Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tóm tắt luận án tiến sĩ triết học nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lự...

Tài liệu Tóm tắt luận án tiến sĩ triết học nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay

.PDF
27
291
89

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN KIM PHƯỢNG nhµ n­íc víi viÖc ph¸t huy néi lùc vµ ngo¹i lùc trong héi nhËp quèc tÕ ë ViÖt Nam hiÖn nay Chuyên ngành Mã số : CNDVBC & CNDVLS : 62 22 80 05 tãm t¾t LuËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Hµ Néi - 2014 C«ng tr×nh ®­îc hoµn thµnh t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: PGs.TS trÇn thµnh Ph¶n biÖn 1: Ph¶n biÖn 2: Ph¶n biÖn 3: LuËn ¸n sÏ ®­îc b¶o vÖ tr­íc Héi ®ång chÊm luËn ¸n cÊp Häc viÖn häp t¹i Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh. Vµo håi giê ngµy th¸ng n¨m 2014 Cã thÓ t×m hiÓu luËn ¸n t¹i: Th­ viÖn Quèc gia vµ Th­ viÖn Häc viÖn ChÝnh trÞ Quèc gia Hå ChÝ Minh 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ XXI thế giới có những biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và phức tạp với những cơ hội và thách thức to lớn đối với từng quốc gia, đặc biệt là đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Mặc dù thế giới có thể còn có nhiều diễn biến phức tạp với sự hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, song xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác để tiếp tục phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trên thế giới, chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến lược phát triển của từng nước. Hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực đời sống đã và đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại. Bất cứ quốc gia nào muốn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội tất yếu phải tham gia vào xu thế đó. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam không thể không hội nhập quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội để phát triển. Để chủ động hội nhập với thế giới, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững, Việt Nam cần phải tích cực, chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội. Phát huy nội lực và ngoại lực giúp chúng ta mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển. Phát huy nội lực và ngoại lực trở thành yêu cầu tất yếu, là nhu cầu bức thiết đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập để phát triển đất nước hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, nhà nước đã không ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để phát huy nội lực, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia, phát triển kinh tế, đồng thời chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực và khai thác, sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đưa đất nước từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới. Thành tựu đó cho thấy vai trò to lớn của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành việc phát huy nội lực và ngoại lực, vai trò của nhà nước có lúc chưa thực sự được thể hiện đúng mức và đầy đủ do sự chi phối đa dạng, phức tạp của quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là do những hạn chế thuộc về bản thân nhà nước như: bộ máy cồng kềnh, chậm thích ứng với những biến động của thế giới; trình độ quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát huy nội lực và ngoại lực; hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; công tác cán bộ còn 2 chậm đổi mới; công tác tổ chức thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực còn lúng túng, thiếu chủ động… Những hạn chế đó của nhà nước đặt việc phát huy nội lực và ngoại lực trước những khó khăn, thách thức và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là: Việc phát huy nội lực còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước. Việc thu hút ngoại lực đã tích cực hơn nhưng chưa thực sự chủ động. Việc khai thác và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước chưa hợp lý, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa phát huy hết vai trò của nó trong việc thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập quốc tế ở nước ta. Bên cạnh đó, việc phát huy nội lực và ngoại lực chưa thực sự đem lại sự phát triển bền vững cho đất nước. Nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động với tốc độ tăng trưởng khá nhưng hiệu quả kinh tế còn thiếu bền vững, “chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý”. Việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực chưa hợp lý dẫn đến suy kiệt nhiều nguồn tài nhiên thiên nhiên, hủy hoại môi trường sinh thái, làm thay đổi mô hình bệnh tật, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực… Mặt khác, việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế với nhiều biến động phức tạp hiện nay đã đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho sự phát triển đất nước. Sự tác động mạnh mẽ của các nguồn ngoại lực từ nhiều phía có thể thu hẹp phạm vi tác động của nhà nước, gây mất an toàn hệ thống kinh tế, tài chính, an ninh quốc gia; làm trầm trọng sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giữa người giàu, người nghèo, giữa các quốc gia trên thế giới; nhiều nguồn viện trợ, hợp tác chuyển giao công nghệ mang động cơ chính trị có thể dẫn tới nguy cơ chệch hướng;... Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đặt các nước có nền kinh tế trung bình và chậm phát triển trước nguy cơ đỗ vỡ và khủng hoảng nguồn lực cho phát triển do bị mất hoặc giảm các nguồn viện trợ, vốn vay nước ngoài… Tình hình đó ảnh hưởng lớn đến vai trò quản lý, điều hành của nhà nước đối với các nguồn lực phát triển đất nước, đặt nhà nước trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới. Những hạn chế, thách thức trên đều là những vấn đề thời sự cấp bách đã và đang trở thành lực cản cho sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý, điều tiết, cân đối vĩ mô đối với việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới, hoàn thiện, tăng cường vai trò của nhà nước để phát huy tối đa những tác động tích cực và giảm thiểu những tiêu cực trong việc phát huy nội lực và ngoại lực nhằm đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời tránh tình trạng suy giảm vai trò của nhà nước và nguy cơ chệch hướng trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. 3 Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, tôi chọn chủ đề: “Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Triết học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cở sở làm rõ vai trò của nhà nước, thực trạng, và những vấn đề đặt ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực trong hội nhập quốc tế, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực, đảm bảo phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau: - Làm rõ sự cần thiết phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế và vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy đó ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng, phân tích một số vấn đề đặt ra đối với vai trò của Nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn, lôgíc - lịch sử… Luận án còn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, mô tả, so sánh... 5. Những đóng góp mới của luận án - Luận án góp phần làm rõ dưới góc độ triết học vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng và đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Về mặt lý luận Luận án bước đầu làm sáng tỏ về mặt lý luận vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Luận án góp phần vào công tác tổng kết thực tiễn thông qua việc làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Từ đó, công trình này đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. 6.2. Về thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu lý luận, phục vụ công tác giảng dạy ở các trường đại học, học viện… 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được trình bày trong 4 chương, 10 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu về nội lực, ngoại lực và vai trò của chúng trong sự phát triển đất nước Trên thế giới, từ lâu, các học giả đã dày công nghiên cứu về nội lực, ngoại lực và tổng thể các nguồn lực cho sự phát triển của các quốc gia. Adam Smith chỉ ra nguồn lực chủ yếu của xã hội thời kỳ ông sống chính là vốn, sức lao động và đất đai. David Ricardo coi lợi thế so sánh chính là nguồn gốc thịnh vượng của ngoại thương, là nguyên nhân thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. C.Mác chỉ ra nguồn lực cho sự phát triển của CNTB như: giá trị hàng hóa sức lao động, tư bản (vốn), khoa học kỹ thuật… Trong đó ông nhấn mạnh và khẳng định giá trị của nguồn lực con người, con người là chủ thể sáng tạo nên lịch sử phát triển của loài người. Ngày nay, các nhà kinh tế học hiện đại phân tích các nguồn lực dựa trên sự đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế bao gồm những yếu tố vật chất đầu vào (như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, nguồn tài nguyên, sức lao động…) và một số yếu tố khác (tổ chức, chính sách, quản trị, công nghệ, bí quyết công nghệ)… Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài nguồn lực như: Bộ Khoa học và Công nghệ, đề tài KX.04.08/06-10, Nguồn 5 lực và động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; GS.TSKH Lê Du Phong, chủ biên (2006), Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị; Hồ Bá Thâm (2004), Động lực và tạo động lực phát triển xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Hoàng Ngọc Hòa (2005),“Quá trình nhận thức của Đảng ta về phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát triển nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005, Nxb Lý luận chính trị… Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp một số lý luận cơ bản và các cơ sở khoa học được đúc rút từ thực tiễn về tính tất yếu của việc phát huy nội lực và ngoại lực, vai trò của phát huy nội lực, ngoại lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước qua các thời kỳ. Đó là gợi mở cho tác giả luận án này đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu. 1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước và những giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã có nhiều học giả, các nhà nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước đối với sự phát triển như: A.Smith, J.M Keynes, Samuelson, C.Mác, Ăngghen, Lênin… Ngày nay, dưới tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các nguồn lực di chuyển tự do trên phạm vi toàn cầu,vượt khỏi sự kiểm soát của nhà nước, quốc gia. Các nhà khoa học tiếp tục nêu ra nhiều quan niệm khác nhau về vai trò của nhà nước đối với sự phát triển. Liên quan đến đề tài này, có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: bài viết “Toàn cầu hóa kinh tế và chức năng của nhà nước” của Giáo sư Lei Da, Tạp chí những vấn đề chính trị xã hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; bài viết “Quá trình toàn cầu hóa và Nhà nước: Cái mới trong việc điều chỉnh kinh tế ở các nước phát triển” của Osadchaja I, Tạp chí những vấn đề xã hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; cuốn sách “Cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam” của GS.TS Lương Xuân Quỳ , Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994 … Bên cạnh đó, các tác giả cũng đi sâu nghiên cứu các giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực, ngoại lực đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay được thể hiện trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiêu biểu có các công trình: Bài viết “Phát huy nội lực, xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ mở rộng hợp tác quốc tế” của PGS.TS Vũ Văn Phúc, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9 năm 2005, Cuốn sách “Tác động của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay” do PGS. TS Nguyễn Cúc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 1997; Luận án Tiến sĩ Triết học “Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” của 6 Lê Thị Hồng, Hà Nội, 2001; Luận án Tiến sĩ Triết học “Vai trò nhà nước đối với việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay” của Trần Thị Thu Hường, Hà Nội, 2011… Từ các công trình, đề tài trong nước và trên thế giới có thể thấy số lượng các đề tài nghiên cứu về “vai trò của nhà nước” rất phong phú, đồ sộ. Các công trình đó là tài liệu quý giá, là cơ sở khoa học để nghiên cứu sinh này tiếp thu và tiếp tục nghiên cứu, phát triển trong phạm vi nghiên cứu của luận án này. 1.3. Những giá trị của các công trình đã nghiên cứu và một số định hướng mà luận án tiếp tục phải thực hiện Từ tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể thấy, các công trình, đề tài, trên đã có những đóng góp khoa học, có giá trị về cả lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu vấn đề phát huy nội lực, ngoại lực cho sự phát triển và vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực để xây dựng và phát triển đất nước trong hội nhập quốc tế hiện nay. Những đóng góp đó thể hiện trên một số phương diện cơ bản sau: Một là, làm sáng tỏ những lý luận căn bản về toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, những tác động của quá trình này đến vai trò của nhà nước nói riêng và sự phát triển của của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam. Hai là, từng bước làm sáng tỏ khái niệm nguồn lực, nội lực, ngoại lực và vai trò của chúng trong việc xây dựng và phát triển đất nước của mỗi quốc gia. Ba là, làm rõ tính tất yếu của việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát triển trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam, đồng thời đánh giá thực trạng, khai thác, sử dụng các nguồn lực đó và đề xuất những phương hướng, giải pháp để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Bốn là, làm rõ vai trò của nhà nước, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó chỉ ra vai trò tác động của nhà nước đối với từng nguồn lực, từng mặt, từng lĩnh vực của đời sống. Hầu hết các công trình đều chỉ ra những hạn chế của nhà nước như: chất lượng văn bản pháp lý, bộ máy chưa hiệu quả, đội ngũ công chức còn thiếu và yếu... từ đó, đề xuất các giải pháp khắc phục trên nhiều phương diện, ở nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau. Với những đóng góp đó, các công trình nghiên cứu nêu trên đã trang bị những cơ sở lý luận căn bản và những bằng chứng khoa học từ thực tiễn về vấn đề phát huy nội lực, ngoại lực, nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy các nguồn lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, cho đến nay, chưa có một công trình, đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ Triết học vấn đề vai trò của nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Điều đó thôi thúc tác giả luận án đi sâu, tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề này. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và bổ sung các kết quả nghiên cứu nêu trên, luận án sẽ làm sáng tỏ thêm một số nội dung sau: 7 - Làm sáng tỏ quan niệm về nội lực, ngoại lực, nguồn lực cho sự phát triển đất nước thời kỳ hội nhập và các luận cứ khoa học về vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế hiện nay. Chương 2 TÍNH TẤT YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC, NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Nội lực, ngoại lực và mối quan hệ biện chứng giữa nội lực, ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam 2.1.1. Quan niệm về nội lực và ngoại lực Trên cơ sở một số quan niệm của các nhà nghiên cứu trong lịch sử, luận án đưa ra khái niệm về nội lực và ngoại lực như sau: * Nội lực: Nội lực của nước ta là tổng thể toàn bộ sức mạnh về vật chất và tinh thần bên trong của quốc gia, bao gồm những nội dung cốt lõi như: sức mạnh của nền kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội; sức mạnh của nguồn lực con người Việt Nam; khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ta… Để nhận thức đúng đắn về nội lực cần thống nhất một số quan điểm sau: Thứ nhất, nội lực là khái niệm rộng và luôn có sự vận động, biến đổi. Trong thực tế, nhiều yếu tố từng được xác định là nội lực của quốc gia, thậm chí là nội lực quan trọng nhưng trải qua quá trình phát triển lại không còn giữ vai trò đó và ngược lại. Nhiều yếu tố được xác định là nội lực trong điều kiện này nhưng lại được xem xét là môi trường, yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy nội lực và ngoại lực trong điều kiện khác. Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vừa có thể coi là nội lực quốc gia, vừa có thể coi là môi trường, điều kiện để phát huy những nguồn nội lực khác như khoa học công nghệ, nguồn nhân lực… Thứ hai, nội lực phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người, đặc biệt là trình độ phát triển khoa học công nghệ. Với trình độ nhận thức, đặc biệt là trình độ khoa học công nghệ ngày càng được nâng cao, con người đã nghiên cứu, phát hiện những nguồn tài nguyên mới để đưa vào sử dụng, đồng thời sáng chế những vật liệu mới, năng lượng mới thay thế những nguồn tài 8 nguyên cạn kiệt. Đó là cơ sở, điều kiện để mỗi nước nghiên cứu và làm cho nội lực quốc gia ngày càng phong phú. Thứ ba, nội lực phụ thuộc vào yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia có những điều kiện và định hướng phát triển khác nhau, theo đó, khái niệm nội lực được xác định với những nội dung khác nhau. Như vậy “nội lực” là khái niệm rộng, luôn vận động, biến đổi, phụ thuộc vào trình độ nhận thức và yêu cầu phát triển của mỗi nước, do đó, không thể có một khái niệm nội lực chung cho mọi quốc gia, trong mọi hoàn cảnh. Trong giới hạn công trình này, luận án không có điều kiện để nghiên cứu, đánh giá toàn bộ nội lực quốc gia mà sẽ tập trung làm rõ vai trò của nhà nước trong việc tạo ra những điều kiện, cơ chế, chính sách, môi trường để phát huy nội lực thông qua việc khảo sát, phân tích một số nguồn nội lực là bộ phận cấu thành chủ yếu của lực lượng sản xuất, mà trước hết và quan trọng nhất là nguồn lực nhân lực, khoa học, công nghệ và nguồn vốn mà chúng ta có. Đây là những yếu tố quan trọng nhất của nội lực hiện nay để chúng ta phát triển đất nước theo chiều sâu. Các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… được luận án xem xét như là môi trường, điều kiện để phát huy các nguồn lực. * Ngoại lực: Ngoại lực là tổng thể những sức mạnh vật chất và tinh thần bên ngoài quốc gia, bao gồm các yếu tố như: vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ, trình độ và kỹ năng quản lý… Tương tự như khái niệm nội lực, ngoại lực là khái niệm rộng và mang tính động, luôn vận động và biến đổi theo trình độ nhận thức, quan niệm, yêu cầu, định hướng phát triển của mỗi quốc gia. Ở các góc độ nghiên cứu khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau, mỗi nhà khoa học có thể nêu ra những quan niệm về ngoại lực khác nhau. Do vậy, chúng ta không thể có được một khái niệm ngoại lực chung nhất cho mọi hoàn cảnh, mọi quốc gia mà phải nhận thức ngoại lực trong sự vận động, phát triển, trong bối cảnh cụ thể, trong mối liên hệ với nội lực và tổng thể các nguồn lực khác. Trong giới hạn của luận án, công trình này không có điều kiện để nghiên cứu, đánh giá vai trò, sự tác động của từng yếu tố ngoại lực đến sự phát triển đất nước mà chỉ tập trung làm rõ vai trò của nhà nước trong việc huy động, khai thác, sử dụng ngoại lực để xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay. * Phát huy nội lực và ngoại lực Với quan niệm về nội lực và ngoại lực như trên, có thể nêu khái quát quan niệm về “phát huy nội lực”, “phát huy ngoại lực”, “phát huy nội lực và ngoại lực” như sau: Phát huy nội lực là việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để huy động, khai thác, sử dụng và phát triển các nguồn lực trong nước nhằm xây dựng và phát triển đất nước. 9 Phát huy ngoại lực là việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để thu hút, khai thác, sử dụng và phát triển các nguồn lực bên ngoài quốc gia hỗ trợ cho việc xây dựng và phát triển đất nước. Phát huy nội lực và ngoại lực chính là việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để tranh thủ khai thác hiệu quả những giá trị vật chất, tinh thần của các quốc gia trên thế giới, gắn kết với sức mạnh của các điều kiện vật chất, tinh thần trong nước tạo nên một sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển. Vấn đề đặt ra là phát huy nội lực và ngoại lực phải đảm bảo tăng trưởng nhanh song hành cùng sự phát triển bền vững nghĩa là tăng trưởng nhanh gắn với việc duy trì và tạo ra tiền đề, nguồn lực cho những quá trình phát triển dài lâu của đất nước. Điều này phụ thuộc rất lớn vào vai trò của nhà nước trong việc điều tiết, khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn nội lực và ngoại lực cho sự phát triển. Do vậy, luận án sẽ tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong việc tạo môi trường, điều kiện, cơ chế, chính sách để nội lực và ngoại lực được phát huy có hiệu quả nhất, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững. 2.1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực Mỗi sự vật, hiện tượng đều chịu sự chi phối của các mối liên hệ bên trong và các mối liên hệ bên ngoài các sự vật hiện tượng đó. Các mối liên hệ bên trong có vai trò quyết định sự phát triển của các sự vật hiện tượng, còn các mối liên hệ bên ngoài có vai trò tác động, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các sự vật hiện tượng. Sự phát triển của đất nước ta hiện nay chịu sự tác động sâu sắc của nội lực - nguồn lực bên trong của quốc gia và ngoại lực - nguồn lực bên ngoài của quốc gia. Nội lực và ngoại lực có mối quan hệ biện chứng sâu sắc, trong đó, nội lực là yếu tố quyết định ngoại lực đồng thời quyết định sự phát triển đất nước, còn ngoại lực có vai trò quan trọng, tác động đến nội lực; ngoại lực chỉ phát huy tác dụng thông qua nội lực, nó có thể thúc đẩy hoặc hạn chế nội lực. Nhận định về vai trò của nội lực và ngoại lực trong sự phát triển, Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”. Trong mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, nội lực luôn là yếu tố quyết định ngoại lực và quyết định sự phát triển của quốc gia. Sự vận động, phát triển của các yếu tố cấu thành nội lực và sự tác động qua lại giữa chúng mang lại sự vận động và phát triển của tổng thể nội lực, thúc đẩy và quyết định sự phát triển của đất nước. Nội lực quyết định ngoại lực ở chỗ sự vận động và phát triển của nội lực đặt ra yêu cầu khách quan đối với việc thu hút ngoại lực ở nhiều mức độ: thu hút ngoại lực nào là chủ yếu, quy mô, tốc độ thu hút đến đâu… Trên thực tế, mỗi quốc gia khác nhau căn cứ vào các yếu tố nội lực và trình độ phát triển của nội lực để xây dựng kế hoạch, chiến lược thu hút các ngoại lực cần thiết cho sự phát triển. 10 Trong mối quan hệ với nội lực, ngoại lực có vai trò quan trọng góp phần vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Ngoại lực có thể tác động, hỗ trợ, bổ sung, phát triển nội lực nhưng cũng có thể hạn chế, kìm hãm nội lực, tác động tiêu cực đến sự phát triển đất nước. Ngoại lực là những nguồn lực quý báu, nếu được khai thác, sử dụng hợp lý sẽ bổ sung cho nội lực, tạo điều kiện để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thành các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển toàn diện các mặt văn hóa xã hội, hướng đến mục tiêu phát triển nhanh, bền vững. Ngoại lực với tính cách là những nguồn lực bên ngoài phạm vi quốc gia, chỉ có thể phát huy được vai trò của nó đối với sự phát triển của quốc gia đó thông qua nội lực. Ngoại lực không thể được phát huy nếu không thông qua nội lực, ngoại lực không thể thúc đẩy sự phát triển đất nước nếu nó không được nội lực hóa. Nguồn vốn dồi dào của các cường quốc sẽ không có ý nghĩa cho sự phát triển đất nước nếu chúng ta không biết huy động, khai thác và sử dụng hợp lý. Khoa học công nghệ thế giới có tiên tiến đến đâu nhưng chúng ta không có nguồn nhân lực đủ trình độ để tiếp thu, ứng dụng thì nó cũng không đóng góp cho sự phát triển đất nước… Tuy nhiên, không phải ngoại lực nào cũng làm giàu nội lực, có những ngoại lực hàm chứa trong nó những khả năng làm suy giảm nội lực, có những ngoại lực ẩn chứa những mưu đồ chống phá nước ta, chi phối nền kinh tế, khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường… Hiện nay, bối cảnh hội nhập quốc tế tạo ra những điều kiện để các quốc gia có sự ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn nhau nhau ngày càng sâu sắc. Đó là tiền đề khách quan để mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực càng trở nên chặt chẽ. Trong hội nhập quốc tế, mỗi thay đổi của ngoại lực đều có thể tác động đến nội lực và ngược lại, mỗi bước phát triển của nội lực sẽ làm tăng khả năng khai thác, sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Sự dịch chuyển mạnh mẽ về vốn, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, tài nguyên … giữa các quốc gia trong điều kiện hội nhập làm cho nội lực và ngoại lực dễ dàng thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển. Điều đó đặt ra yêu cầu phải có chính sách, biện pháp để phát huy nội lực và ngoại lực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập đối với sự phát triển. 2.2. Sự cần thiết phải phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay Phát huy nội lực và ngoại lực là một trong những bài học quan trọng cho sự phát triển được Đảng ta nhiều lần tổng kết và khẳng định. Đó là yêu cầu khách quan, là nhân tố quyết định thắng lợi của Việt Nam trong công cuộc xây dựng và đất nước, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế hiện nay. 11 Thứ nhất, phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế là sự kế thừa bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” Thứ hai, phát huy nội lực và ngoại lực là yêu cầu tất yếu của hội nhập quốc tế Thứ ba, phát huy nội lực và ngoại lực giúp Việt Nam tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức trong thời kỳ hội nhập để phát triển 2.3. Những biểu hiện chủ yếu về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 2.3.1. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện để phát huy nội lực và ngoại lực Môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội ổn định và phát triển là điều kiện tiên quyết để mọi nguồn lực trong nước được phát huy, đồng thời tạo ra sức hấp dẫn của môi trường trong nước đối với việc đầu tư, hợp tác quốc tế nhằm thu hút ngoại lực. Do đó, xây dựng môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội ổn định, phát triển trở thành yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình phát huy nội lực và ngoại lực. Thứ nhất, nhà nước giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia tạo tiền đề cho mọi nguồn lực đất nước phát triển. Thứ hai, nhà nước phát huy sức mạnh kinh tế trong nước phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế quốc tế. Thứ ba, nhà nước phát triển văn hóa, xã hội tạo môi trường lành mạnh, tiến bộ để phát huy nội lực. Thứ tư, nhà nước xây dựng hành lang pháp lý, cải cách hành chính tạo môi trường thông thoáng, minh bạch để phát huy các nguồn lực. 2.3.2. Nhà nước xây dựng và mở rộng quan hệ quốc tế để chủ động thu hút ngoại lực Bên cạnh việc phát huy nội lực, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, nhà nước còn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và mở rộng quan hệ quốc tể để chủ động thu hút ngoại lực bằng nhiều chính sách, biện pháp như: chủ động thông tin quảng bá về nội lực quốc gia, tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định song phương, đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế, tạo dựng uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Vai trò đó được biểu hiện cụ thể như sau: Một là, nhà nước thực hiện nhiệm vụ thông tin - đối ngoại để chủ động thông tin, quảng bá về môi trường hấp dẫn mà nội lực tạo ra Hai là, nhà nước thực hiện các cam kết quốc tế, chủ động thu hút ngoại lực Ba là, nhà nước có chính sách, biện pháp để phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài dưới nhiều hình thức, biện pháp như: xây dựng các quỹ phát triển, kêu gọi, huy động kiều bào đầu tư xây dựng quê hương, đất nước… 2.3.3. Nhà nước khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực để xây dựng và phát triển đất nước Việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển đất nước, nó không những giúp chúng ta có được sự tăng trưởng 12 nhanh, mà còn giúp bảo tồn nguồn lực cho sự phát triển bền vững. Vai trò của nhà nước trong việc khai thác sử dụng nội lực và ngoại lực thể hiện ở việc nhà nước ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật, quy định cho việc khai thác, sử dụng loại nội lực, ngoại lực nào; đầu tư nguồn lực đó cho lĩnh vực nào, ưu tiên lĩnh vực nào (sản xuất, kinh doanh, xây dựng hạ tầng cơ bản hay các vấn đề xã hội); phân bổ nguồn lực ra sao cho từng khu vực kinh tế, từng ngành, từng vùng… Vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước thể hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Công trình này không có điều kiện để xem xét, đánh giá việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực trong tất cả các lĩnh vực mà chỉ tập trung phân tích, đánh giá vai trò của nhà nước trong việc sử dụng một số nguồn lực quan trọng cho sự phát triển, đó là nguồn lực con người, vốn, khoa học công nghệ với tính cách là lực lượng sản xuất, quyết định sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay và là những nhân tố quyết định việc phát triển đất nước theo chiều sâu hiện nay. 2.3.4. Nhà nước định hướng việc phát huy bền vững nội lực và ngoại lực đảm bảo mục tiêu phát triển của đất nước Nhà nước một mặt tạo môi trường và điều kiện để phát huy nội lực nâng cao sức hấp dẫn của nội lực, tăng cường hợp tác quốc tế để thu hút ngoại lực; khai thác và sử dụng nội lực, ngoại lực; mặt khác còn thực hiện các biện pháp định hướng để việc phát huy nội lực, ngoại lực được duy trì và đạt kết quả bền vững trong những giai đoạn tiếp theo, đảm bảo mục tiêu, chiến lược phát triển của đất nước. Để thực hiện vai trò này, nhà nước sử dụng những công cụ hữu hiệu sau: Thứ nhất, nhà nước định hướng việc phát huy nội lực, ngoại lực bằng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch Thứ hai, nhà nước định hướng việc phát huy nội lực bằng các công cụ điều tiết vĩ mô Tiểu kết chương 2 Phát huy nội lực, ngoại lực và các nguồn lực để phát triển là nội dung đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, bàn luận ở các góc độ tiếp cận khác nhau. Trong quá trình hội nhập quốc tế, phát huy nội lực và ngoại lực là yêu cầu đối với nước ta để phát triển. Do đó, trong Chương 2 của luận án, tác giả bày những quan niệm về nội lực, ngoại lực, phát huy nội lực, ngoại lực; sự cần thiết phải phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế là quá trình rất phức tạp với cả những thời cơ lớn và thách thức lớn tác động đến việc phát huy nội lực và ngoại lực. Để phát huy những lợi ích và giảm thiểu tác động tiêu cực của ngoại lực đối với nội lực quốc gia trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, việc làm cần thiết là phải nâng cao vai trò của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt 13 Nam đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực. Vì vậy, trong chương này, tác giả tác giả cũng tập trung đi sâu tìm hiểu những biểu hiện của vai trò nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực, đó là: nhà nước tạo lập môi trường, điều kiện để phát huy nội lực, ngoại lực; nhà nước thiết lập và mở rộng quan hệ quốc tế để chủ động thu hút ngoại lực; nhà nước kết hợp nội lực và ngoại lực trên cơ sở phát huy nội lực, nội lực hóa ngoại lực; nhà nước định hướng việc phát huy bền vững nội lực và ngoại lực đảm bảo mục tiêu phát triển đất nước. Những nội dung nêu trên là cơ sở để tác giả đi sâu nghiên cứu đánh giá thực trạng vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực của Việt Nam trong hội nhập quốc tế ở chương sau. Chương 3 VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Thực trạng vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế 3.1.1. Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc tạo môi trường, điều kiện để phát huy nội lực và ngoại lực Trong nội dung này, luận án tập trung làm rõ thực trạng vai trò của nhà nước trong việc tạo môi trường, điều kiện để phát huy nội lực và ngoại lực thông qua việc khảo sát, đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước trên 4 phương diện cơ bản, đó là: - Thực trạng vai trò của nhà nước trong giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc gia để phát huy mọi nguồn lực của đất nước - Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc phát huy sức mạnh kinh tế trong nước phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế quốc tế - Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc phát triển văn hóa - xã hội, tạo nội lực tinh thần của dân tộc - Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý, cải cách hành chính tạo môi trường minh bạch, thông thoáng. Từ việc đánh giá thực trạng vai trò nhà nước trên 4 phương diện này, có thể đánh giá khái quát thực trang vai trò của nhà nước trong việc tạo môi trường, điều kiện để phát huy nội lực và ngoại lực. Cụ thể là: Sau gần 30 năm đổi mới, mở cửa, hợp tác quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước ta đã thể hiện vai trò to lớn trong việc tạo môi trường và điều kiện để phát huy nội lực quốc gia, kích thích mọi tiềm năng thế mạnh trong nước phát triển. Với vai trò tích cực của nhà nước, môi trường chính trị, kinh 14 tế, văn hóa, xã hội, pháp lý và nền hành chính quốc gia đều có những bước tiến bộ: Chính trị an ninh được đảm bảo, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Văn hóa, xã hội tiến bộ trên nhiều mặt. Kinh tế tăng trưởng liên tục theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập. Nhờ đó, thế và lực của đất nước vững mạnh thêm, vị thế quốc gia ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn, là môi trường đầu tư an toàn, hiệu quả đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, thực trạng nêu trên còn cho thấy vai trò của nhà nước trong việc tạo môi trường để phát huy nội lực, ngoại lực cũng đã bộ lộ những hạn chế, yếu kém nhất định về trình độ, năng lực quản lý, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, tạo ra những rào cản về môi trường và điều kiện để phát huy nội lực, làm giảm sức hấp dẫn của môi trường trong nước với các nguồn ngoại lực, các nhà đầu tư và bạn bè quốc tế, ảnh hưởng tới việc phát huy nội lực và ngoại lực hiện nay. 3.1.2. Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc xây dựng và mở rộng quan hệ quốc tế để chủ động thu hút ngoại lực Thứ nhất, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, để mở rộng quan hệ quốc tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế, hoạt động đối ngoại nói chung và thông tin - đối ngoại nói riêng được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm nhằm thông tin, quảng bá, giới thiệu hình ảnh, môi trường đầu tư hấp dẫn của quốc gia tới bạn bè quốc tế. Nhà nước không ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, bộ máy làm công tác thống tin đối ngoại; không ngừng chủ động quảng bá hình ảnh quốc gia với nhiều hình thức, biện pháp. Với việc nhà nước thực hiện nhiệm vụ thông tin - đối ngoại, chủ động thông tin quảng bá về nội lực quốc gia, phần lớn bạn bè quốc tế đã biết đến một Việt Nam năng động, đang vươn lên mạnh mẽ, hòa bình, ổn định và phát triển, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, là môi trường đầu tư an toàn, hiệu quả, là điểm đến hấp dẫn của các đối tác trên thế giới. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới. Bên cạnh những thành tựu trên, công tác đối ngoại nói chung và công tác thông tin đối ngoại nói riêng còn một số hạn chế cần khắc phục: chậm đổi mới tư duy trên một số vấn đề quốc tế; chưa thực sự chủ động, sắc bén trong xử lý thông tin và quảng bá thông tin; hình thức quảng bá còn nghèo nàn, chưa có những đề án tuyên truyền thông tin - đối ngoại thật bài bản; công tác dự báo tình 15 hình thế giới, khu vực và chiến lược các nước lớn còn hạn chế; cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các cơ quan báo chí chưa thật chặt chẽ. Thực tế đó khiến cho việc thông tin quảng bá về nội lực của quốc gia chưa thực sự chủ động. Một số nước trên thế giới còn hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ về Việt Nam, về một số vấn đề về chính trị, xã hội, tôn giáo, nhân quyền... Do vậy, một số nhà đầu tư còn e ngại và do dự khi đầu tư vào nước ta. Điều này làm giảm hiệu quả công tác đối ngoại nói chung và thông tin đối ngoại nói riêng của nhà nước ta. Thứ hai, để chủ động thu hút ngoại lực, nhà nước ta đã thực hiện các cam kết quốc tế nhằm tạo ra uy tín quốc gia và những điều kiện pháp lý với quốc tế để thu hút sự quan tâm và đầu tư của các đối tác nước ngoài. Trong những năm qua, nhà nước ta đã thực hiện nhiều cam kết, hiệp định với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, trong đó tập trung vào các lĩnh vực thương mại, thuế, viện trợ phát triển, ngân hàng. Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc ký các cam kết, điều ước với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước có quan hệ truyền thống mà ngày càng mở rộng quan hệ trên toàn thế giới; không chỉ cam kết với các quốc gia mà còn thực hiện cam kết với các khu vực, các tổ chức quốc tế; không chỉ cam kết các lĩnh vực cho sự phát triển quốc gia mà còn cam kết giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ngoài ra, nhà nước còn có nhiều chính sách tích cực đối với người Việt Nam ở nước ngoài để phát huy nguồn lực quý báu này cho sự phát triển đất nước như: quan tâm, bảo vệ cộng đồng người Việt ở nước ngoài, động viên kiều bào trở về đầu tư xây dựng quê hương, gây quỹ vì người nghèo, nạn nhân chất độc da cam, ủng hộ phát triển kinh tế - xã hội đất nước… Mặc dù vậy, vai trò của nhà nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, các biện phát huy nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài còn bộc lộ những hạn chế nhất định là rào cản làm mất đi sức hấp dẫn, thông thoáng của môi trường đầu tư ở nước ta, khiến cho việc thu hút ngoại lực chưa thực sự chủ động. Về nhận thức, không ít các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp còn thiếu hiểu biết về nội dung cam kết, bước đi, lộ trình thực hiện cam kết, hội nhập quốc tế. Về thực tiễn, việc xây dựng chiến lược tổng thể, chuẩn bị điều kiện về mọi mặt: luật pháp, kinh tế, đào tạo nhân lực… để chủ động, sẵn sàng thích ứng với các cam kết quốc tế tiến hành còn chậm so với yêu cầu. Nhà nước còn thiếu các cơ chế, chính sách pháp luật đồng bộ để thúc đẩy các doanh nghiệp, các thành phần nâng cao năng lực phù hợp với yêu cầu triển khai các cam kết quốc tế. Ngoài ra, việc xúc tiến các công việc theo lộ trình thực hiện cam kết song phương, đa phương của không ít các cơ quan, doanh nghiệp còn chậm và chưa đảm bảo tin cậy… Việc thu hút đầu tư nước ngoài đạt kết quả tốt đẹp song chưa thật bền vững, ổn định do chịu ảnh của tình hình kinh tế trong thế giới trong từng giai đoạn. Nếu không có chiến lược, chính sách phù hợp, tầm nhìn dài hạn thì việc đầu tư phát triển sẽ bị động, ảnh hưởng đến việc đảm bảo nền kinh tế độc lập, tự chủ. 16 3.1.3. Thực trạng vai trò của nhà nước trong việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước trong việc khai thác, sử dụng nguồn lực con người, vốn, khoa học công nghệ - những nguồn lực quan trọng nhất để đất nước phát triển theo chiều sâu, có thể khái quát đánh giá vai trò của nhà nước trong việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực như sau: Nhìn chung, nhà nước đã có nhiều cơ chế, chính sách, biện pháp tích cực để khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ngày càng đạt kết quả tốt đẹp. Các nguồn lực cho sự phát triển đều được huy động ngày càng lớn đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sử phát triển. Nhiều nguồn lực được nhà nước đưa vào khai thác và sử dụng sau so với các nước trên thế giới nhưng lại có những bước tiến dài so với nhiều quốc gia khác (công nghệ thông tin, viễn thông…), đóng góp tích cực vào sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém nhất định về trình độ, năng lực quản lý, tổ chức bộ máy của nhà nước đã làm cho việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội, còn thất thoát, lãng phí nhiều nguồn lực, chưa đáp ứng được yêu cầu phát huy nội lực và ngoại lực để tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đảm bảo phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững. 3.1.4. Thực trạng vai trò của nhà nước trong định hướng việc phát huy bền vững nội lực, ngoại lực đảm bảo mục tiêu phát triển của đất nước Để quản lý, định hướng và kích thích việc phát huy các nguồn lực cho sự phát triển ở những giai đoạn tiếp theo, nhà nước sử dụng các công cụ quản lý cơ bản là: kế hoạch, chiến lược và các chính sách vĩ mô, đón bẩy kinh tế. Thông qua việc đánh giá thực trạng vai trò của nhà nước trong định hướng việc phát huy nội lực, ngoại lực bằng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, pháp luật và các chính sách vĩ mô, có thể rút ra nhận xét như sau: Nhà nước bằng việc sử dụng công cụ pháp luật, kế hoạch hóa, các chính sách điều tiết vĩ mô đã quản lý ngày càng tốt hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời định hướng việc phát huy nội lực và ngoại lực phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; kích thích việc kết hợp nội lực và ngoại lực hài hòa, hiệu quả, vững chắc và tiếp tục phát triển trong những giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, những hạn chế của Nhà nước trong việc sử dụng các công cụ này cũng làm hạn chế tính khoa học, hợp lý trong việc khai thác, phân bổ nguồn lực; kiểm soát yếu kém gây ra tình trạng lãng phí trong chi tiêu ngân sách và tiêu dùng xã hội; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý so với thực tiễn yêu cầu của từng vùng cũng như cân đối lớn quốc gia tầm nhìn ngắn hạn, trung và dài hạn. Mặt khác, việc thiếu một kế hoạch tổng thể, dài hạn cũng làm giảm vai trò của nhà nước trong việc định hướng, kích thích việc phát huy nội lực và ngoại lực 17 3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực thời kỳ hội nhập hiện nay Từ thực trạng nêu trên, với những kết quả đã đạt được và những hạn chế, yếu kém chưa được khắc phục, vai trò của Nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong điều kiện hội nhập đứng trước những vấn đề đặt ra hết sức cấp bách, đó chính là những mâu thuẫn nảy sinh từ quá trình Nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực, hội nhập quốc tế, hướng tới phát triển bền vững đất nước. Một là, mâu thuẫn giữa vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa nảy sinh từ quá trình phát huy nội lực và ngoại lực trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Chủ trương về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng được hình thành từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 là quan điểm xuyên suốt được Đảng ta khẳng định cho đến nay. Đó là định hướng, là yêu cầu cho quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên quá trình phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế đang tạo ra những tiền đề khách quan để hình thành xu hướng tư bản chủ nghĩa một cách tự phát. Đây là mâu thuẫn ảnh hưởng đến định hướng phát triển của quốc gia, đòi hỏi nhà nước phải nâng cao vai trò quản lý, điều tiết việc phát huy nội lực và ngoại lực để giải quyết mâu thuẫn này. Hai là, mâu thuẫn giữa các chế định quốc gia và các chế định quốc tế trong quá trình nhà nước phát huy nội lực, ngoại lực, tích cực hội nhập với thế giới. Việc phát huy nội lực và ngoại lực đòi hỏi một mặt chúng ta phải tập trung phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh trong nước, xây dựng và phát triển đất nước trên cơ sở các chế định quốc gia nhằm bảo đảm lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ trong phát triển kinh tế, giữ vững bản sắc trong phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề an ninh, chính trị, xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mỗi công dân Việt Nam thông qua hệ thống luật pháp và các quy phạm pháp luật của quốc gia. Đồng thời, việc phát huy nội lực và ngoại lực cũng phải tuân thủ theo các chế định quốc tế, góp phần giải quyết các vấn đề toàn cầu, giải quyết hài hòa lợi ích dân tộc và các vấn đề quốc tế. Do đó, trong quá trình phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế, nhà nước luôn phải chú ý giải quyết mâu thuẫn giữa các chế định quốc gia và các chế định quốc tế Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế với những hạn chế của nhà nước ta hiện nay. Từ những mâu thuẫn nêu trên có thể thấy, quá trình phát huy nội lực và ngoại lực ở nước ta trong những năm qua đã làm nảy sinh những mối nguy cơ 18 đe dọa và làm ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò, phạm vi tác động của nhà nước, đòi hỏi nhà nước phải tự đổi mới, nâng cao năng lực để giải quyết những mâu thuẫn đó. Mặt khác, hiện nay, bản thân việc phát huy nội lực và ngoại lực gặp rất nhiều khó khăn đòi hỏi phải nâng cao vai trò của nhà nước để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ quan trọng này. Tiểu kết chương 3 Trải qua gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước ta đã đạt nhiều thành tựu trong việc phát huy nội lực và ngoại lực, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Nhà nước ta không ngừng hiện thực hóa chủ trương của Đảng về phát huy nội lực và ngoại lực, chủ động hội nhập quốc tế bằng nhiều chính sách, biện pháp, ngày càng phát huy được sức mạnh nội lực; chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực; khai thác, sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn các nguồn ngoại lực, đồng thời định hướng, kích thích việc kết hợp nội lực và ngoại lực ngày càng mở rộng và bền vững. Bên cạnh những thành tựu đạt được, vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực cũng bộc lộ nhiều hạn chế bộ như: máy cồng kềnh, chậm thích ứng với những biến động của thế giới; trình độ quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát huy nội lực và ngoại lực; hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; công tác cán bộ còn chậm đổi mới; công tác tổ chức thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực còn lúng túng, thiếu chủ động; tình trạng tham nhũng, lãng phí ảnh là rào cản đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực. Những hạn chế của nhà nước làm cho kết quả việc phát huy nội lực và ngoại lực chưa được như mong đợi. Cụ thể là: Trong việc tạo môi trường để phát huy nội lực và ngoại lực còn nhiều hạn chế, bất cập làm cho nội lực quốc gia chưa được phát huy đầy đủ, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của quốc gia, chưa ngang tầm đòi hỏi của thực tiễn quá trình hội nhập. Nhiều nguồn nội lực được khơi dậy, phát huy nhưng chưa vững chắc, chưa tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển bền vững. Theo đánh giá của Đảng, việc phát huy nội lực “còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước, hoạt động kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập”. Việc thu hút ngoại lực chưa thực sự chủ động, còn bị động, lúng túng trước các tình huống, diễn biến bất ngờ liên quan đến luật pháp, thông lệ quốc tế và những vấn đề đặt ra trong quan hệ, hợp tác với các nước. Chúng ta chưa tạo được quan hệ thật sự ổn định, lâu dài, vững chắc với các nước lớn; chưa xây dựng được mối quan hệ lợi ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau với các nước này. Chúng ta chưa coi trọng đúng mức và chủ động thu hút các nguồn đầu tư gián tiếp. Việc xử lý một số vấn đề trong nước không tính đến phản ứng của
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan