích thống kê ảnh hưởng
của các nhân tố đến độ deacetyl (
(p=0,05)
của các nhân tố đến độ hòa tan (
(p=0,05)
Biến
X0
X1
X2
X3
X1X3
X2X3
Mức độ ảnh hưởng (%)
3,751
10,138
26,731
-1,967
-9,017
Hệ số hồi qui
70,080
1,875
5,069
13,365
-0,984
-4,509
Prob>F
0,001
0,001
0,001
0,001
0,004
0,001
Biến
X0
X1
X2
X3
X1X3
X2X3
Mức độ ảnh hưởng (%)
11,100
5,850
52,650
-6,300
-3,650
Hệ số hồi qui
68,225
5,550
2,925
26,325
-3,150
-1,825
Prob>F
0,001
0,001
0,007
0,001
0,005
0,031
X1: Nhiệt độ (oC); X2:Thời gian (h); X3:Nồng độ (%);
Mối quan hệ toán học biểu diễn sự tương quan giữa các biến độc lập đến độ deacetyl ( ) (%) và độ hòa
tan (
) (%) được trình bày ở Phương trình (3-11) và Phương trình (3-12) tương ứng.
70,081 + 1,875 X1 +5,069 X2 +13,365 X3 - 0,984 X1X3 - 4,509 X2X3
(Phương trình 3-11)
17
(Phương trình 3-12)
= 68,225 + 5,55 X1 +2,925 X2 +26,325 X3 - 3,154 X1X3 - 1,825 X2X3
Kết quả phân tích ảnh hưởng của nhiệt độ, nồng độ và thời gian đến hai hàm mục tiêu độ deacetyl và độ
hòa tan bằng phương pháp mặt đáp ứng cho thấy để thu được sản phẩm có độ deacetyl trên 70% và độ hòa tan
trên 85% thì chế độ deacetyl phải thực hiện ở nồng độ NaOH≥ 50%, thời gian không dưới 4h ở nhiệt độ 80oC.
3.5.5. Tối ưu quá trình deacetyl
Tiến hành xử lý số liệu thực nghiệm thu được ở Bảng 3.21 bằng phương pháp mặt đáp ứng trên phần
mềm MINITAB 16.1 thu được phương trình hồi qui cho hàm mục tiêu độ deacetyl ( ) (%) và hàm mục tiêu độ
hòa tan ( ) (%) theo 2 biến độc lập: nồng độ (50-60%) và thời gian (4-8h) ở Phương trình (3-13) và Phương
trình (3-14), tương ứng.
(Phương trình 3-13)
= 85,8035+ 3,0240 X1 +2,069 X2 - 1,2260X12 - 1,2865X22 -0,5759X1X2
2
(Phương trình 3-14)
2
= 96,5179+ 3,0600 X1 +1,3300 X2 +0,6400X1 - 0,5100X2 -1,2175X1X2
Bảng 3.21: Kết quả thực nghiệm theo mô hình Central Composite
Độ hòa tan
(%)
91,56
No
-1
DD
(%)
78,31
1
X1,
%
-1
2
+1
-1
85,41
100,00
9
+1
0
87,13
100,00
3
-1
+1
83,32
96,43
10
0
-1
81,60
94,12
4
+1
+1
88,12
100,00
11
0
+1
86,30
97,23
5
0
0
86,34
96,14
12
0
-1
85,95
95,78
97,13
13
0
0
84,94
95,78
97,45
14
0
0
85,76
96,76
No
6
7
0
0
X2, h
0
0
85,98
86,12
Độ hòa tan (%)
0
DD
(%)
80,89
X1, %
X2, h
8
0
93,65
X1: Nồng độ (%); X2:Thời gian (h)
Kết quả kiểm định thống kê được tóm tắt ở Bảng 3.23 cho phép khẳng định độ tin cậy của Phương trình
(3-13) và Phương trình (3-14). Hai phương trình này có thể giải thích 97,85% và 95,76% số liệu thực nghiệm thu
được đối với hàm mục tiêu độ deacetyl và độ hòa tan, tương ứng.
Bảng 3.23: Kết quả kiểm định thống kê phương trình hồi qui (3-13) và (3-14), (p=0,05)
Hệ số kiểm định
Độ deacety
PRESS
R-Sq (%)
R-Sq(pred) (%)
R-Sq(adj) (%)
Mức độ không phù hợp
Hàm mục tiêu
, %) Độ hòa tan
, %)
5,62
5,43
98,84
97,72
94,18
93,03
97,85
95,76
0,48
0,91
Bảng 3.25: Ảnh hưởng của chế độ deacetyl đến phân tử lượng trung bình độ nhớt của chitosan (Mv, kDa)
Điều kiện deacetyl
Nhiệt độ (oC)
Nồng độ NaOH (%)
Thời gian (h)
0
2
4
6
8
*
Phân tử lượng trung bình độ nhớt (Mv), (kDa)
Có sóng
Không sóng
80
70
80
50
60
50
50
60
1652, 00
592,61
468,53
421,82
377,37
1652,00
539,12
404,21
361,84
323,55
1652,00
473,26
-
1652,00
439,90
-
1652,00
378,53
-
Số liệu biểu diễn là trung bình cộng của 2 lần lặp
Do quá trình depolymer luôn diễn ra song song với quá trình deacetyl và có ảnh hưởng đến đặc tính của
chitosan vì vậy việc nghiên cứu sự thay đổi phân tử lượng trong quá trình deacetyl đã được thực hiện. Kết quả ở
18
Bảng 3.25 cho thấy phân tử lượng trung bình độ nhớt của sản phẩm chitosan (Mv) phụ thuộc vào điều kiện
deacetyl (nhiệt độ, thời gian, nồng độ và điều kiện có/không có sự hỗ trợ của sóng siêu âm).
Trong cùng 6h xử lý với NaOH có nồng độ 60% (w/w) phân tử lượng trung bình độ nhớt của chitosan
thu được khi deacetyl ở 70oC cao hơn đáng kể so với ở 80oC (473,26 so với 421,82kDa); chitosan thu được khi
deacetyl truyền thống, không có mặt sóng siêu âm, có phân tử lượng cao hơn so với khi kết hợp với sóng siêu âm
nhưng mức độ chênh lệch không quá lớn (439,90 và 378,53 kDa so với 421,82 và 361,84 kDa tương ứng với
nồng độ 50 và 60% khi deacetyl ở 80oC trong 6h). Phân tử lượng của chitosan giảm theo chiều tăng của thời gian
deacetyl nhưng mức độ giảm khác nhau ở giai đoạn trước và sau 2h. Phân tử lượng trung bình độ nhớt giảm
khoảng 64-67% chỉ sau 2h (từ 1652kDa xuống còn 592,61 và 539,12 kDa tương ứng với nồng độ NaOH 50 và
60%) nhưng sau đó phân tử lượng có chiều hướng giảm chậm lại, so với thời điểm 2h deacetyl phân tử lượng
trung bình độ nhớt chỉ giảm 20 và 25% tương ứng sau 6h và 8h deactyl ở cả nồng độ NaOH 50% và 60%.
Phân tích hồi qui tuyến tính giá trị logarith phân tử lượng trung bình độ nhớt của chitosan thu được trong
khoảng thời gian deacetyl từ 2-8h thấy rằng động học quá trình depolymer trong điều kiện có sóng siêu âm vẫn
tuân theo phương trình bậc nhất (Hình 3.38) tương tự như khi deacetyl truyền thống.
2.9
y = 2,8198-0,0317*t (R=0,9573)
y = 2,7800-0,0352*t (R=0,9363)
NaOH 50%
NaOH 60%
Lg(Mv)
2.8
2.7
2.6
2.5
2.4
2
4
6
8
Thêi gian (h)
Hình 3.38: Ảnh hưởng của nồng độ và thời gian đến phân tử lượng trung bình độ nhớt của chitosan được
deacetyl với sự hỗ trợ của sóng siêu âm.
Phương trình (3-15) và (3-16) biểu diễn sự thay đổi phân tử lượng trung bình độ nhớt của chitosan theo
thời gian khi deacetyl ở nhiệt độ 80oC với dung dịch NaOH 50% và 60%, tương ứng. Dựa vào hai phương trình
này có thể xác định được thời gian deacetyl cần thực hiện để thu chitosan có phân tử lượng trung bình độ nhớt
thỏa mãn yêu cầu.
= 2,8501 - 0,0404*t
(Phương trình 3-15)
= 2,7767 - 0,0388*t
(Phương trình 3-16)
Như vậy, với 04 phương trình hồi qui thu được (từ Phương trình (3-13) đến (3-16)) có thể kiểm soát quá
trình deacetyl ở 80oC với sóng siêu âm tần số 37kHz để thu chitosan có độ deacetyl, phân tử lượng và độ tan
theo yêu cầu.
3.6. Đề xuất qui trình thu nhận chitin, chitosan và protein theo công nghệ cải tiến và đánh giá lợi ích
3.6.1. Qui trình thu nhận chitin, chitosan và protein theo công nghệ cải tiến đề xuất
Căn cứ vào các kết quả nghiên cứu đã thu được trong quá trình thực hiện luận án có thể khẳng định
phương pháp thu hồi chitin, chitosan có sử dụng kết hợp phương pháp enzyme, phương pháp hóa học và vật lý
có thể áp dụng để cải tiến công nghệ thu hồi chitin, chitosan từ nguyên liệu còn lại của quá trình chế biến tôm
19
thẻ chân trắng xuất khẩu. Qui trình thu hồi chitin, chitosan và protein dựa trên công nghệ này được đề xuất ở
Hình 3.39, Hình 3.40 và Hình 3.41.
Đầu tôm tươi sau khi đưa ra khỏi dây chuyền sản xuất sẽ được bổ sung lượng nước sạch theo tỷ lệ 1:1
(w/v), trộn đều và tiến hành tự thủy phân ở pH tự nhiên trong 2h ở nhiệt độ 60oC. Kết thúc thời gian thủy phân,
hỗn hợp sẽ được đánh đảo mạnh trong 2 phút, tốc độ khoảng 1000 vòng/phút và chuyển sang thiết bị lọc với kích
thước lỗ 1mm. Phần dịch sẽ được xử lý (lọc, ly tâm, tách cặn), sấy để thu chế phẩm thủy phân protein có hoạt
tính chống oxy hóa và tùy theo mục đích sử dụng có thể được tinh chế tiếp theo. Phần bã (phần vỏ đầu) sẽ tiếp
tục được xử lý để thu chitin. Để thu chitin, phần vỏ đầu được xử lý với dung dịch HCl 0,25M trong 12h ở nhiệt
độ phòng, tỷ lệ dd HCl so với vỏ đầu là 4:1 (v/w). Phần rắn sau xử lý sẽ được rửa sạch đến trung tính, vắt ráo và
khử protein lần 2 với NaOH 1% trong 8h ở 70oC, thể tích dung dịch NaOH sử dụng so với lượng vỏ đầu là
2:1(v/w). Chitin thu được sau tinh sạch sẽ được rửa đến trung tính, làm khô đến độ ẩm <10% và bảo quản nơi
khô ráo.
Đầu tôm tươi
Vỏ tôm tươi
Tự thủy phân
(2h, 60oC, pH tự nhiên, Tỷ lệ H2O:NL=1:1(v/w)
Ép ráo
Đánh đảo mạnh trong 2 phút, tốc độ
khoảng 50 vòng/phút
Lọc
(Đường kính lỗ lọc khoảng 1mm)
Dung dịch pepsin
(20U/g protein)
Xử lý HCl 0,25M trong 2h, ở nhiệt độ
phòng, tỷ lệ ddHCl:NL=4:1(v/w)
Chiếu siêu âm
(37kHz, RMS=35W, 25 phút)
Rửa sạch, vắt ráo
Thủy phân ở pH =2, trong 14h ở 40oC
Vỏ đầu
Dịch thủy phân protein
Dịch thủy phân
Xử lý với HCl 0,25M trong 12 h ở nhiệt
độ phòng, tỷ lệ ddHCl:NL=4:1(v/w)
Sấy
Sấy
Thu sản phẩm
Thu sản phẩm
Bã
Xử lý với NaOH 1%, trong 8h ở
70oC, tỷ lệ ddNaOH:NL=2:1 (v/w)
Rửa trung tính
Rửa đến trung tính
Xử lý với NaOH 1%, 8h, 70oC,
tỷ lệ ddNaOH:NL= 2:1(v/w)
Phân riêng
Phơi khô
Rửa đến trung tính
Làm khô
Chitin
Chitin
Hình 3.39: Qui trình thu nhận chitin và protein
từ phần đầu tôm thẻ chân trắng đề xuất
Hình 3.40: Qui trình thu nhận chitin và protein từ
phần vỏ tôm thẻ chân trắng đề xuất
Vỏ tôm sau khi ép ráo sẽ được khử khoáng với HCl 0,25M ở nhiệt độ phòng, tỷ lệ dung dịch HCl so với
lượng vỏ tôm là 4:1 (v/w). Sau 2h, vớt phần rắn ra, rửa sạch vắt ráo và tiếp tục xử lý với pepsin. Bổ sung dung
dịch có pH =2 vào hỗn hợp vỏ tôm đã khử khoáng ở trên theo tỷ lệ 3:1 (v/w), nâng hỗn hợp lên nhiệt độ 40oC và
bổ sung pepsin theo tỷ lệ 20U/g protein. Duy trì ổn định nhiệt độ cho hỗn hợp ở 40oC trong 14 hoặc 16h, tương
ứng với có hay không có tiền xử lý pepsin với sóng siêu âm (37kHz, RMS 35W) trong 25 phút ở 40oC. Khi kết
thúc thời gian xử lý với pepsin tiến hành lọc để tách riêng phần dịch và phần rắn. Phần dịch được xử lý tương tự
phần dịch thu được từ phần đầu ở trên để thu sản phẩm thủy phân protein có hoạt tính chống oxy hóa. Phần rắn
sau khi rửa sạch đến trung tính và vắt ráo sẽ tiếp tục được khử protein lần 2 với NaOH 1% trong 8h ở 70oC; thể
tích dung dịch NaOH sử dụng so với phần rắn là 2:1 (v/w). Kết thúc thời gian khử protein lần 2, chitin sẽ được
rửa sạch đến trung tính, làm khô đến độ ẩm <10% và bảo quản nơi khô ráo
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng sẽ xác định được yêu cầu về độ deacetyl, độ hòa tan và phân tử lượng
của chitosan cần sản xuất. Với các thông số đã xác định đó, tiến hành tính toán nồng độ NaOH cần dùng và thời
gian cần deacetyl ở 80oC dựa vào các Phương trình (3-13), Phương trình (3-14) và Phương trình (3-15) hoặc
20
Phương trình (3-16). Chitin (dạng vảy) sẽ được ngâm nước nóng 60oC trong vòng 60 phút và làm ráo trước khi
trộn đều với dung dịch NaOH có nồng độ đã xác định theo tỷ lệ 1:15 (w/v) và thực hiện deacetyl theo thời gian
đã tính toán được. Sóng siêu âm có tần số 37kHz với mức năng lượng 35W được chiếu trong suốt thời gian
deacetyl và nhiệt độ được duy trì ở 80oC bằng bộ phận ổn nhiệt. Sau khi kết thúc quá trình deacetyl, chitosan
được ngâm, rửa sạch đến trung tính, làm khô đến độ ẩm <10% và bảo quản trong bao bì kín, ở nơi khô ráo.
Mục đích sử dụng chitosan
Xác định yêu cầu về độ deacetyl,
phân tử lượng và độ hòa tan của sản
phẩm chitosan
Chitin
Ngâm nước nóng 60oC trong 60 phút
Căn cứ vào Phương trình (3-12),
(3-13) , (3-14) hoặc (3-15)
Làm ráo
Chiếu siêu âm tần số 37kHz
Xác định chế độ deacetyl phù hợp
(Thời gian, nồng độ NaOH)
Deacetyl ở 80oC
Ngâm, rửa đến trung tính
Làm khô
Chitosan
3.6.2.
Hình 3.41: Qui trình xác định chế độ deacetyl và sản xuất chitosan đề xuất
Chất lượng của chitin và chitosan thu được theo qui trình đề xuất
Chitin và chitosan thu được từ phần đầu và phần vỏ của tôm thẻ chân trắng theo qui trình đề xuất ở Hình
3.39, Hình 3.40 và Hình 3.41 có các chỉ tiêu chất lượng được trình bày ở Bảng 3.26 và Bảng 3.27. Kết quả phân
tích ở Bảng 3.26 cho thấy so với tiêu chuẩn chitin thương mại do công ty AxioGen (Ấn Độ) công bố, sản phẩm
chitin sản xuất theo qui trình đề xuất từ nguyên liệu đầu tôm và vỏ tôm thẻ chân trắng đều có chất lượng đáp ứng
yêu cầu, tất cả các chỉ tiêu đều nằm trong dải cho phép.
Bảng 3.26: Chất lượng chitin sản xuất theo qui trình đề xuất
Tiêu chuẩn chitin thương mại b
Chỉ tiêu
Màu sắc
Tro (%, db)
Protein (%, db)
Độ acetyl (%)
Độ ẩm (%)
Phân tử lượng trung bình độ nhớt (Mv, kDa)
Hàm lượng kim loại nặng (ppm)
Tạp chất không tan (%)
a
Ngà vàng
<1
>90
<10
≤ 15
<1
Sản phẩm thu được
Từ phần vỏ Từ phần đầu
Trắng hồng Trắng hồng
0,57±0,07
0,68±0,05
0,66±0,1
0,79±0,04
97,01±0,85 94,32±0,29
8,70±0,79
8,07±0,56
1652
1232
0,29
<1a
Dung môi NaOH 40%, có bổ sung ure, sau 72h ở nhiệt độ 6-10oC; b: Công bố của Cty AxioGen, Ấn Độ.
Bên cạnh đó, nhờ hạn chế việc xử lý nguyên liệu với HCl ở nồng độ cao và nhiệt độ cao nên chitin sản
xuất theo qui trình đề xuất có mạch polysaccharide ít bị ảnh hưởng, phân tử lượng trung bình độ nhớt cao (1232
và 1652 kDa, tương ứng với nguyên liệu là đầu và vỏ tôm). Việc tiết giảm nồng độ và số lần xử lý với NaOH
trong qui trình cũng có tác dụng hạn chế quá trình deacetyl nên sản phẩm chitin thu được có độ acetyl cao (94%
- Xem thêm -