BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA KẾ TOÁN – LỚP VB15KT002
BÀI TIỂU LUẬN đề tài 9:
Tóm lược lý thuyết về mối quan hệ
giữa lạm phát mục tiêu và tăng
trưởng kinh tế.
GVHD: TRƯƠNG MINH TUẤN
NHÓM SV THỰC HIỆN: NHÓM 19
LỚP VB15KT002
S TT
1.
PHAN THỊ KIM ANH
02
2.
NGUYỄN THỊ THANH HÀ
24
3.
ĐOÀN THỊ KIỀU OANH
96
4.
NGUYỄN THỊ THU THÙY
129
TPHCM, NĂM 2012
LỜI MỞ ĐẦU
Tại nhiều nước phát triển, lạm phát được coi là vấn đề kinh tế- xã hội rất nghiêm trọng. khi
một nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các
luồng vốn trong nước sẽ chạy ra nước ngoài. Ngoài ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng
trưởng kinh tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn của quốc gia và nhược
điểm của nó tạo nên sự căng thẳng về chính trị và xã hội.
Trên thế giới hầu hết các nước đều lấy khối lượng tiền (M2 hay M3) hoặc tỷ giá làm mục
tiêu trung gian trong điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) quốc gia. Tuy nhiên, vào những
năm 1990, có một số nước công nghiệp phát triển đã ''phá lệ'' truyền thống trong việc xây
dựng các mục tiêu trung gian tương tự mà tập trung tâm điểm vào chỉ số lạm phát. Cách
tiếp cận tương đối mới này tập trung vào kiểm soát lạm phát và được gọi là lạm phát mục
tiêu (Inflation targeting). Đây là một cơ chế điều hành CSTT tương đối mới, đi đầu áp
dụng nó là ngân hàng Trung ương (NHTU) Niu- Dilân (năm 1990), và hơn chục năm qua
đã có hành loạt các nước thực hiện như Canađa (1991), Vương quốc Anh (1992), Phần lan
(1993), Thụy Điển (1993), Ôxtrâylia (1993), Tây Ban Nha (1994)... và tại châu Âu hiện
nay có Thụy Sỹ, Na Uy, Ailen đã công bố về việc chuyển đổi sang lạm phát mục tiêu trong
điều hành CSTT của mình. Nước đầu tiên trong các nước đang phát triển áp dụng lạm phát
mục tiêu là Chilê, sau đó đến Brazin và Ixraen. Các nước có nền kinh tế chuyển đổi có thể
nhắc đến Cộng hoà Séc, Ba Lan và từ tháng 6-2001 có Hungari.
Vậy tại sao hàng loạt quốc gia trên lựa chọn lạm phát mục tiêu?
Thực tế chỉ ra rằng việc mau chóng đạt được một vài mục tiêu (tạo thêm việc làm và tăng
trưởng kinh tế) với sự trợ giúp của CSTT mở rộng sẽ không tránh khỏi lạm phát gia tăng,
dẫn đến xung đột nguyên tắc ổn định giá cả. Và từ đó, họ nhận ra rằng việc đạt được ổn
định giá cả mới là yếu tố tiên quyết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hay ngay như trong Luật
NHTƯ châu Âu có nói rằng mục tiêu cơ bản nhất của CSTT là ổn định giá cả, bên cạnh đó
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 2
cần tập trung đến các mục tiêu kinh tế khác như tạo thêm việc làm, tạo sự nhịp nhàng giữa
dao động của sản xuất và việc làm trong ngắn hạn v.v... nhưng không được xung đột mục
tiêu cơ bản nhất - ổn định giá cả. Để kết thúc lời giải đáp cho câu hỏi trên, xin mượn lời
của một nhà kinh tế học nổi tiếng - F.Mishkin: ''Tập trung phát triển sức mạnh kinh tế sẽ
đến sau khi thực hiện các phương pháp kiềm chế lạm phát, đối với những nước tiến hành
kế hoạch hóa lạm phát... có thể đưa ra kết luận rằng lạm phát mục tiêu sẽ củng cố quá trình
phát triển kinh tế và thêm vào đó kiểm soát được lạm phát''.
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT , LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I.
Lạm phát, nguyên nhân gây ra lạm phát
1 .Khái niệm lạm phát:
Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát , nhưng nói
chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn:.
Theo Các Mác trong bộ tư bản: “lạm phát là việc làm tràn đầy các kênh, các
luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt”.
Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát là biểu thị một sự tăng lên của
mức giá chung. Theo ông: “lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí
tăng – giá bánh mỳ, dầu xăng, xe ô tô; tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản
xuất tăng”.
Milton Friedmen thì quan niệm: “ lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo
dài”. Ông cho rằng lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ý
kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes
tán thành.
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm
sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự
phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo
nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền
kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của
một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai
thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô.
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 4
Vậy lạm phát là gì? Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu
cầu cần thiết (k t> kc) làm cho chúng bị mất giá , giá cả của hầu hết các loại
hàng hóa tăng lên đồng loạt.
2 Phân loại lạm phát:
2.1 Căn cứ vào mức độ lạm phát:
Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở
mức 1 con số hằng năm ( dưới 10% /năm). Lạm phát vừa phải còn gọi là lạm
phát nước kiệu hay lạm phát 1 con số. Loại lạm phát này thường được các
nước duy trì như một chất xúc tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Lạm phát cao : loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ 2
con số hằng năm ( từ 10%-100% / năm). Lạm phát cao còn được gọi là lạm
phát phi mã. Lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế xã hội.
Siêu lạm phát: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ 3
con số hằng năm trở lên (từ 100% / năm trở lên). Siêu lạm phát còn gọi là lạm
phát siêu tốc. siêu lạm phát gây ra những tác hại rất lớn đến kinh tế - xã hội.
2.2 Căn cứ vào định tính:
Lạm phát cân bằng và lạm phát k hông cân bằng :
Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động
,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp .Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền
kinh tế nói chung.
Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra .
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 5
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dự
đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,người
dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .
Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện .Loại
lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý ,đời sống người dân vì họ chưa kịp thích
nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và
niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút. Trong thực tế lịch
sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang phát triển thường diễn ra
trong thời gian dài ,vì vậy hậu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn .Và các
nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau : lạm phát kinh
liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm ,lạm phát
nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu
lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm .
3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
Có nhiều nhân tố gây ra lạm phát .Và mỗi một nhân tố có thể giải thích theo các lý
thuyết khác nhau. Dưới đây chúng ta xem xét 1 số lý thuyết đề cập đến nguyên nhân
gây ra lạm phát :
Lý thuyết số lượng tiền tệ và lạm phát : Lạm phát loại này nguyên nhân là do lượng
tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả
năng cung ứng giá trị của nền kinh tế́. Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông
lượng tiền quá lớn trong nền kinh tế bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay chính
sách tiền tệ nới lỏng. Khi lượng tiền lưu thông quá lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 6
hơn 100 triệu..., thì sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. Áp lực cung
hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên.là kết quả
của việc tăng quá thừa mức cung tiền .
Chính sách tài khóa và lạm phát: Khi thiếu hụt tài khóa , chính phủ có thể tài trợ
bằng việc : tăng thuế, vay nợ bằng phát hành trái phiếu và in tiền. Thiếu hụt tài khóa
(DEF) là khoản chênh lệch chi tiêu chính phủ (G) vượt quá thuế ( T) và sẽ bằng tổng
thay đổi cơ số tiền MB và thay đổi trái phiếu chính phủ mà công chúng nắm giự
(B) . DEF = G-T = MB + B.
Thiếu hụt tài khóa được tài trợ qua phát hành trái phiếu , thì sẽ không làm ảnh hưởng
đến cơ số tiền tệ và vì thế ảnh hưởng đến cung tiền tệ.Nhưng nếu thiếu hụt được tài trợ
bằng in tiền thì cơ số tiền và cung tiền gia tăng.
Lý thuyết lạm phát do cầu kéo. Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn
tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải
thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên
sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người
ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có
lạm phát.
Lý thuyết lạm phát do chi phí đẩy.
Chi phí tiền lương:Tiền lương gia tăng do áp lực từ phía công đoàn, từ chính
sách điều chỉnh tăng lương cùa chính phủ.
Lợi nhuận:nếu DN có quyền lực thị trường (độc quyền, nhóm độc quyền), có
thể đẩy giá tăng lên độc lập với tổng cầu để kiếm lôi nhuận cao hơn.
Nhập khẩu lạm phát :
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 7
- Tỷ giá hối đoái
- Thay đổi giá cả hàng hóa.
- Những cú sốc từ bên ngoài.
- Thiếu hụt các nguồn tài nguyên.
Vậy lạm phát chi phí đẩy là một hiện tượng tiền tệ vì nó không thể xảy ra mà
không có sự thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng đi kèm.
II.
Lạm phát mục tiêu
1 .Khái niệm lạm phát mục tiêu:
Cho đến nay đã có gần 30 quốc gia và tới đây còn nhiều quốc gia khác áp dụng cơ chế điều
hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu, nhưng có thể nói rằng cơ chế này vẫn còn hết
sức mới mẻ.
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng: ”Chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu là một
bản thông báo ra công chúng về chỉ tiêu trung hạn của lạm phát cũng như uy tín của
cơ quan thẩm quyền về tiền tệ để đạt mục tiêu này. Các yếu tố khác bao gồm phổ
biến thông tin về các kế hoạch và mục tiêu của nhà hoạch định chính sách tiền tệ tới
công chúng và thị trường,cũng như trách nhiệm giải trình của Ngân hàng Trung
ương để đạt được các chỉ tiêu lạm phát của mình. Các quyết định về chính sách tiền
tệ sẽ dựa trên độ lệch dự báo lạm phát (một cách hoàn toàn hay rõ ràng) đóng vai trò
là chỉ tiêu trung gian của chính sách tiền tệ”.
Xét ở góc độ tổng thể, nội hàm cơ chế điều hành chính sách tiền tệ lạm phát mục tiêu bao
gồm các thành tố sau: (1) Về thông tin, đó là một bản báo cáo rộng rãi, công khai trước
công chúng và thị trường về chỉ tiêu lạm phát dự kiến trong năm kế hoạch của cơ quan
thẩm quyền. Thông thường, chỉ tiêu đó nằm trong một khoảng biên độ nhất định; (2) Về
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 8
trách nhiệm, khi mục tiêu lạm phát được cơ quan thẩm quyền công bố cũng đồng nghĩa với
việc giao cho Ngân hàng Trung ương có trách nhiệm hàng đầu phải thực hiện mục tiêu đó
và đó cũng là mục tiêu duy nhất của Ngân hàng Trung ương. Để thực hiện mục tiêu lạm
phát, Ngân hàng Trung ương được quyền linh hoạt lựa chọn kế hoạch, công cụ và phải giải
trình việc sử dụng nó với công chúng và thị trường; (3) Về kỹ thuật, khi đã quyết định sử
dụng chỉ tiêu lạm phát để làm mục tiêu chính sách tiền tệ thì một đòi hỏi đặt ra là các nhà
hoạch định chính sách tiền tệ phải lựa chọn được cách thức xác định chỉ tiêu lạm phát sao
cho đảm bảo loại trừ ở mức độ tối đa các yếu tố lạm phát phi tiền tệ. Mặt khác, trên cơ sở
có đủ thông số cần thiết xây dựng kế hoạch sử dụng công cụ tác động thực hiện mục tiêu
lạm phát một cách tối ưu; (4) Ở góc độ đánh giá hiệu quả, mức độ đạt được của lạm phát
mục tiêu là bằng chứng rõ ràng và tin cậy nhất về uy tín đối với Ngân hàng Trung ương.
Mặc dù, còn những cách hiểu khác nhau về khuôn khổ chính sách tiền tệ lạm phát mục
tiêu, song có thể khái quát chung rằng lấy lạm phát làm mục tiêu chính sách tiền tệ là
khuôn khổ điều hành và đánh giá chính sách tiền tệ bao gồm 4 yếu tố chủ yếu sau: (1)
Ổn định giá cả hay lạm phát là mục tiêu chủ yếu hoặc duy nhất của chính sách tiền tệ.
Các mục tiêu này phải chỉ ra rõ ràng cho công chúng thấy mục tiêu lạm phát được ưu
tiên hơn so với các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ; (2) Lạm phát mục tiêu được
xác định rõ ràng về mặt định lượng bằng một con số hoặc một khoảng giá trị xác định.
Ngân hàng Trung ương cần thiết lập mô hình hay phương pháp dự báo lạm phát thông
qua sử dụng một số các chỉ số chứa đựng các thông tin về lạm phát trong tương lai; (3)
Lộ trình thực hiện - khoảng thời gian để có thể đạt được mục tiêu lạm phát; và (4)
Đánh giá việc thực hiện mục tiêu lạm phát của Ngân hàng Trung ương - đặc trưng này
phản ánh tính minh bạch hơn trong chính sách tiền tệ.
Theo cách tiếp cận như vậy, Ngân hàng Trung ương dự báo lộ trình lạm phát trong
tương lai, lạm phát dự báo được so với lạm phát mục tiêu - mức lạm phát mà Chính
phủ cho rằng phù hợp với nền kinh tế. Sự khác biệt giữa lạm phát dự báo và lạm
phát mục tiêu sẽ quyết định mức độ điều chỉnh chính sách tiền tệ. Theo phương pháp
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 9
tiếp cận này, lấy lạm phát làm mục tiêu của chính sách tiền tệ thực sự là khuôn khổ
điều hành và đánh giá chính sách tiềntệ, không đơn giản chỉ là việc lựa chọn mục
tiêu cuối cùng. Theo đó, người ta nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của dự báo
lạm phát do dự báo lạm phát quyết định chính sách tiền tệ nên phản ứng như thế nào.
Tóm lại ,chính sách lạm phát mục tiêu được hiểu là chính sách mà ngân hàng trung ương
sẽ đưa ra mục tiêu lạm phát trong một thời gian khá dài (thường là 5 năm) và được quyền
chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ như nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, tỷ giá .v.v để đạt mục tiêu đó. Một chính
sách lạm phát mục tiêu được coi là thành công nếu như trong quá trình thực hiện lạm phát
sẽ vận động xoay quanh mức mục tiêu đã đề ra.
Chính sách lạm phát mục tiêu được áp dụng nhiều bởi các nước phát triển và các nước mới
nổi khi lãnh đạo các nước nhận định rằng, lạm phát hay nói cách khác ổn định giá là mục
tiêu chính của chính sách tiền tệ. Tùy từng thời kỳ, mức lạm phát mục tiêu có thể có những
điều chỉnh theo năm, tuy nhiên mức điều chỉnh có thể không quá lớn so với định hướng dài
hạn đã xác định từ thời gian trước.
2.Điều kiện áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu:
Theo Debelle et al. (1998) để thực hiện chính sách này, các quốc gia cần có: (i) sự độc lập
nhất định của ngân hàng trung ương, ít nhất là trong việc chủ động sử dụng các công cụ và
chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương không chịu áp lực phải in tiền để mua trái phiếu
chính phủ phát hành nữa ; (ii) yêu cầu thứ 2 là sự chủ động của ngân hàng trung ương
không phải thực thi các mục tiêu khác như tăng trưởng, việc làm, hay tỷ giá hối đoái. Đối
với các nước thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái cố định thì rõ ràng chính sách ITP hoàn toàn
không khả thi.
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 10
Cũng theo Debelle et al. (1998), một quốc gia sau khi đạt được hai tiêu chí trên thì phải
xây dựng một lộ trình thực hiện chính sách ITP. Trước hết, Ngân hàng trung ương phải xác
định một mức lạm phát mục tiêu cụ thể trong giai đoạn trước mắt (ví dụ 7% hay 8%) và
phải đưa ra một thông điệp rõ ràng và minh bạch với thị trường rằng chúng tôi sẽ thực hiện
để đạt được mục tiêu này trong thời gian nhất định. Đồng thời, Ngân hàng trung ương sẽ
đưa ra những công thức mô hình tính toán cụ thể để có cơ chế dự báo lạm phát và các
chính sách có thể phải điều chỉnh một khi mục tiêu của lạm phát không đạt được. Điểm cơ
bản nhất của chính sách này chủ yếu là cơ chế giao thiệp của Ngân hàng trung ương với thị
trường càng rõ ràng, thì thị trường sẽ hiểu được cơ chế hoạt động, cơ chế điều hành chính
sách của ngân hàng trung ương và sẽ có những phản ứng phù hợp và làm tăng hiệu ứng của
các chính sách điều tiết của ngân hàng trung ương khi không đạt mục tiêu của lạm phát.
Cái điểm khác biệt chính giữa chính sách lạm phát mục tiêu với chính sách xử lý lạm phát
khác chính là có một mô hình một cơ chế xử lý cụ thể và định lượng được để dự báo lạm
phát cũng như dự báo xu hướng lạm phát. Chính sách lạm phát mục tiêu là chính sách xác
định mục tiêu lạm phát, xác định cơ chế dự báo cơ chế điều tiết kinh tế để đạt mục tiêu đó
với nhiều vấn đề mang tính toán kỹ thuật nhiều hơn. Như vậy lạm phát mục tiêu có thể
khiến chính sách điều tiết kinh tế của Ngân hàng trung ương cứng nhắc hơn và thiên về xu
hướng kỹ trị nhiều hơn.
Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách ITP khá thành công như New
Zealand, Canada, Anh, Phần Lan, Thụy điển, Úc, Tây Ban nha. Ví dụ New Zealand là quốc
gia khá thành công với lạm phát mục tiêu khi trong một thời gian dài những năm 2000
nước này xây dựng cơ chế để đạt mục tiêu lạm phát 2% và họ đã khá thành công.
III .Tăng trưởng kinh tế và vai trò của tăng trưởng kinh tế
1.Khái niệm tăng trưởng kinh tế:
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 11
Tăng trưởng kinh tế (economic growth) là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và
quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Sự tăng trưởng được so
sánh theo các thời điểm gốc sẽ phản ánh tốc độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng quy mô sản
lượng kinh tế nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Quy mô và tốc độ tăng trưởng là"cặp
đôi trong nội dung khái niệm tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, trên thế giới người ta thường
tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc
dân hoặc tổng sản phẩm quốc nội.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những hàng hoá và dịch
vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù là sản xuất ở trong nước
hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hàng hoá và
dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (dù nó thuộc về người trong
nước hay người nước ngoài) trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
So sánh tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ta thấy:
GNP = GDP + thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài.
Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài = thu nhập chuyển về nước của công dân nước đó
làm việc ở nước ngoài trừ đi thu nhập chuyển ra khỏi nước của người nước ngoài làm việc
tại nước đó.
Tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với năm trước.
GNP và GDP là hai thước đo tiện lợi nhất để tính mức tăng trưởng kinh tế của một nước
biểu hiện bằng giá cả. Vì vậy, để tính đến yếu tố lạm phát người ta phân định GNP, GDP
danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP, GDP danh nghĩa là GNP và GDP tính theo giá
hiện hành của năm tính; còn GNP và GDP thực tế là GNP và GDP được tính theo giá cố
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 12
định của một năm được chọn làm gốc. Với tư cách này, GNP, GDP thực tế loại trừ được
ảnh hưởng của sự biến động của giá cả (lạm phát). Do đó, có mức tăng trưởng danh nghĩa
và mức tăng trưởng thực tế.
2 .Vai trò của tăng trưởng kinh tế :
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những dấu hiệu chủ
yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để
thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.
- Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng
hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để
giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định
đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có,
thịnh vượng.
- Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng
cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng
và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá... phát triển.
- Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp.
Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan
trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh thì
thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp
ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên gọi quy luật Okum1 (hay quy luật 2,5% 1). Quy luật này xác định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP
tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1%.
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 13
- Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ
chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội.
- Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên
quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang phát triển.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh là mục tiêu thường xuyên của các quốc gia,
nhưng sẽ là không đúng nếu theo đuổi tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Thực tế cho
thấy, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội như mong
muốn, đôi khi quá trình tăng trưởng mang tính hai mặt. Chẳng hạn, tăng trưởng kinh tế
quá mức có thể dẫn đến tình trạng nền kinh tế "quá nóng", gây ra lạm phát, hoặc tăng
trưởng kinh tế cao làm cho dân cư giàu lên, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho sự
phân hoá giàu nghèo trong xã hội tăng lên. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia trong từng thời
kỳ phải tìm ra những biện pháp tích cực để đạt được sự tăng trưởng hợp lý, bền vững.
Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao, ổn định
trong thời gian tương đối dài (ít nhất từ 20 - 30 năm) và giải quyết tốt vấn đề tiến bộ xã
hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
CHƯƠNG II: MỐI QUAN HỆ GIỮA LẠM PHÁT MỤC TIÊU VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
I.Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
1.Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định. Tuy nhiên
mức độ gắn kết như thế nào vẫn là vấn đề tranh cãi. Một số nghiên cứu theo lối kinh
nghiệm cho thấy, lạm phát có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế khi nó vượt
qua một ngưỡng nhất định. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là phi
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 14
tuyến tinh. Fischer (1993) là người đầu tiên nhiên cứu vấn đề này với kết luận, khi lạm
phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại , hoặc thậm chí mang
tính đồng biến, và lạm phát ở mức cao mối quan hệ nay la nghịch biến. Một số các nhà
Nghiên cứu sau này như Sarel (1996), Gosh và philip(1998), Shan và Senhadji(2001),
và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một
ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động tiêu cực
(tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Sarel ngưỡng lạm phát là 8%,Shan và Senhadji
ngưỡng lạm phát cho các nước đang phat triển là 11-12%, các nước công nghiệp
khoảng 1-3%. Gần đây nhất là nghiên cứu của tác giả Khan(2005) đã tập trung nghiên
cứu xác định mức lạm phát tối ưu . Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với
cac nước vung Trung Đông và Trung Á là khoảng 3.2%. Học thuyết kinh tế vĩ mô đã
khẳng định, nếu sản lượng thực tế vượt sản lượng tiềm năng sẽ làm lạm phát gia tăng.
Thực tế 2005-2006 lạm phát thế giới gia tăng, ngòai nguyên nhân gia dầu còn do nền
kinh tế nhiều nước phát triển qua nóng. Lạm phát của Việt Nam gia tăng trong mấy năm
gần đây, phải chăng cũng có chịu ảnh hưởng bởi sự gia tăng sản lượng vuợt mức tiềm
năng?. Theo đánh giá của IMF(2006) về các nguyên nhân làm tăng lạm phát ở Việt
Nam , bắt đầu từ năm 2005 co dấu hiệu bởi sự gia tăng sản lượng vượt mức tiềm năng (
những năm trước đo mối quan hệ nay la khong nhất quan va khong rõ nét). Sử dụng
mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, một số nước đã sử dụng lạm phát cao
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng, đây
là giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng kém bền vững. Hay còn nói đó
là giải pháp tăng trưởng “ bong bóng”. Xu hướng các nước phát triển chọn giải pháp
tăng trưởng kinh tế thực chất, đó là dựa trên cơ sở gia cả ổn định ở mức thấp. Căn cứ
biện luận cho giải pháp này là: Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát ổn định thì tính
dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các nhà đầu tư có thể xây dựng được các phương
án đầu tư hiệu quả. Đối với người tiêu dùng thì chi tiêu yên tâm, họ không phải lo cân
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 15
nhắc các mặt hàng khác để thay thế do gia tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế thực chất. Hiện nay, các nước phát triển chọn mức lạm phát gần 2%
là mức tối ưu cho tăng trưởng. Tuy nhiên cũng phải hiểu rằng, lạm phát ổn định chỉ là
điều kiện đủ cho tăng trưởng kinh tế, còn điều kiện cần cho tăng trưởng phải là vấn đề
của Chính phủ trong việc phát triển nguồn lực, vốn và công nghệ kỹ thuật.....
2. Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó lại là hai vấn đề luôn tồn
tại song song với nhau . Trong thực tế , không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng
không tránh khỏi lạm phát . Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng đã trải qua
các cuộc khủnh hỏang kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau . Tỷ lệ
lạm phát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hoá chung tăng lên mà tiền lương danh nghĩa của
cáccông nhân không tăng do đó tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi. Để tồn tại các công
nhân sẽ tổ chức đấu tranh , bãi công đòi tăng lương và cho sản xuất trì trệ , đình đốn khiến
cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn , tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm.Khi nềnkinh tế găp
khó khăn , suy thoái sẽ làm thâm hụt ngân sách và đó là điều kiện , nguyên nhân gây ra lạm
phát . Khi lạm phát tăng cao gây ra siêu lạm phát làm đồng nội tệ rất nhanh , khi đó người
dân sẽ ồ ạt bán nội tệ để mua ngoại tệ . Tệ nạn tham nhũng tăng cao , nạn buôn lậu phát
triển mạnh , tình trạng đầu cơ trái phép tăng nhanh , trốn thuế và thuế khôngthu được đã
gây ra tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại nặng nề càng làm cho thâm hụt ngân
sách trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao.
3.Trong thời gian gần đây, sự bất ổn của kinh tế thế giới sau thời kỳ khủng hoảng kinh tế
toàn cầu tác động làm giảm tốc độ tăng trưởng và gia tăng lạm phát ở nhiều nước, trong đó
có Việt Nam. Ở nhiều quốc gia để có được mức tăng trưởng cao phải đánh đổi với mức
lạm phát cao.
Theo lý thuyết Keynes: trong ngắn hạn sẽ có sự đánh đổi giữa lạm phát và tăng
trưởng; nghĩa là, muốn cho tăng trưởng đạt tốc độ cao thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 16
phát nhất định; trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng và lạm phát di chuyển cùng chiều;
sau giai đoạn này, nếu tiếp tục chấp nhận tăng lạm phát để thúc đẩy tăng trưởng thì GDP
cũng không tăng thêm mà có xu hướng giảm (đường cong Phillips nổi tiếng về sự đánh đổi
giữa mục tiêu lạm phát và thất nghiệp); mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang
dấu dương.
Theo chủ nghĩa trọng tiền (đại diện là Milton Fredman): lạm phát là sản phẩm của
việc tăng cung tiền hoặc tăng hệ số tạo tiền ở mức lớn hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế;
nghĩa là, trong dài hạn, giá cả bị ảnh hưởng bởi cung tiền chứ không thực sự tác động lên
tăng trưởng; nếu cung tiền tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng thì lạm phát tất yếu sẽ xảy
ra; nếu giữ cung tiền và hệ số tạo tiền ổn định thì tăng trưởng cao sẽ làm giảm lạm phát.
Theo lý thuyết tân cổ điển Mundell (1965) và Tobin (1965): lạm phát là nguyên nhân
làm cho con người tránh giữ tiền mà chuyển thành các tài sản sinh lời; theo mô hình này
giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tỉ lệ thuận. Bổ sung thêm cho mô hình của lý
thuyết tân cổ điển, nhà kinh tế học Sidrauski (1967) có quan điểm khi các biến số độc lập
với việc tăng cung tiền trong dài hạn thì việc tăng lạm phát không ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế. Mô hình của Stockman (1981) thì cho rằng lạm phát tăng cao sẽ làm cho
tăng trưởng giảm…
Tuy quan điểm về lý thuyết và mô hình minh chứng cho mối quan hệ giữa tăng
trưởng và lạm phát của các trường phái có sự khác nhau, nhưng điểm chung của các trường
phái là mối quan hệ ấy không phải một chiều, mà là sự tác động qua lại; nếu muốn tăng
trưởng cao thì phải chấp nhận lạm phát, mối quan hệ này không tồn tại mãi và đến một lúc
nào đó, nếu lạm phát tiếp tục tăng cao sẽ làm giảm tăng trưởng; trong dài hạn, khi tăng
trưởng đã đạt đến mức tối ưu thì lạm phát không tác động đến tăng trưởng nữa mà lúc này
lạm phát là hậu quả của việc tăng cung tiền quá mức vào nền kinh tế.
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 17
Nghiên cứu ban đầu (những năm 1960) không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa hệ
thống. Nghiên cứu giai đoạn sau khủng khoảng dầu hoả (năm 1973-1974) của Fischer
(1993), Barro (1996), Bruno và Easterly (1998) đã tìm thấy quan hệ âm giữa lạm phát và
tăng trưởng. Nghiên cứu gần đây, Khan và Senhadji (2001) cũng đã tìm thấy mối quan hệ
tăng trưởng - lạm phát mang dấu âm khi: tỉ lệ lạm phát vượt qua ngưỡng và mang dấu
dương trong trường hợp còn lại.
Nối tiếp các kết quả trên, rất nhiều nhà nghiên cứu bằng các phương pháp khác nhau
đã công bố ảnh hưởng qua lại giữa tăng trưởng và lạm phát: Mallik và Chowdhury (2001)
sử dụng hồi quy đồng liên kết và mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM); Faria and Carneiro
(2001) cũng sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị ADF (xác định tính dừng của chuỗi dữ liệu
khi phân tích chuỗi dữ liệu theo thời gian) và phương pháp phân tích phương sai dựa trên
mô hình VAR…cho thấy: lạm phát không ảnh hưởng đến sản lượng thực tế trong dài hạn,
tuy nhiên trong ngắn hạn thì sự ảnh hưởng của lạm phát đến sản lượng thực tế lại mang dấu
âm.
Nước Mỹ trong thời gian khá dài đã thực thi chính sách “hy sinh” mục tiêu tăng
trưởng cho mục tiêu kiềm chế lạm phát. Sau hơn 10 năm tăng trưởng liên tục khi kinh tế
Mỹ bước vào chu kỳ suy thoái, nước Mỹ đã chuyển sang thực thi chính sách “hy sinh”
mục tiêu kiềm chế lạm phát cho mục tiêu tăng trưởng, mà biểu hiện rõ nhất là chỉ trong
một năm đã liên tục 12 lần cắt giảm lãi suất từ 6,7% xuống chỉ còn 1%. Khi tăng trưởng
kinh tế phục hồi và lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại, nước Mỹ lại thực thi chính sách “hy
sinh” mục tiêu tăng trưởng cho mục tiêu chống lạm phát với một trong những giải pháp
cụ thể đã thực hiện là chỉ từ tháng 7/2004 đến nay đã tám lần liên tục nâng lãi suất từ 1%
lên 3% và dự đoán của nhiều chuyên gia, lãi suất của Mỹ sẽ còn tăng lên nữa, có thể đạt
trên 4,5%.
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 18
Trung Quốc sau 26 năm tăng trưởng liên tục với tốc độ cao (hiện giữ kỷ lục về thời
gian tăng trưởng liên tục mà trước đó Hàn Quốc đã giữ với 23 năm), cũng đã muốn hạ
bớt tốc độ tăng trưởng nóng và kiềm chế lạm phát, bằng việc giảm đầu tư sau mấy năm ở
mức cao nhất thế giới (trên 44% so với GDP).
II.Mối quan hệ giữa lạm phát và lạm phát mục tiêu
Tại nhiều nước phát triển, lạm phát được coi là vấn đề kinh tế- xã hội rất nghiêm
trọng. khi một nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụp đổ
đầu tư, các luồng vốn trong nước sẽ chạy ra nước ngoài. Ngoài ra, lạm phát sẽ làm giảm
nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mất khả năng thực hiện những kế hoạch dài hạn của quốc gia
và nhược điểm của nó tạo nên sự căng thẳng về chính trị và xã hội.
Thực tế chỉ ra rằng việc mau chóng đạt được một vài mục tiêu (tạo thêm việc làm và
tăng trưởng kinh tế) với sự trợ giúp của CSTT mở rộng sẽ không tránh khỏi lạm phát gia
tăng, dẫn đến xung đột nguyên tắc ổn định giá cả. Và từ đó, họ nhận ra rằng việc đạt được
ổn định giá cả mới là yếu tố tiên quyết thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hay ngay như trong
Luật NHTƯ châu Âu có nói rằng mục tiêu cơ bản nhất của CSTT là ổn định giá cả, bên
cạnh đó cần tập trung đến các mục tiêu kinh tế khác như tạo thêm việc làm, tạo sự nhịp
nhàng giữa dao động của sản xuất và việc làm trong ngắn hạn v.v... nhưng không được
xung đột mục tiêu cơ bản nhất - ổn định giá cả. Một nhà kinh tế học nổi tiếng - F.Mishkin:
''Tập trung phát triển sức mạnh kinh tế sẽ đến sau khi thực hiện các phương pháp kiềm chế
lạm phát, đối với những nước tiến hành kế hoạch hóa lạm phát... có thể đưa ra kết luận
rằng lạm phát mục tiêu sẽ củng cố quá trình phát triển kinh tế và thêm vào đó kiểm soát
được lạm phát''.
Lạm phát mục tiêu có thể được miêu tả như một cơ chế điều hành CSTT dựa trên
nền tảng sử dụng việc dự báo lạm phát làm chỉ số mục tiêu trung gian. NHTƯ sẽ dự báo xu
hướng lạm phát năm tới để đưa ra chỉ số lạm phát mục tiêu (định hướng bằng một chỉ số
hoặc một khoảng biên độ) cho năm kế hoạch mà không có trách nhiệm thực hiện bất cứ chỉ
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 19
tiêu nào khác. Trong giới hạn của mình, NHTƯ có thể linh hoạt lựa chọn và sử dụng bất kỳ
các công cụ để chỉ đạt một mục tiêu duy nhất - chỉ số lạm phát mục tiêu.
Ổn định tài khoá là điều kiện cần thiết mang tính nền tảng để kiểm soát lạm phát, cũng như
đảm bảo cho sự vận hành của cơ chế lạm phát mục tiêu. Một số nghiên cứu đã đưa ra nhận
định: Chính sách tài khoá tắc trách sẽ làm tăng áp lực đối với các cơ quan tiền tệ trong việc
tài trợ để trả nợ, bởi vậy sẽ làm cung tiền và lạm phát tăng nhanh. Nếu mất cân bằng tài
khoá ở mức cao thì rốt cục sẽ làm cho Chính sách tiền tệ trở nên phụ thuộc vào các quyết
định tài khoá (cái được gọi là: sự thống lĩnh của chính sách tài khoá) và mục tiêu lạm phát
hẳn là sẽ phải bị xóa bỏ hoặc thay đổi rất nghiêm trọng.
III.
Mối quan hệ giữa lạm phát mục tiêu và tăng trưởng kinh tế
Như chúng ta đã biết, một CSTT truyền thống của mỗi quốc gia được đặt ra thông thường
để đạt được 4 mục tiêu chính: Tạo ra công ăn việc làm cho xã hội hay làm giảm áp lực thất
nghiệp; Đảm bảo sự tăng lên của GDP thực (tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ
lạm phát); ổn định giá trị đối nội của đồng tiền hay đảm bảo sức mua hàng hoá trong nước
của nội tệ; ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền hay là ổn định tỷ giá.
Mặc dù các mục tiêu này không phải không có những điểm thống nhất, ví dụ như tăng
trưởng cao thường đi kèm với tỷ lệ thất nghiệp thấp... nhưng nói chung thì chúng có những
mâu thuẫn nội tại với nhau trong ngắn hạn như:
- Các cú sốc làm tổng cung giảm xuống khiến thất nghiệp gia tăng, NHTƯ buộc phải điều
chỉnh lượng cung tiền cho cân bằng với mức cầu tiền thực tế để cho lãi suất giảm xuống và
thúc đẩy đầu tư tạo công ăn việc làm, nhưng đồng thời việc đó cũng làm cho mức giá cả
chung của nền kinh tế tăng lên.
- Giảm tỷ lệ lạm phát nhằm ổn định giá trị đối nội của đồng tiền đồng nghĩa với một CSTT
thắt chặt khiến cho lãi suất trong nền kinh tế tăng lên, hiện tượng thoái lui đầu tư xuất hiện
Lớp VB15KT002-Đề tài 09
Page 20
- Xem thêm -