TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính mạng con người là giá trị cao nhất của con người. Quyền được sống, được
tôn trọng là quyền cơ bản, hàng đầu của con người.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao trong hệ thống các v¨n b¶n quy ph¹m ph¸p
luËt, là đạo luật gốc mà các văn bản pháp luật khác phải tuân theo. Quyền sống của
con người được qui định tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992 . Đồng thời, được cụ thể hóa
tại các điều 32, 609 của Bộ luật Dân sự; Điều 8, Điều 24 Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em. Bộ luật Hình sự năm 1999 (được Quốc hội khóa X nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 6 - từ ngày 18 tháng 11 đến ngày 21
tháng 12 năm 1999) đã dành chương XII qui định về các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đây là Chương thứ hai phần các tội phạm cụ
thể, chỉ đứng sau chương qui định về các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
Trong thời gian qua, quyền sống – tính mạng của công dân được bảo đảm trên
nhiều phương diện. Tuy vậy, còn khá nhiều nguy cơ đe dọa sự sống của con người cần
được phòng ngừa, ngăn chặn và chống lại, như các hành vi xâm phạm tới tính mạng
của con người.
Trong những năm gần đây, tội phạm xâm phạm tính mạng nói chung và nhóm
tội phạm vô ý làm chết người nói riêng có chiều hướng gia tăng về tính nguy hiểm của
hành vi; phức tạp, tinh vi về thủ đoạn. Tính chất tội phạm rất nghiêm trọng. Công tác
đấu tranh phòng chống loại tội phạm này vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài: “Vô ý làm chết người trong
pháp luật hình sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn” là rất cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Nhóm đề tài liên quan đến các tội phạm xâm phạm về tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người vẫn luôn là nhóm đề tài được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Đáng lưu ý là Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam
1
năm 1999 tập II phần các tội phạm cụ thể đã được rất nhiều các tập thể các tác giả
nghiên cứu và xuất bản; Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm của PGS – TS
Nguyễn Xuân Yêm; Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nhân phẩm danh dự của
con người của PGS – TS Nguyễn Ngọc Hòa; Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm tính mạng, nhân phẩm, danh dự của con người – TS Trần Văn Luyện, Giết người
và đấu tranh phòng chống tội giết người – TS Đỗ Đức Hồng Hà….
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về tội vô ý làm chết người.
Do vậy, cần có một công trình nghiên cứu về tội vô ý làm chết người trong pháp luật
hình sự Việt nam.
3. Mục đích, phạm vi, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề sau:
Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vô ý làm chết người. Trong đó làm rõ
mặt lý luận về hành vi vô ý làm chết người, khái niệm vô ý làm chết người, giới hạn
can thiệp của pháp luật hình sự đối với téi vô ý làm chết người. Sự cần thiết phải tội
phạm hoá hành vi vô ý làm chết người
Đồng thời xem xét vô ý làm chết người dưới góc độ là một cấu thành tội phạm
độc lập. Cụ thể xem xét các yếu tố cấu thành tội phạm: khách thể, chủ thể, mặt khách
quan và mặt chủ quan. Xem xét Vô ý làm chết người trong một số trường hợp khác
theo qui định của pháp luật hình sự Việt Nam.
Nghiên cứu các qui định của pháp luật Việt Nam về tội vô ý làm chết người
trong lịch sử pháp luật Hình sự Việt Nam, qui định về tội vụ ý làm chết người trong
pháp luật hình sự một số nước trên thế giới.
Trên cơ sở số liệu thực tiễn tổng kết đánh giá những vướng mắc trong việc áp
dụng BLHS về tội Vô ý làm chết người. Trong đó ph©n tích thực tiễn hành vi vô ý làm
chết người trong giai đoạn hiện nay, đồng thời phân tích thực tiễn việc áp dụng các qui
định của pháp luật đối với hành vi vô ý làm chết người của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó, tìm ra nguyên nhân
và các giải pháp đấu tranh phòng chống tội vô ý làm chết người.
Qua những nội dung nghiên cứu, phân tích trên đề ra một số kiến nghị.
4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu .
2
Đề tài sử dụng các quan điểm của Đảng và nhà nước ta về chính sách xử lý tội
phạm và người phạm tội xâm phạm tính mạng con người trong những năm vừa qua và
việc phòng ngừa các tội phạm này trong tình hình hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là:
- Phương pháp hệ thống hóa
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận
và thực tiến về tội vô ý làm chết người trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích khái niệm, dấu hiệu pháp lý về tội Vô ý làm chết người, đồng thời phân
biệt tội phạm này với mét sè các tội phạm khác còng cã dÊu hiÖu v« ý lµm chÕt ngêi.
- Khái quát tình hình áp dụng pháp luật trong thời gian hiện nay, thực tiễn xét xử.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống tội phạm.
- Kết quả của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, học tập, đồng thời cung cấp
cho cán bộ làm công tác thực tiễn những hướng dấn, chỉ dẫn cụ thể, góp phần nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
I. Sù cÇn thiÕt quy ®Þnh téi v« ý lµm chÕt ngêi trong ph¸p luËt h×nh sù
viÖt nam
Con người là tế bào của xã hội, là vốn quý nhất của xã hội, là chủ thể của quan
hệ xã hội cần được xã hội công nhận và bảo vệ các quyền con người. Trong các quyền
con người thì quyền thiêng liêng và cao quý nhất là quyền sống. Vì đó là điều có ý
nghĩa quan trọng nhất đối với bất kỳ cá nhân nào và là cơ sở để mỗi cá nhân con người
có thể thực hiện được các quyền khác của mình được pháp luật công nhận và bảo vệ.
3
Con người và các quyền con người trở thành đối tượng quan trọng được luật hình sự
nói riêng và pháp luật nói chung bảo vệ. Các lĩnh vực liên quan đến con người được
pháp luật hình sự bảo vệ bao gồm nhiều nội dung, nhưng nội dung trước tiên và quan
trọng nhất đó là bảo vệ tính mạng của con người.
Khi hành vi xâm phạm đến quyền sống của con người nó làm đảo lộn và phá
vỡ các quan hệ xã hội, gây thiệt hại nghiêm trọng cho bản thân và gia đình nạn nhân,
gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự xã hội. Hành vi này cần được
trừng trị một cách thích đáng, nghiêm khắc.
Hành vi xâm phạm đến quyền sống – hay xâm phạm tính mạng con người có
nhiều dạng, với nhiều hình thức lỗi khác nhau. Cố ý, vô ý. Nhưng cho dù dưới hình
thức lỗi nào thì hành vi này đều thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội ở mức cao. Nguy
hiểm nhất trong nhóm hành vi xâm phạm tính mạng con người là hành vi giết người.
Hành vi này thể hiện ý chí cố ý tước đoạt tính mạng của người khác. Do tính nguy
hiểm cao độ nên, trong pháp luật hình sự từ xưa đến nay ở bất kỳ quốc gia, hay bất kỳ
chế độ, bất kỳ nhà nước nào cũng nghiêm trị hành vi giết người và áp dụng những
hình phạt nghiêm khắc nhất như tử hình (Điều 93, Luật hình sự năm 1999) [15], chém
(Điều 474 Quốc triều hình luật) [46]… Hành vi vô ý xâm phạm tính mạng con người
được thực hiện với lỗi vô ý mức độ nguy hiểm thấp hơn so với hành vi cố ý tước đoạt
tính mạng con người . Nhưng cho dù vô ý cũng đã thể hiện sự nguy hiểm cao đối với
xã hội. Do vậy việc quy định là tội phạm trong luật Hình sự để đấu tranh phòng ngừa
và chống hành vi nguy hiểm này thực sự cần thiết. Không những vậy, chế tài đưa ra
cũng cần nghiêm khắc mới đáp ứng được đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm.
Khi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là đáng kể, được quy định thành tội
phạm và phải chịu hình phạt trong luật hình sự thì pháp luật hình sự trở thành công cụ
hữu hiệu tác động đến hành vi sai lệch này. Đồng thời tác động đến ý thức của người
dân nói chung tạo ra một giới hạn trong ý thức của họ về việc thực hiện các hành vi
của mình và đấu tranh phòng chống hành vi vi phạm pháp luật này.
4
Theo đó, người thực hiện hành vi vô ý làm chết người bị coi là tội phạm và
phải chịu hình phạt. Đây chính là thái độ của xã hội đối với hành vi đi ngược lại những
chuẩn mực xã hội, đi ngược lại lợi ích của xã hội. Việc chịu hình phạt đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Trên cơ sở đó, người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có điều kiện để cải tạo, giáo dục bản thân trở
thành người có ích cho xã hội.
Việc quy định phù hợp giữa tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi vi phạm và hình phạt, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó phát huy hiệu quả đấu
tranh phòng chống tội phạm, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Hành vi càng thể
hiện tính nguy hiểm cho xã hội cao bao nhiêu, thì hình phạt đối với hành vi ấy phải
càng nghiêm khắc bấy nhiêu. Khi hai yếu tố này tương xứng nó góp phần là giảm
thiểu mặt tiêu cực của hình phạt. Không chỉ cộng đồng xã hội nói chung mà ngay cả
người phạm tội cũng nhận thấy hình phạt cho mình như vậy là thích đáng. Có như vậy,
bản thân họ mới có thể cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong thực tiễn có rất nhiều hành vi xâm phạm tính mạng con người. Với
nhiều hình thức lỗi khác nhau. Cố ý trực tiếp, Cố ý gián tiếp, Vô ý vì quá tự tin và Vô
ý vì cẩu thả. Đối với trường hợp người phạm tội cố ý (bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố
ý gián tiếp) xâm phạm tính mạng, thì tội danh được xác định luôn là giết người, hoặc
giết người có dự mưu…. trường hợp người phạm tội vô ý xâm phạm tính mạng con
người thì được xác định là vô ý làm chết người. Việc xâm phạm tính mạng con người
trong trường hợp này thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội. Từ xưa đến nay, việc
nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi này đã được các nhà nước nhận thức
rõ và đều đã quy định trong luật hình sự của mình. Do kỹ thuật lập pháp ở mỗi giai
đoạn lịch sử và mỗi khu vực có khác nhau, nên việc quy định trong các văn bản pháp
quy mỗi thời mỗi khác. Nhưng tựu trung lại, đều thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà
nước trước hành vi nguy hiểm này.
Quy định tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự là công cụ pháp lý để
Nhà nước – thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước – thể hiện thái độ của mình đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội và kiên quyết đấu tranh phòng chống tội phạm.
5
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử những năm qua cho thấy rằng, mỗi loại tội phạm có
tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, phương pháp đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm cũng khác nhau. Nhưng cho dù như thế nào thì chúng đều gây
những thiệt hại nhất định cho các quan hệ xã hội. Chúng là những hiện tượng xã hội
tiêu cực cần chúng ta không ngừng đấu tranh, hạn chế và từng bước loại trừ ra khỏi
đời sống xã hội.
Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm vô ý làm chết người nói riêng và tội
phạm nói chung đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách có hệ thống, đồng bộ, đồng
thời sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, không ngừng bổ trợ, tương hỗ cho nhau để
phát huy mặt tích cực và hạn chế những điểm yếu của từng biện pháp. Trên cơ sở đó,
phát huy tốt nhất hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đây không phải
là nhiệm vụ của riêng ai. Từ hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp, cơ quan tư
pháp, đến các tổ chức chính trị, chính trị xã hội và đặc biệt quan trọng đó là ý thức đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm của chính mỗi người dân. Đồng thời sử dụng
nhiều biện pháp từ những biện pháp nhẹ nhàng như giáo dục, thuyết phục, rồi tăng dần
đến các biện pháp cưỡng chế – trong đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước
nghiêm khắc nhất.
Trước đòi hỏi đó, BLHS đầu tiên năm 1985 đã quy định tội vô ý làm chết
người tại điều 104 BLHS. Tuy nhiên tại quy định năm 1985, cấu thành tội phạm vô ý
làm chết người được quy định gộp hai loại hành vi trong một cấu thành tội phạm
chung. Bao gồm hành vi vô ý làm chết người và hành vi vô ý làm chết người do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Do hai hành vi làm chết người
này có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là khác nhau. Do đó, việc
quy định như vậy chưa đáp ứng được đòi hỏi của việc cá thể hoá trách nhiệm hình sự.
Xuất phát từ tính nguy hiểm cho xã hội của hai loại tội phạm này là khác nhau, đồng
thời chúng có những đặc điểm riêng, yêu cầu đặt ra là hai hành vi này cần thiết phải
xây dựng thành các cấu thành tội phạm của các tội danh khác nhau. Việc quy định
riêng biệt cấu thành tội phạm của chúng là cơ sở để quy định dấu hiệu trong mỗi cấu
thành tội phạm phù hợp ở mức cao nhất với đặc điểm và tính nguy hiểm cho xã hội
6
của hành vi phạm tội và hình phạt tương ứng. Đồng thời cho phép tiếp tục phân hoá
các cấu thành tội phạm này trong phạm vi từng tội danh. Điều này thể hiện ở việc: đối
với cùng một loại hành vi vô ý làm chết người cũng có nhiều mức độ nguy hiểm khác
nhau cần thiết phải tiếp tục phân hoá theo từng khoản một để có thể đưa ra khung hình
phạt phù hợp. Bên cạnh việc phân hoá hành vi nguy hiểm cho xã hội của các loại hành
vi khác nhau thành các cấu thành tội phạm độc lập. Mỗi cấu thành tội phạm cũng cần
phải phản ánh đúng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Xem xét phân tách cấu
thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cũng góp phần phân hoá trách nhiệm hình sự của từng mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi.
Hành vi vô ý làm chết người trong mỗi trường hợp khác nhau là khác nhau.
Nhưng để đảm bảo yêu cầu của phân hoá trách nhiệm hình sự, việc cụ thể hoá trách
nhiệm hình sự theo tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là rất cần thiết.
Trường hợp vô ý làm chết một người và vô ý làm chết nhiều người tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi có sự khác biệt lớn. Chia tách theo từng mức độ như vậy là cơ sở để
chúng ta đưa ra mức chế tài phù hợp. Sự phân hoá trách nhiệm hình sự càng triệt để
bao nhiêu thì sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi bấy nhiêu cho công tác cá thể
hoá trách nhiệm hình sự trong thực tiễn xét xử.
Từ những đòi hỏi nêu trên, việc quy định tội vô ý làm chết người trong BLHS
năm 1999 với hai cấu thành tội phạm (cấu thành tội phạm cơ bản và cấu thành tội
phạm tăng nặng trách nhiệm hình sự) là thật sự đúng đắn và cần thiết đáp ứng được
đòi hỏi của lý luận và thực tiễn.
II. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội v« ý lµm chÕt ngêi
1. Khái niệm
“Vô ý làm chết người” hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các trường hợp vô
ý làm chết người được quy định trong các đạo luật Hình sự và văn bản hướng dẫn thi
hành, văn bản pháp luật hình sự từ trước tới nay. Nghiên cứu về khái niệm Vô ý làm
7
chết người trong các văn bản đó là nghiên cứu về khái niệm “Vô ý làm chết người”
nói chung. Trong phạm vi Luận văn này, học viên tập trung nghiên cứu Tội Vô ý làm
chết người theo quy định tại điều 98 BLHS 1999. Những trường hợp Vô ý làm chết
người khác như “làm chết người trong khi thi hành công vụ”, “vô ý làm chết người do
vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính”, “không cứu giúp người đang
ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”, “vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ – dẫn đến chết người”, …quy định tại các điều 97,
99, 102, 202, …. BLHS chỉ được nghiên cứu ở từng khía cạnh để so sánh, đối chiếu
với “Tội Vô ý làm chết người” tại điều 98 BLHS 1999.
Khái niệm tội vô ý làm chết người
Trên thế giới có hai cách qui định về tội vô ý làm chết người Bộ luật hình sự.
Cách thứ nhất đưa ra một quy phạm mang tính chất định nghĩa về tội vô ý làm chết
người trong luật thực định. Cách thứ hai không đưa ra một quy phạm mang tính chất
định nghĩa về tội vô ý làm chết người trong luật hình sự thực định. Pháp luật Hình sự
Việt Nam quy định theo cách thứ hai. Do dó, không có khái niệm tội vô ý làm chết
người trong luật thực định.
Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam có nhiều khái niệm khác nhau về tội
vô ý làm chết người. Khái niệm thứ nhất cho rằng: “Vô ý làm chết người là hành vi
của một người làm cho người khác chết với lỗi vô ý”[41, Tr 68].
Phân tích khái niệm trên ta thấy: thứ nhất về nội dung cách định nghĩa này
không đề cập đến dấu hiệu năng lực TNHS và các dấu hiệu của chủ thể đối với tội
phạm này. Thứ hai, ta thấy có sự luẩn quẩn trong khái niệm trên. Đặt yếu tố lỗi sang
một bên để xem xét, ta thấy, khái niệm trên không phân tách giữa khái niệm và nội
hàm của khái niệm đồng thời không thể hiện nội hàm của khái niệm. Khái niệm trên
có thể viết thu lại thành “...làm chết người là hành vi của một người làm cho người
khác chết...”
Định nghĩa về vô ý làm chết người, Thẩm Phán, Thạc Sỹ Đinh Văn Quế đã
nêu như sau: “Vô ý làm chết người là hành vi của một người không thấy trước được
8
hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể
thấy trước hoặc tuy thấy trước nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra” [3, Tr. 104].
Trong định nghĩa đã nêu rõ nội dung của hai hình thức lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý vì
cẩu thả trong yếu tố lỗi vô ý. Tuy nhiên, chúng ta thấy, định nghĩa này nặng về việc
xác định hình thức lỗi hơn là việc đưa ra một khái niệm đủ sức để cá biệt hoá hành vi
vô ý làm chết người với các hành vi của các loại tội phạm khác cũng có dấu hiệu vô ý
làm chết người. Định nghĩa trên cũng chưa nêu hậu quả của hành vi đó là phải gây ra
cái chết cho người khác. “chết người” trong định nghĩa trên mới ở dạng tiềm năng
“khả năng gây ra cái chết”. Định nghĩa trên cũng giống như cách định nghĩa thứ nhất
chưa đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và các dấu hiệu của chủ thể đối
với tội phạm này, đồng thời định nghĩa này chưa làm rõ được ranh giới của hành vi vô
ý làm chết người và các hành vi khác cũng có dấu hiệu vô ý làm chết người.
Về hành vi: Trong luật hình sự Việt Nam, hành vi vô ý làm chết người không
chỉ có trong tội vô ý làm chết người mà còn có trong một số tội phạm được qui định
tại các điều luật khác ví dụ như: “Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ”;
“Tội làm chết người do vi phạm qui tắc nghề nghiệp hoặc qui tắc hành chính”;“Tội vi
phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; “Tội vi phạm qui
định về điều khiển phương tiện giao thông đường thuỷ ”... Về cơ bản, trong những
trường hợp này cũng là vô ý làm chết người, do vậy định nghĩa tội vô ý làm chết
người phải phân biệt được ranh giới giữa tội vô ý làm chết người với các tội phạm
khác cũng có dấu hiệu vô ý làm chết người.
Hành vi vô ý làm chết người để xác định tội phạm và hình phạt theo qui định
tại điều 98 BLHS với tội danh “Tội vô ý làm chết người” là trường hợp hành vi vô ý
gây ra cái chết cho người khác trong điều kiện hoạt động sinh hoạt thông thường.
Những hành vi phát sinh từ sinh hoạt hàng ngày là vô cùng phong phú, muôn hình vạn
trạng. Trong hầu hết các lĩnh vực chứa đựng những nguy cơ, hay nguồn nguy hiểm,
đều có những nguyên tắc đảm bảo an toàn. Khi thực hiện hành vi đòi hỏi chúng ta phải
nắm được và tuân thủ những quy tắc an toàn để phòng ngừa và tránh những hậu quả
xấu có thể xảy ra, phải cân nhắc, xem xét trước khi đi đến một hành động cụ thể. Nếu
9
trong quá trình thực hiện, chúng ta bỏ qua những nguyên tắc đảm bảo an toàn đó,
chúng ta có thể gây ra những hậu quả khôn lường. Nếu gây thiệt hại về tính mạng cho
người khác, người thực hiện hành vi đó có thể trở thành tội phạm vô ý làm chết người.
Về dấu hiệu hậu quả chết người: Việc vi phạm quy tắc an toàn trong sinh
hoạt thông thường thật sự nguy hiểm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự khi
gây thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Việc gây ra
hậu quả chết người là rất nghiêm trọng. Hành vi này thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm
của nó khi có hậu quả chết người xảy ra. Do vậy quy định hậu quả chết người là dấu
hiệu bắt buộc có trong cấu thành tội phạm mới thể hiện hết được tính nguy hiểm cho
xã hội của hành vi.
Đồng thời, hậu quả chết người này phải là kết quả của việc thực hiện hành vi.
Hay nói cách khác là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết
người. Hành vi vi phạm phải chứa đựng trong nó nguy cơ thực tế dẫn đến hậu quả.
Hậu quả chết người xảy ra phải là hậu quả tất yếu do hành vi vi phạm quy tắc bảo đảm
an toàn đó gây ra. Và về mặt thực tế, hậu quả đó đã xảy ra.
Về yếu tố lỗi: Nguyên tắc có lỗi là một nguyên tắc cơ bản. Không có lỗi thì
không có tội phạm. Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình vì hành vi
của con người có tính tất yếu. Đồng thời, hành vi còn có sự chi phối bởi khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi của con người. Đây chính là sự tự do lựa chọn và tự
do điều khiển hành vi của con người. Khi họ có đủ các điều kiện để tự do lựa chọn, tự
do điều khiển hành vi, nhưng họ đã lựa chọn hành vi phạm tội, như vậy, họ đã có lỗi
trong việc lựa chọn, quyết định và thực hiện hành vi phạm tội. Trước những đòi hỏi
của xã hội, người phạm tội đã dùng ý trí và lý trí để lựa chọn hành động đi ngược lại
với những đòi hỏi của xã hội. “Người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
xã hội trong khi có tự do lựa chọn thì có nghĩa họ là người có lỗi”. [47, Tr 31]. Chỉ coi
là Tội vô ý làm chết người khi tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý gây ra hậu quả
chết người, bao gồm cả khi họ đã nhận thức được hậu quả nguy hiểm có thể xảy ra,
nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc họ có thể ngăn ngừa được (lỗi vô ý vì
quá tự tin) và khi họ do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra
10
hậu quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả này (lỗi vô ý vì cẩu
thả) [15] (điều 10 BLHS).
Bên cạnh những đặc trưng riêng về hành vi, về hậu quả, về yếu tố lỗi của tội
Vô ý làm chết người, để đảm bảo sự đầy đủ của một định nghĩa, trong định nghĩa cũng
cần phải nêu được điều kiện về chủ thể của tội phạm như năng lực trách nhiệm hình sự
và tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Cũng là hành vi vi phạm các quy tắc sinh hoạt thông
thường, cũng là hậu quả chết người, cũng với lỗi vô ý, nhưng nếu tội phạm được thực
hiện bởi chủ thể là người không có năng lực trách nhiệm hình sự, chưa đủ tuổi thì
cũng không cấu thành tội phạm Vô ý làm chết người.
Bên cạnh đó, trên cơ sở khoa học chúng ta thấy rằng một định nghĩa khoa học
nhất thiết phải đáp ứng được bốn tiêu chí chủ yếu là chặt chẽ về mặt lôgic, chính xác
về mặt ngôn ngữ, ngắn gọn về mặt hình thức (cấu trúc) và đầy đủ về mặt nội dung [44,
Tr.296].
Khi đưa ra khái niệm về tội vô ý làm chết người, trong khái niệm phải nêu bật
được những đặc trưng của tội phạm này: Về khách thể: quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ, về khách quan: giới hạn về hành vi làm chết người xem xét xử lý về tội vô
ý làm chết người, hậu quả chết người, mối quan hệ nhân quả; về dấu hiệu hậu quả chết
người, về chủ quan: yếu tố lỗi, về chủ thể: năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi.
Thông qua định nghĩa, phải thấy rõ được phạm vi điều chỉnh hay giới hạn của tội
phạm này.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về tội Vô ý làm chết người
như sau:
“Tội vô ý làm chết người là hành vi gây ra cái chết cho người khác một
cách trái pháp luật trong điều kiện sinh hoạt thông thường, do người có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS, thực hiện một cách vô ý”
2. Dấu hiệu pháp lý của tội v« ý lµm chÕt ngêi
2.1.
Khách thể của tội phạm
11
Tội vô ý làm chết người xâm phạm đến quyền sống của con người. Hành vi
của tội phạm tác động đến con người đang sống, trong điều kiện sinh hoạt bình thường
gây nên sự biến đổi trạng thái của con người từ một cơ thể sống chuyển sang chấm dứt
và mất khả năng sống.
Tuy nhiên để xác định một hành vi có xâm phạm quyền sống hay không chúng
ta phải xác định đối tượng tác động có phải là một con người đang sống hay không.
Nhưng, thế nào là một con người đang sống. Việc xác định đúng đối tượng tác động
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nếu chủ thể thực hiện hành vi có lỗi vô ý tác động vào
đối tượng không phải hay chưa phải là con người đang sống thì không xâm phạm
quyền sống của con người và không phạm tội vô ý làm chết người.
Theo từ điển tiếng việt thông dụng thì “sống” là tồn tại ở hình thức có sự trao
đổi với môi trường, có sự sinh trưởng, phát triển. Theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành thì quyền sống của con người chỉ được xác định đối với con người độc
lập và còn sống. Cuộc sống của con người được tính từ thời điểm đứa trẻ được người
mẹ sinh ra cho đến khi sự sống thực sự chấm dứt. Theo đó, quyền sống của con người
cũng được tính từ thời điểm bắt đầu sự sống cho đến khi con người đó thực sự chấm
dứt hoàn toàn sự sống.
Về thời điểm bắt đầu sự sống của con người
Về mặt khoa học, trường hợp bào thai hiện nay trên thế giới cũng như tại Việt
Nam còn nhiều quan điểm trái ngược nhau. Xâm phạm đến sự sống của bào thai thì có
được coi là xâm phạm đến quyền sống hay không. Có quan điểm cho rằng bào thai đã
được coi như một con người. Vì bào thai đã thực sự bắt đầu sự sống, phát triển bình
thường với vai trò một thực thể sống. Theo quan điểm này thì bảo vệ bào thai cũng
như việc bảo vệ con người, việc xâm phạm đến sự sống của bào thai, làm chết bào thai
cũng là xâm phạm quyền sống và có thể trở thành tội phạm xâm phạm tính mạng con
người.
Quan điểm thứ hai cho rằng bào thai chưa được coi là con người. Thời điểm để
được coi là con người là thời điểm bào thai được sản phụ sinh ra. Bởi lẽ, bào thai tuy
12
đã bắt đầu sự sống trong tử cung của người mẹ. Tuy nhiên, bào thai chưa tồn tại độc
lập. Toàn bộ quá trình dinh dưỡng, hô hấp của bào thai đều hoàn toàn phụ thuộc vào
người mẹ và là một phần trong cơ thể người mẹ. Sự sống hay chết của người mẹ sẽ
trực tiếp ảnh hưởng đến sự sống hay chết của bào thai. Và bào thai chưa là một thực
thể độc lập trong thế giới khách quan.
Tại mỗi quốc gia khác nhau trên thế giới chính sách hình sự của mỗi nước
khác nhau rất nhiều. Tuỳ thuộc vào văn hoá, kinh tế, chính trị và đặc điểm xã hội của
mỗi quốc gia mà việc xác định thời điểm bắt đầu sự sống của mỗi con người theo pháp
luật của mỗi quốc gia cũng khác nhau. Ngoài ra còn phụ thuộc vào các chính sách phát
triển trong đó có chính sách dân số của từng quốc gia... Nhưng cho dù phụ thuộc vào
yếu tố nào đi chăng nữa, sự sống của bào thai là một thực tế không thể chối từ và cần
được bảo vệ. Theo quan điểm cá nhân học viên cho rằng: Sự sống của bào thai đã hình
thành từ khi trứng được thụ tinh và làm tổ trong tử cung của người mẹ. Bào thai đã
mang những đặc điểm của sự sống như dần có sự hình thành và hoàn thiện các mô, cơ,
mạch máu, có sự trao đổi chất, hô hấp thông qua cuống rốn và nhau thai, có cảm giác,
xúc giác và các bộ phận khác của cơ thể con người; có hệ thần kinh và sơ đồ gen riêng
mang tính cá thể, riêng biệt; dần hình thành hệ đường vân riêng mang tính cá nhân, có
sự sinh trưởng và phát triển... Tuy chưa độc lập nhưng bào thai đã đầy đủ yếu tố để
xác định sự sống của mình, xác định tính cá thể của mình. Bản thân bào thai quá non
nớt, chưa thể độc lập và phụ thuộc vào rất nhiều vào cơ thể người mẹ. Càng không thể
nói đến việc tự bảo vệ quyền sống cho mình. Chính sách dân số của mỗi quốc gia ảnh
hưởng rất nhiều đến việc pháp điển hoá một quy định pháp luật hình sự về việc bảo vệ
bào thai. Với một nước có sự gia tăng dân số như nước ta hiện nay, tỷ lệ dân số nước
ta trong thời gian tới đang có nguy cơ thiếu lao động, dân số già, chính sách dân số
cũng đã mở rộng về lượng con cho phép mỗi cặp vợ chồng được sinh… việc bảo vệ
bào thai cũng trở nên cần thiết. Xét từ góc độ nhân đạo, chúng ta có thể giới hạn độ
tuổi của bào thai có thể cho phép việc chấm dứt thai kỳ (như trong quy định của pháp
luật hình sự Đức) như thai nhi dưới 12 tuần tuổi. Khi bào thai đã qua 12 tuần tuổi, bào
thai đã hình thành rõ hình người, giới tính, các chi, hệ đường vân… tính cá thể của
thai nhi đã được xác định rõ rệt, chúng ta cần phải bảo vệ quyền sống cho bào thai. Vì
13
các lẽ trên, cho dù xét từ góc độ sinh học, góc độ xã hội hay từ góc độ nhân đạo đều
cho thấy rằng: cần thiết phải công nhận quyền sống của bào thai và phải được bảo vệ
như một thực thể sống con người. Và cần thiết phải ghi nhận trong pháp luật hiện hành
việc bảo vệ quyền sống của bào thai.
Ở một số nước trên thế giới, bào thai được coi là một con người. Như pháp
luật của Cộng hoà Liên bang Đức, Bang California… do đó đã trở thành đối tượng của
tội phạm xâm phạm tính mạng nói chung. Tuy nhiên, theo qui định của pháp luật Việt
Nam, bào thai chưa phải là con người độc lập do đó không phải là đối tượng tác động
của tội vô ý làm chết người nói riêng cũng như các tội xâm phạm tính mạng con
người.
Pháp luật Việt Nam chỉ công nhận là con người khi đứa trẻ đó được sinh ra.
Nhưng thời điểm đứa trẻ được người mẹ sinh ra hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi.
Việc sinh con của người mẹ diễn ra trong một khoảng thời gian, ngắn - dài tuỳ thuộc
vào từng trường hợp riêng biệt. Tuy nhiên, tất cả đều diễn ra tuần tự theo các bước từ
lúc người phụ nữ chuyển dạ, vỡ ối và đứa trẻ được sinh ra dần dần tách khỏi cơ thể
người mẹ cho đến khi thoát hẳn ra bên ngoài và được cắt rốn. Thời điểm đứa trẻ được
cắt sợi dây rốn là thời điểm đứa trẻ thực sự trở thành một thực thể độc lập. Tuy vậy,
khi nào đứa trẻ được xác định quyền sống độc lập của mình và được pháp luật bảo vệ
quyền sống. Hiện nay vẫn đang tồn tại hai quan điểm: một quan điểm cho rằng “chỉ
được coi là con người khi thai nhi đã hoàn toàn được sinh ra khỏi cơ thể người mẹ và
tồn tại độc lập trong thế giới khách quan” [39, Tr.11]. Theo đó, thời điểm được coi là
con người trùng với thời điểm người mẹ kết thúc quá trình sinh con và đứa trẻ được
cắt sợi dây rốn. Một quan điểm khác thì cho rằng “thời điểm bắt đầu sự sống của con
người là thời điểm bắt đầu quá trình sinh đứa trẻ từ khi một phần cơ thể của thai nhi đã
bắt đầu nhìn thấy thai nhi qua cửa mình của người mẹ”. [1, Tr. 27]. Quan điểm thứ hai
nêu chưa thật sự rõ ràng. Thời điểm bắt đầu quá trình sinh không cùng với thời điểm
nhìn thấy thai nhi qua cửa mình của người mẹ. Khi quá trình sinh bắt đầu, người mẹ sẽ
có những biểu hiện chuyển dạ, vỡ ối. Giai đoạn này chưa thể nhìn thấy thai nhi qua
cửa mình người mẹ. Sau gia đoạn này mới sang giai đoạn lấy hơi, dồn sức và “dặn
14
đẻ”. Tại bước cuối cùng này, cơ thể của thai nhi mới bắt đầu dần nhìn thấy qua cửa
mình của người mẹ. Thực tiễn đã cho thấy, không ít trường hợp, những cái chết đã xảy
ra trong quá trình sinh đứa trẻ. Có rất nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên
nhân đó là sự thiếu trách nhiệm, sự cẩu thả của một số y tá, bác sỹ …Từ khi thấy một
phần cơ thể của đứa trẻ, trong một số trường hợp phải có sự can thiệp từ bên ngoài.
Việc thiếu trách nhiệm của y bác sỹ có thể là nguyên nhân dẫn đến đứa trẻ bị chết. Do
đó, quan điểm này cho rằng cần phải bảo vệ đứa trẻ sớm hơn, bảo vệ quyền sống của
con người. Ngược trở lại, trong quá trình sinh đứa trẻ, với một người mẹ không có
kinh nghiệm, do không thực hiện theo chỉ dẫn của bác sỹ chuyên môn, dẫn đến hậu
quả đứa trẻ bị chết ngạt thì người mẹ này hoàn toàn có thể bị kết tội vô ý làm chết
người... Người mẹ đã trải qua chuyến “vượt cạn” đầy nguy hiểm. Đứa trẻ được sinh ra
cũng đồng thời với việc người mẹ được sinh ra một lần nữa. Nhưng không may mắn,
đứa trẻ đã chết. Định tội cho người mẹ này như thế nào. Coi đây là hành vi vô ý làm
chết người hay không? Về đạo đức, lương tâm đều không thể.
Theo quan điểm của học viên, học viên cho rằng thời điểm bắt đầu sự sống của
một con người độc lập đó là khi người mẹ đã kết thúc quá trình sinh- cơ thể đứa trẻ
được thoát hẳn ra bên ngoài cơ thể người mẹ. Việc cắt dây rốn cho đứa trẻ hay chưa
không quan trọng, vì điều đó chỉ mang tính hình thức. Dinh dưỡng của đứa trẻ không
còn phụ thuộc vào cuống rốn nữa. Điều quan trọng nhất, sự sống của đứa trẻ đã độc
lập, đứa trẻ đã là một con người độc lập.
Khi thai nhi dần tách khỏi cơ thể mẹ, thai nhi chỉ còn “dính” với cơ thể người
mẹ qua cuống rốn. Tất cả hệ tuần hoàn, hệ hô hấp của thai nhi đã hoàn thiện về cơ bản,
sự phụ thuộc về dinh dưỡng, hô hấp của thai nhi đã chấm dứt. Tuy nhiên, lúc này, sự
sống của đứa trẻ vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào người mẹ. Chúng ta đang bảo vệ quyền
sống của con người. Khi bản thân quyền sống đó, thai nhi chưa hoàn toàn độc lập, như
vậy không thể nói đến việc bảo vệ quyền sống đó như một quyền sống của con người
độc lập.
Về thời điểm chấm dứt hoàn toàn sự sống.
15
Thông thường chúng ta sử dụng thuật ngữ “chết” hay “sự chết”. Theo giáo
trình Y pháp học [30], “sự chết là kết thúc không thể hồi phục hoạt động sống của một
cá thể”. Nhưng trong thực tế, khi đi vào bản chất sâu xa, sự chết không đơn giản như
một mệnh đề định nghĩa. Ở đây ta chỉ xét dưới khía cạnh sinh học. Trên một cơ thể
sinh học nói chung, luôn luôn có sự suy thoái, già và chết đi của các tế bào, của hồng
cầu, của một bộ phận mô - cơ quan bị cắt bỏ, bị hoại tử. Ngược lại, khi một cơ thể đã
chính thức báo tử vẫn còn rất nhiều cơ quan mô, tạng, tế bào vẫn duy trì sự sống của
riêng nó một thời gian sau đó.
Sự chết xảy ra không phải chỉ trong một thời điểm mà chính xác là một quá
trình. Lần lượt là hấp hối, chết lâm sàng rồi chết sinh học. Thời gian của từng giai
đoạn này và của cả quá trình diễn ra dài ngắn khác nhau tuỳ thuộc vào nguyên nhân tử
vong.
Theo quan niệm kinh điển, quá trình chết gồm giai đoạn hấp hối, giai đoạn
chết lâm sàng, và giai đoạn chết sinh học. Ở giai đoạn hấp hối, các chức năng sống của
cơ thể rơi vào tình trạng suy thoái, rối loạn. Trung khu thần kinh bị ức chế sâu, ý thức
mơ hồ hoặc mất hẳn, các phản xạ thần kinh mất. Tim đập chậm lại, rời rạc, huyết áp
tụt, hô hấp bị rối loạn, thở yếu, có cơn ngừng thở. Giai đoạn chết lâm sàng được bắt
đầu với dấu hiệu ngừng thở, ngừng tim. Tiếp đó giãn hết đồng tử, mất hoàn toàn các
phản xạ. Giai đoạn này có thể dẫn đến việc chết não khi các tế bào thần kinh và mô
não bị mất oxy nuôi dưỡng. Thông thường, khả năng chịu thiếu oxy của não từ 5-7
phút, nếu quá thời hạn đó, con người không thể hồi sinh. Giai đoạn chết sinh học là
giai đoạn chết thực thể của mô tế bào. Quá trình trao đổi chất của cơ thể ngừng lại. Bắt
đầu xuất hiện sự thoái hoá, hoại tử, không còn khả năng hồi phục. Giai đoạn này có ý
nghĩa quan trọng vì sự biến đổi sau chết bắt đầu hình thành. Giai đoạn này chính thức
xác định cái chết của một con người sinh học. Đây là quy trình chung, tuy vậy, không
phải mọi trường hợp đều diễn ra theo các giai đoạn nêu trên. Trường hợp do tổn
thương sọ não, tổn thương tim, nhiễm độc HCN (cianua) thậm chí không có hấp hối.
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống và trong hoạt động lâm sàng, đã có không ít
hiện tượng chết giả. Thường gặp trong các trường hợp như: điện giật, ngạt nước, ngạt
16
cơ học; nhiễm độc thuốc ngủ, thuốc mê, oxyt carbon (CO), bị rắn độc cắn; mất máu,
mất nước cấp tính số lượng lớn; chết giả ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ do hệ thần kinh chưa
hoàn thiện. Để loại trừ chết giả, hiện nay có thể ghi điện tim, điện não để xác định
chính xác sự chết.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể xác định rõ rằng: đối tượng tác động
của tội vô ý làm chết người là con người đang sống. Con người đang sống được tính từ
thời điểm đứa trẻ được người mẹ sinh ra - kết thúc quá trình sinh, cho đến khi người
đó thực sự chết – giai đoạn chết sinh học.
Do đó, sự tác động vào cơ thể con người trong khoảng xác định nêu trên gây ra
cái chết cho con người đều xác định là hành vi xâm phạm tính mạng của con người
2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành của tội phạm.
không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và cũng
không có tội phạm. “Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan”
[47]. Theo đó, mặt khách quan của tội vô ý làm chết người là những biểu hiện của tội
vô ý làm chết người diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Trong đó bao
gồm: hành vi nguy hiểm, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội; các điều kiện bên ngoài của việc
thực hiện hành vi phạm tội: thời gian, địa điểm phạm tội,… Trong đó hành vi nguy
hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả là những biểu hiện cơ bản của yếu tố mặt khách quan của tội vô ý làm chết người.
2.2.1 Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội vô ý làm chết người là những biểu hiện của con
người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể có sự kiểm soát
của ý thức và điều khiển của ý chí.
Hành vi nguy hiểm hay hành vi khách quan của tội phạm là yếu tố cơ bản
không chỉ đối với tội vô ý làm chết người mà còn là yếu tố cơ bản của mọi cấu thành
17
tội phạm. Hành vi khách quan là nguyên nhân dẫn đến việc xảy ra hậu quả nguy hiểm,
là nguyên nhân gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, là
biểu hiện bên ngoài của ý thức, ý chí chủ quan của người phạm tội, … cụ thể đối với
tội vô ý làm chết người hành vi khách quan là nguyên nhân gây thiệt hại cho sự sống
của con người. Hậu quả làm chết người chỉ xuất hiện sau khi có hành vi khách quan
diễn ra. Sau khi có hành vi khách quan diễn ra chúng ta mới có thể xem xét đến các
yếu tố khác như chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm.
Theo luật Hình sự Việt Nam, hành vi khách quan của tội vô ý làm chết người
nói riêng và hành vi khách quan của tội phạm nói chung đều phải thoả mãn ba đặc
điểm:
Thứ nhất: hành vi khách quan phải có tính nguy hiểm cho xã hội. Hành vi
khách quan của tội vô ý làm chết người xâm hại đến khách thể được pháp luật hình sự
bảo vệ đó là quyền sống của con người. Một quyền cơ bản nhất của con người. Quyền
thiêng liêng cao quý nhất mà tự nhiên ban cho mỗi con người. Bất kỳ một quốc gia
nào từ xưa đến nay, không phân biệt Á, Âu đều đề cao và đặc biệt bảo vệ quyền sống.
Điều này cho thấy hành vi khách quan của tội vô ý làm chết người có tính nguy hiểm
cao. Thiệt hại mà hành vi vô ý làm chết người gây ra là rất lớn và không thể khắc
phục, mọi sự cố gắng bồi thường thiệt hại chỉ mang tính động viên tinh thần cho thân
nhân người bị tội phạm xâm hại. Tính mạng con người đã mất đi không thể nào lấy lại
được.
Thứ hai: Hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý thức và ý chí. Sự
kiểm soát của ý thức và điều khiển của ý chí là hai điều kiện cần và đủ để xác định
hành vi khách quan của tội vô ý làm chết người.
Trường hợp gây thiệt hại do bị cưỡng bức thân thể là trường hợp đặc biệt
thuộc loại biểu hiện không phải hành vi. Biểu hiện này tuy gây thiệt hại cho quan hệ
xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ nhưng không phải là kết quả của hoạt động ý chí
mà là kết quả của sức mạnh khống chế họ, bản thân người bị cưỡng bức thân thể chỉ
như là một công cụ phạm tội của kẻ đã dùng sức mạnh khống chế họ.
18
Trường hợp gây thiệt hại do bị cưỡng bức tinh thần khác so với trường hợp
gây thiệt hại do bị cưỡng bức về thân thể. Trường hợp này, người đã thực hiện hành vi
khách quan gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ do áp lực
bên ngoài. Biểu hiện của người gây thiệt hại tuy có bị chi phối bởi ý chí của kẻ đe doạ
nhưng vẫn là kết quả của hoạt động ý chí, và do đó vẫn là hành vi của chính họ. Tuỳ
thuộc vào mức độ của sự cưỡng bức về tinh thần để đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm
hình sự của người thực hiện hành vi gây thiệt hại.
Thứ ba: hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự
Hành vi thực hiện chỉ được coi là hành vi khách quan của tội phạm cụ thể khi
hành vi đó được qui định trong luật hình sự. Việc thực hiện hành vi khách quan thoả
mãn các đặc điểm của tội phạm qui định trong luật hình sự đồng nghĩa với vi phạm
pháp luật hình sự, hay trái pháp luật hình sự. Tội vô ý làm chết người, trải qua các thời
kỳ lịch sử lập pháp Việt nam được gọi với nhiều tên gọi khác nhau như ngộ sát, thất
sát thương, lầm lỡ làm chết người nhưng về bản chất vẫn thể hiện đó là hành vi vô ý
làm chết người. Bộ Luật hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kế
thừa truyền thống lập pháp và quy định về tội phạm này. Quy định này trở thành cơ sở
pháp lý cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Hình thức thể hiện của hành vi
Hành vi khách quan của tội vô ý làm chết người có thể bằng hành động và
không hành động.
Hành động phạm tội vô ý làm chết người là hình thức của hành vi khách quan
làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm là con người
đang sống gây thiệt hại là hậu quả chết người qua việc chủ thể làm một việc bị pháp
luật cấm.
Hành động phạm tội có thể chỉ tác động đơn giản xảy ra một lần trong thời
gian ngắn hoặc dài, hoặc có thể là tổng hợp của nhiều động tác khác nhau, hoặc có thể
lặp đi lặp lại liên tục trong thời gian dài. Hành động phạm tội có thể tác động trực tiếp
vào đối tượng tác động hoặc thông qua trung gian là các công cụ, phương tiện phạm
19
tội. Trường hợp hành động phạm tội thông qua công cụ phương tiện phạm tội như:
trường hợp giăng dây điện trần để bẫy chuột tại nơi ít người qua lại, nhưng đã dẫn đến
hậu quả điện giật làm chết người; hoặc trường hợp dùng súng tự chế bắn chim, thú
nhưng không may trúng vào người khác làm chết người, hành động tự cấp cứu cho
người khác không đúng cách dẫn đến chết người….
Không hành động phạm tội là hình thức hành vi khách quan làm biến đổi tình
trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể
của tội phạm thông qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải
làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. như trường hợp: người sửa thiết bị điện, khi đi ra
ngoài mua bổ sung thiết bị để lắp đặt, sửa chữa đã không cắt cầu dao, khi người khác
không biết đến khu vực đó đã bị điện giật dẫn đến chết người.
Tính trái pháp luật được thể hiện ở chỗ, chủ thể phải làm việc đó đã không
thực hiện việc làm đó mặc dù có điều kiện để làm, nghĩa vụ phải làm. Nghĩa vụ phải
làm này có thể xuất phát từ nhiều căn cứ như : căn cứ phát sinh do luật định, do quyết
định của cơ quan có thẩm quyền, nghĩa vụ phát sinh do nghề nghiệp, … Bên cạnh đó,
nghĩa vụ phải làm này còn có thể phát sinh do các nguyên tắc bảo đảm an toàn được
đa số mọi người công nhận và thực hiện.
Hành vi khách quan của tội vô ý làm chết người là những hành vi gây chết
người trong điều kiện sinh hoạt thông thường. Trường hợp vô ý làm chết người khi
tham gia giao thông, cần xem xét có lỗi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông (đường bộ, đường sắt, đường thủy) hay không để xác định tội danh về vi
phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông. Trong trường hợp này về cơ bản
đây là vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính trong lĩnh vực giao thông
vận tải. Nhưng do đây là một dạng vi phạm phổ biến, nguy hiểm cho người và các
phương tiện khác cùng tham gia giao thông, gây thiệt hại đáng kể cho xã hội. Do đó,
cần thiết phải xây dựng thành một quy định riêng để phục vụ cho công tác đấu tranh
phòng chống loại hành vi nguy hiểm này – loại tội phạm này. Do đã có quy định riêng,
điều chỉnh trực tiếp nên khi hành vi nguy hiểm này xảy ra ta chỉ xem xét có hay không
20
- Xem thêm -