Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tóm tắt luận án tiến sĩ Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉ...

Tài liệu Tóm tắt luận án tiến sĩ Liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau

.PDF
28
112
66

Mô tả:

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM PHÙNG GIANG HẢI LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN TÔM THƯƠNG PHẨM Ở TỈNH CÀ MAU CHUYÊN NGANH: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số : 62 62 01 15 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ HÀ NỘI - 2015 Công trình hoàn thành tại: HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM Người hướng dẫn: 1. PGS.TS. PHẠM BẢO DƯƠNG 2. TS. NGUYỄN THỊ DƯƠNG NGA Phản biện 1: GS. TS. HOÀNG NGỌC VIỆT Trường Đại học kinh tế quốc dân Phản biện 2: PGS. TS. NGÔ THỊ THUẬN Học viện Nông nghiệp Việt Nam Phản biện 3: PGS. TS. NGUYỄN KHÁNH DOANH Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên Luận án được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện họp tại: Học viện Nông nghiệp Việt Nam Vào hồi giờ, ngày tháng năm 2015 Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam - Thư viện Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2011). Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi thủy sản vùng đồng bằng sông Cửu Long, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 174 (II), 93-98. 2. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2013). Tăng cường liên kết giữa sản xuất và chế biến tôm ở tỉnh Cà Mau: Một số vấn đề lí luận và bài học kinh nghiệm, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 188 (II), 33-39. 3. Phùng Giang Hải và Phạm Bảo Dương (2014). Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm ở tỉnh Cà Mau, Tạp chí Khoa học và Phát triển 2014, tập 12, số 2:231-238 PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1.1. TÍNH CẤP THIẾT Ngành tôm của Việt Nam đã và vẫn đang tiếp tục gặt hái được nhiều thành công đáng kể, đóng góp không nhỏ cho sự phát triển chung của đất nước (Tổng cục Thủy sản, 2013). Tuy nhiên, ngành này hiện cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng, đặc biệt là về đảm bảo nguồn tôm nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao cho chế biến. Số liệu thống kê của tỉnh Cà Mau - tỉnh có nghề nuôi tôm lớn hàng đầu Việt Nam cho thấy nguồn tôm nguyên liệu vào thời điểm chính vụ cũng chỉ đáp ứng tối đa 60% công suất các nhà máy chế biến trong tỉnh (Hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Cà Mau - CASEP, 2013). Nguyên nhân là do phần lớn các diện tích nuôi tôm hiện nay vẫn phát triển tự phát, manh mún với cơ sở hạ tầng (CSHT) ít được đầu tư bài bản, quy trình nuôi không thống nhất nên dịch bệnh nhiều, chất lượng tôm thấp. Sự thiếu kết nối giữa khu vực chế biến và khu vực sản xuất nguyên liệu trong ngành tôm cũng góp phần tạo nên sự mất cân đối nghiêm trọng về cung cầu giữa 2 khu vực này. Vùng đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) hiện có 206 nhà máy chế biến thủy sản, chủ yếu là chế biến cá tra và tôm, với tổng công suất chế biến hơn 1,1 triệu tấn/năm (Viện KT&QHTS, 2012). Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh số lượng các nhà máy chế biến trong khi nguồn nguyên liệu có hạn và ngày càng bị hạn chế do sự gia tăng các rủi ro từ thiên nhiên, dịch bệnh… khiến cho các nhà máy chế biến ngày càng lâm vào cảnh thiếu nguyên liệu triền miên. Tại Cà Mau, năm 2013 sản lượng chế biến của toàn tỉnh Cà Mau là khoảng 85 ngàn tấn tương đương với 40% tổng công suất thiết kế của các nhà máy chế biến tại Cà Mau (CASEP, 2014). Rõ ràng, tình trạng phát triển tự phát cả về cung cấp nguyên liệu và chế biến đang đe dọa đến tính bền vững của cả chuỗi sản phẩm với tình trạng “khát nguyên liệu” thường xuyên. Mặt khác, thiếu liên kết còn tạo ra khoảng trống lớn trong giám sát chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến - theo thống kê, chỉ trong 10 tháng đầu năm 2014, các doanh nghiệp chế biến tôm của Cà Mau đã phải bị trả lại hơn 1,1 ngàn tấn sản phẩm do vi phạm các quy định về dư lượng kháng sinh, ước thiệt hại khoảng 12,3 triệu USD (UBND tỉnh Cà Mau, 2014). Tuy nhiên, con số thiệt hại này mới chỉ là “bề nổi của tảng băng” vì những thiệt hại về uy tín của sản phẩm tôm Việt Nam cộng với những chi phí phát sinh do tỷ lệ tôm Việt Nam bị đưa vào kiểm nghiệm trước khi nhập khẩu tăng lên sẽ còn lớn hơn gấp nhiều lần. Trong khi thiếu liên kết giữa khâu chế biến với khâu nuôi tôm là một trong những nguyên nhân chính gây mất cân đối cung cầu thì thiếu liên kết giữa những người nuôi tôm 1 cũng làm mất đi khả năng tạo ra được một lượng cung tôm đủ lớn và ổn định, đủ tiêu chuẩn chất lượng. Tính đến hết năm 2013, toàn tỉnh Cà Mau có hơn 266 ngàn ha nuôi tôm, chủ yếu theo hình thức quảng canh và mô hình tổ chức sản xuất chính là các hộ gia đình cá thể (Sở NN&PTNT Cà Mau, 2013). Chính hình thức sản xuất này đã tạo nên tính manh mún, nhỏ lẻ và phân tán của hoạt động sản xuất, dẫn đến khả năng phát triển CSHT đồng bộ và hiệu quả là rất thấp ảnh hưởng lớn đến sản lượng tôm nuôi do năng suất thấp và rủi ro cao - năng suất bình quân tôm nuôi của vùng Cà Mau năm 2013 chỉ đạt khoảng 500 kg/ha (UBND tỉnh Cà Mau, 2013). Đã có nhiều nghiên cứu về phát triển liên kết trong sản xuất và chế biến tôm. Nghiên cứu “Phân tích chuỗi giá trị tôm sú ở Đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Lê Xuân Sinh và cộng sự năm 2010 đã đề xuất một số giải pháp liên quan đến tăng cường năng lực và vai trò cho từng tác nhân trong chuỗi để hỗ trợ phát triển liên kết chuỗi. Nghiên cứu “Liên kết nông dân trong ngành tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Hồ Thị Minh Hợp năm 2012 đã kiến nghị một số giải pháp liên quan đến quy hoạch, dự báo, phát triển tổ chức nông dân… nhằm hỗ trợ phát triển liên kết trong ngành này. Nghiên cứu “Phân tích chuỗi giá trị trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ cá tra, tôm sú” của tác giả Lê Văn Gia Nhỏ và cộng sự năm 2012 cũng tiếp cận sâu về các vấn đề liên kết trong ngành tôm ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, đến nay chưa có một nghiên cứu nào cụ thể và toàn diện về phát triển liên kết theo cả chiều ngang và dọc trong sản xuất và chế biến tôm ở Cà Mau - địa bàn cung cấp đến hơn 30% cả về sản lượng và diện tích nuôi tôm của cả nước. Các kết quả nghiên cứu trước đây chưa chỉ rõ và phân tích được về các yếu tố ảnh hưởng để có thể xây dựng các giải pháp tăng cường liên kết trong lĩnh vực này một cách hiệu quả và bền vững. Trong bối cảnh như vậy, đề tài luận án là rất cần thiết và cấp bách nhằm đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm ở tỉnh Cà Mau và góp phần xây dựng cơ sở khoa học đề xuất các giải pháp, chính sách hỗ trợ phát triển bền vững cả ngành sản xuất, chế biến và xuất khẩu tôm Việt Nam. 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1.2.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở tỉnh Cà Mau. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể  Hệ thống hóa và phát triển hệ thống lý luận và thực tiễn về liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm; 2  Đánh giá được thực trạng liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau;  Đề xuất giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau. 1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU 1) Hệ thống lý luận và thực tiễn về liên kết ở Việt Nam bao gồm những nội dung gì? 2) Có gì khác biệt trong lý luận và thực tiễn về liên kết trong trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau? 3) Thực trạng liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau hiện này như thế nào? 4) Những yếu tố nào ảnh hưởng đến phát triển liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau? 5) Cần có giài pháp gì để có thể tăng cường được liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau 1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1.4.1. Đối tượng nghiên cứu  Các chính sách về liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm;  Các vấn đề lý luận và thực tiễn trong liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm;  Các tác nhân tham gia liên kết trong ngành tôm thương phẩm. 1.4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Nghiên cứu tập trung trong tỉnh Cà Mau - tỉnh đứng đầu về nuôi tôm của cả nước. Về thời gian: Các số liệu thống kê thứ cấp được thu thập trong khoảng thời gian 5 năm từ 2008-2013 và thu thập số liệu sơ cấp tại thời điểm năm 2013. Về nội dung: Nghiên cứu sẽ chỉ tập trung phân tích, đánh giá về các liên kết theo chiều ngang giữa những người nuôi tôm, giữa các doanh nghiệp chế biến và liên kết theo chiều dọc giữa người nuôi và doanh nghiệp chế biến tôm ở Cà Mau. Nghiên cứu cũng sẽ chỉ tập trung vào đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường liên kết giữa sản xuất và chế biến tôm ở Cà Mau. Các giải pháp nhằm phát triển ngành hàng tôm nói chung không thuộc phạm vi nghiên cứu này. 1.5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Về lí luận, luận án đã xác định bản chất của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm không khác nhiều so với các liên kết khác 3 trong nông nghiệp. Tuy nhiên, do đặc trưng của “con tôm” là đối tượng sản xuất có giá trị cao, độ nhạy cảm với dịch bệnh lớn, yêu cầu về mặt bằng sản xuất phức tạp… nên liên kết trong sản xuất và chế biến cần có thêm một số điều kiện: i) Diện tích nuôi tôm phải đủ lớn để tham gia liên kết dọc trực tiếp với các doanh nghiệp chế biến; ii) Vị trí các ao nuôi tôm phải gần nhau để có thể tham gia liên kết ngang; iii) Nhà nước phải có vai trò thường xuyên và quan trọng (chứng thực, trọng tài, hỗ trợ…) để đảm bảo các hợp đồng liên kết luôn có hiệu lực và hỗ trợ kịp thời cho các liên kết trong trường hợp cần thiết. Về thực tiễn, luận án đã xác định diện tích nhỏ lẻ, manh mún là một trong những yếu tố quan trọng cản trở sự phát triển của các liên kết và do vậy ảnh hưởng của quy hoạch đối với sự phát triển của các liên kết cũng đáng kể hơn. Về CSHT, giao thông mặc dù không có ý nghĩa thống kê nhưng vẫn cho thấy tác động thuận chiều đối với khả năng tăng cường liên kết trong nuôi và chế biến tôm. Khung pháp lí có tác động lớn nhưng theo xu hướng tiêu cực đối với sự hình thành và phát triển của các loại hình liên kết do sự lỏng lẻo trong các quy định và hiệu quả xử lí vi phạm thấp. Người nuôi tôm không liên kết có mức chi phí cao hơn đáng kể so với chi phí của những người nuôi tôm có liên kết. Kích cỡ tôm bình quân thu hoạch từ khu vực nuôi có liên kết lớn hơn so với khu vực nuôi không liên kết. Tóm lại, các yếu tố chi phí thấp hơn, chất lượng tôm thu hoạch cao hơn và giá bán tốt hơn là những yếu tố chủ chốt thu hút sự tham gia vào các liên kết đối với những người nuôi tôm thương phẩm ở Cà Mau. PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 2.1.1. Khái niệm, bản chất, hình thức và vai trò của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm 2.1.1.1. Liên kết ngang trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm Về khái niệm, liên kết ngang là liên kết trong đó nhiều người nuôi tôm hoặc nhiều doanh nghiệp chế biến tôm thiết lập các quan hệ với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ theo chiều ngang giữa những người nuôi tôm hoặc giữa csac doanh nghiệp chế biến tôm nhằm tăng quy mô sản xuất, hướng tới hiệu quả cao hơn trong nuôi tôm hoặc trong chế biến, thương mại tôm. Về bản chất, liên kết giữa những người nuôi tôm với nhau yêu cầu các diện tích đất sản xuất được đưa vào liên kết trong phải có vị trí gần nhau, thống nhất lịch thời vụ và giải pháp kĩ thuật trong sản xuất. Liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến tôm với nhau cũng tương tự tuy nhiên do mức độ cạnh tranh quá cao nên các doanh nghiệp chế biến tôm ở đây chưa có nhiều động cơ để liên kết với nhau một cách thực sự. 4 Về nội dung, nội dung liên kết ngang thường gắn với các vấn đề về tổ chức sản xuất như lịch thời vụ, sử dụng CSHT, áp dụng quy trình kĩ thuật hoặc thống nhất phương thức mua bán để tập trung sản lượng, đảm bảo chất lượng tạo cơ sở để người nuôi tôm nhỏ lẻ có thể tiếp cận các nguồn đầu vào tốt nhất và tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất. Về hình thức, liên kết ngang giữa những người nuôi tôm là hình thức liên kết giữa những người nuôi tôm trong cùng một địa bàn. - Vị trí Diện tích Thời vụ CSHT Hình 2.1. Liên kết ngang giữa những người nuôi tôm Liên kết ngang giữa các doanh nghiệp chế biến được hình thành giữa các doanh nghiệp có chung như thị trường, sản phẩm… - Nguyên liệu - Thị trường Hình 2.2. Liên kết ngang giữa các doanh nghiệp chế biến tôm 2.1.1.2. Liên kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm Về khái niệm, liên kết dọc là liên kết giữa 2 khâu kế tiếp nhau trong chuỗi sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra lợi ích cao hơn cho tất cả các bên tham gia. Về bản chất, doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm phải thực hiện nghĩa vụ của mình để nhận được lợi ích từ phía đối tác liên kết (cũng 5 chính là nghĩa vụ của đối tác liên kết) trong liên kết dọc. Về nội dung, liên kết dọc giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm gắn với nguyên tắc “phân công” trách nhiệm và “phân bổ” quyền lợi giữa các bên tham gia liên kết. Về hình thức liên kết dọc thường chỉ áp dụng với những người nuôi tôm có quy mô sản xuất lớn hoặc thuộc những vùng nuôi tôm tập trung - Tôm Giống Vốn (tiền mặt) Vật tư đầu vào Kĩ thuật Hình 2.3. Liên kết trực tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm Liên kết “gián tiếp” là hình thức doanh nghiệp chế biến tôm liên kết với người nuôi tôm thông qua các tổ chức đại diện (như HTX, tổ hợp tác…) Giống, vật tư, kĩ thuật Tôm Cam kết, thỏa thuận Giống, vật tư, kĩ thuật Hỗ trợ, giám sát Hình 2.4. Liên kết gián tiếp giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm 2.1.1.3. Vai trò của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm Đối với người sản xuất tôm nguyên liệu - Đảm bảo được đầu ra cho sản phẩm - Đảm bảo được đầu vào cho sản xuất 6 - Tăng được thu nhập Đối với doanh nghiệp chế biến - Đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định và chất lượng cao cho chế biến - Giảm chi phí giá thành nguyên liệu đầu vào - Giảm thiểu được các rủi ro về nguồn nguyên liệu trong lập kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh lâu dài và ổn định. 2.1.1.4. Các tác nhân trong liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm Người nuôi tôm bao gồm các hộ gia đình, các tổ chức, doanh nghiệp tham gia nuôi tôm. Doanh nghiệp chế biến tôm bao gồm các doanh nghiệp có hoạt động chế biến tôm. Các tác nhân khác bao gồm các đại lí, thương lái, chính quyền địa phương hay các tổ chức về tín dụng, chuyển giao TBKT… 2.1.1.5. Đặc điểm của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm - Các tác nhân tham gia liên kết không được cách nhau quá xa, đặc biệt là đối với liên kết ngang; - Đầu tư của các tác nhân cùng tham gia trong một liên kết cần đồng bộ một cách tương đối; - Quy trình kĩ thuật cần được thống nhất và đáp ứng các tiêu chuẩn đã định trên thực tế; - Rủi ro trong ngành này là rất cao gắn với các vấn đề về dịch bệnh, môi trường, thời tiết khí hậu, thị trường… - Liên kết rất dễ bị phá vỡ do sức hút của lợi nhuận tức thời. 2.1.2. Tính hiệu quả, hiệu lực và bền vững của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm Tính hiệu quả là yếu tố quyết định đến sự tồn tại của liên kết, đảm bảo mục tiêu làm cho tất cả các bên tham gia liên kết có được lợi ích tốt hơn so với khi tổ chức sản sản xuất kinh doanh cá thể. Tính hiệu lực là mức độ thực thi các nghĩa vụ của doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm theo cam kết trong hợp đồng. Tính bền vững là khả năng tồn tại của liên kết trên cơ sở tự nguyện, tự chịu trách nhiệm. 2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN TÔM 2.2.1. Tổng quan các bài học kinh nghiệm về phát triển liên kết trong sản xuất và chế biến tôm i)Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan: được xây dựng với mô hình 7 phối hợp đa dạng cả liên kết dọc và ngang nhằm đảm bảo được quy mô sản lượng và chất lượng vật tư đầu vào và sản phẩm đầu ra. Vai trò của Nhà nước được nhấn mạnh trong hỗ trợ phát triển liên kết. ii) Bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc: gắn với mô hình các "Doanh nghiệp đầu rồng" (Dragon-head-firms) nhằm đảm bảo tiềm lực để dẫn dắt cả chuỗi liên kết trên cơ sở chính sách công nghiệp hóa nông nghiệp. iii) Bài học kinh nghiệm từ Inđônêxia: mô hình trang trại trung tâm được phát triển mạnh nhằm khắc phục điểm yếu về tính nhỏ lẻ, phân tán của đất sản xuất. Các doanh nghiệp đầu tư cho các diện tích đất sản xuất của người dân và vận hành như hình thức BOT. iv) Bài học kinh nghiệm từ Đài Loan: liên kết được xây dựng dựa trên lòng tin giữa các bên tham gia vốn được hình thành dựa trên thông tin minh bạch cộng với sự hỗ trợ của Chính phủ nhằm tạo dựng được sự hiểu biết lẫn nhau và gắn kết giữa các đối tác liên kết. v) Kinh nghiệm trong nước về liên kết: cũng gắn với những yếu tố về diện tích, hiệu quả/lợi ích và tính hiệu lực của các cam kết. 2.2.2. Bài học rút ra - Doanh nghiệp luôn đóng vai trò hạt nhân, quyết định sự thành công của liên kết. - Cần sử dụng hợp đồng bằng văn bản, có công chứng; - Nội dung của các hợp đồng liên kết cần đề cập đến cả vấn đề chia sẻ rủi ro; - Cần có khung pháp lí rõ ràng để tránh tối đa các tranh chấp phát sinh và có cơ sở để xử lí khi cần thiết; - Hợp đồng liên kết cần linh hoạt về nội dung và hình thức liên kết; - Nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng trong phát triển liên kết. PHẦN 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. CHỌN ĐIỂM NGHIÊN CỨU Cà Mau là tỉnh đứng đầu cả nước về nuôi tôm chiếm khoảng 35% diện tích và gần 30% sản lượng tôm nuôi của cả nước. Cà Mau có 38 nhà máy chế biến với tổng công suất thiết kế hơn 190 ngàn tấn. Kim ngạch xuất khẩu tôm của Cà Mau năm 2013 đạt hơn 1 tỷ USD, chiếm gần 1/3 kim ngạch xuất khẩu tôm của cả nước. 3.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU LIÊN KẾT TRONG SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN TÔM THƯƠNG PHẨM - Đánh giá thực trạng liên kết ngang trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm - Đánh giá thực trạng liên kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm 8 - Đánh giá hiệu quả của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm 3.3. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN 3.3.1. Tiếp cận theo loại liên kết Nhằm nghiên cứu các mô hình liên kết theo chiều ngang và dọc. 3.3.2. Tiếp cận kinh tế thể chế Nhằm nghiên cứu các vấn đề về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. 3.3.3. Khung phân tích Năng lực và nhu cầu của người nuôi tôm và các doanh nghiệp chế biến là cơ sở chính để cấu thành nên các liên kết. Nhà nước Người SX tôm Liên kết ngang Người SX tôm Tổ chức tín dụng / Dịch vụ KHKT Giải pháp tăng cường LIÊN KẾT Liên kết dọc Nhà máy CBXK tôm Liên kết ngang Thị trường Nhà máy CBXK tôm Hình 3.1. Khung phân tích về liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau 3.4. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU Số liệu đã công bố: bao gồm các loại số liệu thống kê, kết quả nghiên cứu, các văn bản chính sách… đã được phát hành được thu thập từ các cơ 9 quan, tổ chức có liên quan từ trung ương đến địa phương. Số liệu mới: bao gồm các số liệu sơ cấp về tình hình sản xuất, chế biến tôm tại Cà Mau được khảo sát trực tiếp tại các địa phương trong Tỉnh là kết quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2013. Bảng 3.1. Phân bố mẫu khảo sát Huyện Đầm Cái Tp. Tr. Năm Ngọc Thới Dơi Nước Cà Văn Căn Hiển Bình Loại mẫu Mau Thời Liên kết ngang 8 7 9 3 13 3 Liên kết dọc 119 14 31 Không liên kết 40 20 Phú Tổng Tân cộng 4 47 164 60 - Các cơ chế chính sách phát triển liên kết - Đầu tư công - Dịch vụ công - Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết ngang - Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết dọc 3.5. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH - Thống kế mô tả: được sử dụng nhằm mô tả hiện trạng về nuôi tôm, chế biến tôm và tình hình liên kết giữa nuôi và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau. - So sánh: chủ yếu được sử dụng để so sánh sự khác biệt giữa 2 loại hình nuôi tôm có và không có liên kết. - Phân tích định tính: được sử dụng trong luận án để mô tả và phân loại, kết nối các khái niệm và hiện tương và đưa ra các luận điểm, luận cứ làm nền tảng cho việc đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm ở Cà Mau - Phân tích định lượng: được sử dụng để đánh giá tác động của một số yếu tố chính trong sản xuất và chế biến tôm ở Cà Mau ảnh hưởng đến khả năng tham gia liên kết của các tác nhân (người nuôi tôm và doanh nghiệp chế biến tôm). 3.6. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU NGHIÊN CỨU Nhóm chỉ tiêu phản ánh thực trạng sản xuất và chế biến tôm thương phẩm chủ yếu đánh giá khả năng và nhu cầu tham gia liên kết. Nhóm chỉ tiêu phản ánh các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm bao gồm các vấn đề về pháp lí, nguồn lực, nhận thức… Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả, hiệu lực của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm thương phẩm bao gồm các vấn đề về chi phí, doanh thu cũng như mức độ thực hiện và xử lí các vi phạm hợp đồng. 10 PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. KẾT QUẢ 4.1.1. Đặc điểm của các liên kết ngang trong sản xuất và chế biến tôm Liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến tôm được thể hiện bằng sự tham gia của các doanh nghiệp này vào các Hiệp hội. Hầu hết các doanh nghiệp chế biến tôm đã tham gia các Hiệp hội này tuy nhiên, mức độ liên kết thực sự giữa các doanh nghiệp này còn rất hạn chế. Liên kết giữa những người nuôi tôm là nhằm tăng quy mô sản xuất, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng CSHT chung… đang có xu hướng phát triển tốt với các hỗ trợ mạnh của Nhà nước. 4.1.2. Quyền lợi và nghĩa vụ trong liên kết ngang trong sản xuất và chế biến tôm Quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp chế biến tham gia Hiệp hội được quy định khá rộng tuy nhiên các chế tài để cưỡng chế thực hiện lại rất lỏng lẻo. Các Hiệp hội cũng không có chức năng xử lí về hành chính nên không tạo được sức ép cần thiết đối với những hội viên không thực hiện đúng cam kết. Các HTX (liên kết ngang của những người nuôi tôm) đã nhận được nhiều hỗ trợ về đất đai, vốn, kĩ thuật… để phát triển sản xuất và thu hút người nuôi tôm tham gia. Người nuôi tôm cũn phải góp vốn vào các liên kết ngang này để đảm bảo cho sự tham gia của mình. Vốn bằng đất đai, tiền mặt là những đóng góp chính và lao động cũng đã được sử dụng làm vốn góp với những người không có cả đất và tiền. 4.1.3. Kết quả tham gia liên kết ngang trong sản xuất và chế biến tôm Nhìn chung, những người nuôi tôm vào các liên kết ngang đều thu được những lợi ích nhất định, đặc biệt là trong việc giảm chi phí và tăng hiệu quả sử dụng các CSHT chung và quản lí dịch bệnh. Bảng 4.1. Hiệu quả sử dụng giống và thức ăn của HTX so với sản xuất cá thể Số HTX Tỷ lệ (%) Thành tiền (tr.đ) Giảm <10% 9 19,1 36,6 Giống Giảm 1020% 24 51,1 65,3 Giảm >20% 14 29,8 56,9 Không giảm 3 6,4 - Thức ăn Giảm <10% 35 74,5 78,7 Giảm 10-20% 9 19,1 81,4 Có hơn 19% những người nuôi tôm tham gia các liên kết ngang giảm được dưới 10% chi phí giống, hơn 51% giảm được từ 10-20% chi phí giống và gầnn 30% giảm được tới hơn 20% chi phí giống. Giá trị bằng tiền tương đương với 37-57 triệu đồng/ha. Về chi phí thức ăn, có gần 76% thành viên các liên kết ngang giảm được đến 10% chi phí thức 11 ăn và hơn 19% giảm được 10-20% chi phí thức ăn khi tham gia nuôi tôm trong các liên kết ngang tương đương với 79-81 triệu đồng/ha. Bảng 4.2. Hiệu quả sử dụng thuốc, hóa chất của HTX so với sản xuất cá thể Số HTX Tỷ lệ (%) Thành tiền (tr.đ) Không giảm 9 19,1 - Thuốc Giảm <10% 20 42,6 1,2 Giảm 10-20% 18 38,3 3,4 Hóa chất Không Giảm giảm <10% 8 39 17,0 83,0 9,4 Gần 43% những người nuôi tôm tham gia HTX giảm được dưới 10% và hơn 38% giảm được từ 10-20% chi phí thuốc cho nuôi tôm và hơn 19% không giảm được chi phí này khi tham gia HTX trong khi 83% số người nuôi tôm giảm được dưới 10% chi phí hóa chất và 17% còn lại không giảm được chi phí này. Bảng 4.3. Hiệu quả về sử dụng lao động của HTX so với sản xuất cá thể Đơn vị: % Số HTX Tỷ lệ (%) Thành tiền (tr.đ) Không giảm 19 40,4 - Lao động Giảm <10% 15 31,9 8,0 Giảm 10-20% 13 27,7 16,0 Hơn 40% các HTX không tạo được ra hiệu suất sử dụng lao động tốt hơn so với hoạt động cá thể, gần 28% giảm được từ 10-20% tương đương với 16 triệu đồng/ha nuôi tôm và gần 32% giảm được dưới 10% tổng chi phí lao động tương đương với 8 triệu đồng/ha nuôi tôm so với khi còn sản xuất theo hình thức cá thể. Bảng 4.4. Hiệu quả về sử dụng CSHT, quản lí dịch bệnh và tiêu thụ sản phẩm của HTX so với sản xuất cá thể CSHT Quản lí dịch bệnh Tiêu thụ Không Giảm Không Giảm Giảm Giảm Tăng giá Tăng giá giảm >20% giảm <10% 10-20% >20% <10% 10-20% Số HTX 10 37 8 14 23 2 43 4 Tỷ lệ (%) 21,3 78,7 17,0 29,8 48,9 4,3 91,5 8,5 Gần 79% số người nuôi tôm tham gia các HTX đạt được mức tăng hiệu quả sử dụng các công trình CSHT trên 20% và hơn 21% các thành viên còn lại không giảm được chi phí này. Chỉ có hơn 4% số thành viên các HTX đạt được mức giảm >20% các chi phí có liên quan đến dịch bệnh so với khi sản xuất cá thể trong khi phần lớn (gần 49%) giảm được từ 10-20% và gần 30% giảm được dưới 10% tổng chi phí chi phí quản lí 12 dịch bệnh. Gần 92% thành viên các liên kết xác nhận tăng được giá bán dưới 10% và gần 9% còn lại đạt được mức tăng từ 10-20% giá bán so với khi nuôi tôm không liên kết. 4.1.4. Đặc điểm của các liên kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm Hơn 85% người nuôi tôm đã kí được hợp đồng trực tiếp với các đối tác liên kết nhưng cũng vẫn còn gần 15% buộc phải thông qua các hình thức đại diện để gián tiếp kí hợp đồng liên kết. Tuy nhiên, nếu xem xét đúng bản chất của ngành tôm (hơn 90% sản lượng tôm phải thông qua nhà máy chế biến trước khi đưa ra tiêu dùng) thì tình hình sẽ rất khác - số người nuôi tôm liên kết trực tiếp với doanh nghiệp chế biến chỉ là hơn 30% và gần 70% còn lại đều là liên kết gián tiếp. 4.1.5. Quyền lợi và nghĩa vụ trong liên kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm Chỉ có gần 20% các đại lí cung ứng vật tư không quan tâm đến nội dung thu mua tôm mà chỉ nhằm mục tiêu bán các loại vật tư đầu vào cho nuôi tôm. Còn lại, dù trực tiếp liên kết với các doanh nghiệp chế biến hay gián tiếp thông qua các đại lí thì cả hai mục tiêu chính của liên kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm vẫn là cung ứng vật tư và tiêu thụ tôm nuôi. 4.1.6. Kết quả tham gia liên kết dọc trong sản xuất và chế biến tôm Mục tiêu chính của các liên kết dọc chính là để cung ứng vật tư cho nuôi tôm và tiêu thụ tôm nuôi một cách có lợi và thuận tiện nhất. Bảng 4.5. Lợi ích đạt được khi tham gia liên kết Được hỗ trợ về đầu tư Số lượng (người) 6 % 3,7 Được hỗ trợ về giống 0 0,0 Được hỗ trợ về vật tư 157 95,7 Được hỗ trợ về kĩ thuật 104 63,4 Hơn 63% số người nuôi tôm tham gia liên kết được nhận các hỗ trợ về kĩ thuật, bao gồm cả các hoạt động chuyển giao TBKT, thông tin về công nghệ hoặc thị trường phục vụ nuôi tôm và gần 96% số người nuôi tôm tham gia liên kết dọc để có thể tiếp cận được các nguồn cung cấp vật tư (thức ăn, thuốc, hóa chất…) theo kiểu “ứng trước”. 4.1.7. Mức độ thực thi của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm Hiệu lực thực sự của các hợp đồng liên kết khá thấp đang là vấn đề gây cản trở không ít đối với sự phát triển của các liên kết. Gần 90% số người nuôi tôm đã từng liên quan tới các vụ việc phá vỡ hợp đồng liên kết. Điều này nói lên rằng trên thực tế hiện nay hiệu lực của các hợp đồng liên kết trong sản xuất và chế biến tôm ở Cà Mau còn rất thấp. Các nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự phá vỡ hợp đồng chủ yếu liên quan đến số lượng và chất lượng tôm nuôi, giá tôm trên thị trường và yếu tố rủi ro khách quan. 13 Bảng 4.6. Tình hình thực hiện hợp đồng liên kết trong nuôi tôm ở Cà Mau Đơn vị: % Phá hợp đồng 89,6 Doanh nghiệp phá hợp đồng Do giá tôm trên thị trường giảm 35,4 Do dịch bệnh/chất lượng tôm nuôi kém 48,2 Do sản lượng tôm không đủ 31,7 Người nuôi tôm phá hợp đồng Do giá tôm trên thị trường tăng 35,4 Do các rủi ro khách quan 46,3 4.1.8. Hiệu quả của liên kết trong sản xuất và chế biến tôm Lợi ích lớn nhất và cũng là nền tảng cơ bản mà các bên liên quan mong muốn khi tham gia vào liên kết chính là lợi ích về kinh tế các bên tham gia có được từ liên kết so với hiệu quả sản xuất kinh doanh đơn lẻ. Bảng 4.7. Hiệu quả giữa nuôi tôm có và không có liên kết Năng suất Kích cỡ Doanh thu Chi phí (tấn/ha) (con/kg) (tr.đ/ha) (tr.đ/ha) Bình quân nhóm có liên kết Bình quân nhóm không liên kết Bình quân chung Thu nhập (tr.đ/ha) 4,8 38.4 490,6 429,1 61,4 4,9 4,8 48.2 41,0 544,7 505,1 518,7 453,1 26,1 52,0 Năng suất của 2 nhóm nuôi tôm có và không có liên kết không có sự khác biệt lớn - nhóm nuôi tôm có liên kết thấp hơn nhóm nuôi tôm không liên kết khoảng 0,1 tấn/ha. Do vậy, doanh thu bình quân của nhóm nuôi tôm có liên kết thấp hơn khoảng 11% so với nhóm nuôi không liên kết. Tuy nhiên, do chi phí của nhóm nuôi có liên kết giảm được tới hơn 20% so với nhóm nuôi không liên kết nên thu nhập của nhóm nuôi tôm có liên kết cao hơn nhóm không liên kết gần 135% tính trên 1 ha (hơn 35 triệu đồng/ha). Như vậy, với 266 ngàn ha mặt nước nuôi tôm của Cà Mau mức chênh lệch có thể lên tới 7.300 tỷ đồng. Đồng thời nếu toàn bộ ngành tôm của Cà Mau tổ chức được liên kết theo chuỗi sẽ giảm được giá thành hơn 18 ngàn đồng/kg (khoảng 0,8 USD/kg) và giá xuất khẩu tăng thêm khoảng 1 USD/kg do tăng kích cỡ tôm. Với khoảng 85 ngàn tấn tôm của tỉnh Cà Mau xuất khẩu được trong năm 2013 sẽ tương đương với mức lợi nhuận thực thu thêm được về cho Tỉnh là hơn 130 triệu USD. 4.1.9 Ảnh hưởng của cơ chế chính sách phát triển sản xuất và chế biến tôm Các cơ chế chính sách trong thời gian qua đã hỗ trợ mạnh cho mục tiêu đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, phát triển liên kết. 14 Nhiều cơ chế chính sách đã được ban hành nhằm phát triển các vùng sản xuất tập trung, thâm canh gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, gắn với phát triển CSHT phù hợp với quy hoạch sản xuất của các vùng, địa phương. Nhiều chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và hỗ trợ phát triển liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân đã được đưa vào áp dụng. Các quy hoạch tổng thể đã được xây dựng nhưng cần đẩy mạnh xây dựng các quy hoạch chi tiết cho phát triển nuôi và chế biến biến tôm. 4.1.10. Ảnh hưởng của đầu tư công Hệ thống giao thông của Cà Mau còn nhiều bất cập do đặc thù về điều kiện tự nhiên của Tỉnh. Vì vậy, chi phí vận tải của Cà Mau rất cao làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại đây và khả năng kiểm soát dịch bệnh trong những vùng này. Các nỗ lực đầu tư của Tỉnh chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất, đặc biệt là để phát triển liên kết giữa doanh nghiệp chế biến và người nuôi tôm. Về thủy lợi, do những nét đặc thù riêng ở Cà Mau nên hệ thống thủy lợi lớn, đồng bộ cũng không phát huy được hiệu quả ngược lại, nhiều công trình còn gây ra nhiều hệ quả xấu cần sớm giải tỏa cho vùng nuôi tôm. Hệ thống điện lưới tại Cà Mau phát triển rất nhanh, tuy nhiên, người nuôi tôm ở Cà Mau vẫn sử dụng điện dành cho các mục tiêu sinh hoạt là chính nên chưa giảm được giá thành tôm nuôi cũng như góp phần giải quyết các vấn đề về môi trường và chất lượng tôm nuôi. 4.1.11. Ảnh hưởng của dịch vụ công Hoạt động khuyến ngư và thú y thủy sản ngày càng được cải thiện, sự quan tâm của cả Nhà nước và người nuôi tôm đang càng ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, các hoạt động khuyến ngư vẫn còn yếu điểm là mới chỉ tập trung vào một số nội dung kĩ thuật thuần túy (chủ yếu là phòng tránh và xử lí dịch bệnh) và ít đề cập đến vấn đề tổ chức sản xuất. Việc cung cấp thông tin thị trường cũng được quan tâm hơn trước bởi các đơn vị khuyến ngư phối hợp với nhiều cơ quan truyền thông tuy nhiên hình thức còn khá đơn giản, nội dung chưa đa dạng và chưa cập nhật đáp ứng yêu cầu của sản xuất. 4.1.12. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết ngang giữa những người nuôi tôm ở Cà Mau Thực tế, do điều kiện tự nhiên khá thuận lợi nên các ao nuôi tôm ở Cà Mau cơ bản phân bố không quá cách xa nhau nên vấn đề chính ở đây lại liên quan đến yếu tố quy hoạch và diện tích. Về quyền lợi, các thành viên liên kết ngang được hỗ trợ để phát triển sản xuất, tăng khả năng tiếp cận các nguồn hỗ trợ của Nhà nước cũng như các tổ chức, doanh nghiệp tư nhân, được quyền nhận các phần chia 15 lợi ích có được từ hoạt động của các tổ chức liên kết ngang này. Về nghĩa vụ, người nuôi tôm tham gia liên kết ngang cũng phải góp đất, góp vốn và cam kết chịu sự quản lí, điều hành của người đứng đầu liên kết do chính những người nuôi tôm bầu ra. Về hiệu quả, người nuôi tôm tham gia liên kết ngang giảm được chi phí tôm giống, chi phí thức ăn, chi phí thuốc so với khi nuôi tôm không liên kết. Hiệu suất sử dụng các CSHT cũng cao hơn so với khi nuôi tôm theo hình thức cá thể. Tuy nhiên, chi phí lao động không thay đổi nhiều giữa nuôi tôm liên kết ngang so với nuôi tôm cá thể. Giá bán tôm cao hơn so với khi sản xuất cá thể (khoảng 10% giá bán). Gần 96% các liên kết ngang đã được thể hiện bằng văn bản tuy nhiên vẫn có tới hơn 74% các hợp đồng vẫn bị phá vỡ kể cả khi đã được công chứng. Hơn 61% các vi phạm liên quan đến các quy định của liên kết. Gần 39% còn lại là do người nuôi tôm không hài lòng về lợi ích khi tham gia liên kết nên tự ý rời bỏ liên kết. Các vi phạm này hầu như không có giải pháp để xử lí một cách hiệu quả và chính thống ngoài việc tự thỏa thuận. Hiệu lực thấp như vậy đang ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và tồn tại của các liên kết ngang. 4.1.13. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết dọc giữa người nuôi tôm và doanh nghiệp chế biến ở Cà Mau Có sự khác biệt rõ rệt và có ý nghĩa thống kê ở mức 5% đối với phần lớn các biến số được kiểm định giữa 2 nhóm nuôi tôm có và không có liên kết. Sự khác biệt này chính là lí do tạo nên sự khác biệt về lợi ích cuối cùng thu được về cho người nuôi tôm. Một số chỉ tiêu mặc dù không đạt được mức ý nghĩa thống kê tuy nhiên kết quả so sánh vẫn đúng như kì vọng về lí thuyết. Cụ thể, nhóm người nuôi tôm không liên kết có chi phí thức ăn nuôi tôm là 295,97 triệu đồng/ha cao hơn nhiều so với nhóm người nuôi tôm có liên kết với với chi phí thức ăn là 274,64 triệu đồng/ha, mức chênh lệch là 21,33 triệu đồng/ha có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Chi phí lao động và lãi vay cũng như các chi phí khác của nhóm người nuôi tôm không liên kết cũng cao hơn nhiều so với nhóm người nuôi tôm có liên kết với giá trị lần lượt là 20,34 triệu đồng/ha, 16,74 triệu đồng/ha và 71,50 triệu đồng/ha so với 4,19 triệu đồng/ha, 3,00 triệu đồng/ha và 14,87 triệu đồng/ha. Nói cách khác, chi phí lao động nuôi tôm của nhóm nuôi có liên kết cao hơn 16,15 triệu đòng/ha, chi phí lãi vay cao hơn 13,74 triệu đồng/ha và chi phí khác cao hơn 46,63 triệu đồng/ha so với nhóm nuôi có liên kết và các chênh lệch này đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Ngược lại, chi phí thuốc, hóa chất (17,89 triệu đồng/ha) và chi phí chuẩn bị ao nuôi (40,65 triệu đồng/ha) của nhóm người nuôi tôm không liên kết thấp hơn so với nhóm người nuôi tôm có liên kết có chi phí thuốc, hóa chất là 25,51 triệu đồng/ha và chi phí chuẩn bị ao là 51,78 triệu đồng/ha. Tuy 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất