Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm theo luật h...

Tài liệu Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm theo luật hình sự việt nam

.PDF
104
127
88

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ TRỌNG MẠNH Téi vi ph¹m quy ®Þnh vÒ qu¶n lý, b¶o vÖ ®éng vËt nguy cÊp, quý, hiÕm theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ TRỌNG MẠNH Téi vi ph¹m quy ®Þnh vÒ qu¶n lý, b¶o vÖ ®éng vËt nguy cÊp, quý, hiÕm theo LuËt h×nh sù ViÖt Nam Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Ngô Trọng Mạnh MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .........................................................................6 1.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết quy định tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trong luật hình sự Việt Nam......................................................................................... 6 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ....................................................................... 6 1.1.2. Sự cần thiết quy định tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trong luật hình sự Việt Nam ............................. 14 1.2. Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm .............. 25 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 ............................................................................................ 25 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ............................................................................................ 26 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) ............ 27 1.3. Pháp luật quốc tế và một số nước quy định tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ................................ 32 1.3.1. Công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang đã nguy cấp (CITES)............................................................................... 32 1.3.2. Pháp luật hình sự một số nước quy định tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ................................................. 33 Kết luận chương 1 ......................................................................................... 35 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 (SỬA ĐỔI NĂM 2017) VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM ............................................ 36 2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm .... 36 2.1.1. Các yếu tố cấu thành tội phạm của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm .............................................................. 36 2.1.2. Hình phạt quy định áp dụng đối với tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm........................................................ 52 2.2. Thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trong giai đoạn 2013 đến 2018 ..................... 56 2.2.1. Định tội danh đối với tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ..................................................................... 56 2.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ............................................................ 61 2.2.3. Những ưu điểm, tồn tại, hạn chế trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm và nguyên nhân của nó ................................................ 65 Kết luận chương 2 ......................................................................................... 73 Chương 3: YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM ......................................74 3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả xét xử đối với tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ................................ 74 3.1.1. Yêu cầu thống nhất nhận thức chủ trương của Đảng, Nhà nước về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ................................................. 74 3.1.2. Yêu cầu nâng cao nhận thức về ảnh hưởng tiêu cực của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm đối với đời sống xã hội .................................................................................................. 76 3.1.3. Yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ............................. 77 3.1.4. Yêu cầu thực hiện tốt công tác giải quyết vụ án, công tác tổ chức xét xử .................................................................................................. 77 3.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm.............................................. 78 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ............................................................................................ 78 3.2.2. Biện pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ............................. 84 3.3. Giải pháp khác nâng cao hiệu quả xét xử đối với tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ........................ 87 3.3.1. Tăng cường công tác giám đốc xét xử, hướng dẫn xét xử tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm ................... 87 3.3.2. Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ án về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm.... 89 3.3.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và hợp tác quốc tế ................................................................................................ 90 Kết luận chương 3 ......................................................................................... 92 KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 95 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm PLHS: Pháp luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những vấn đề về bảo vệ môi trường đang được xã hội quan tâm là việc bảo vệ các động vật hoang dã nói chung và động vật nguy cấp, quý, hiếm nói riêng. Việt Nam là quốc gia có đa dạng sinh học đứng thứ 16 trên thế giới, với trên 75 loài duy nhất; ý thức bảo vệ những vốn quý đó ở nước ta hiện nay có thể nói là chưa cao. Ông Sulma Warne, Điều phối viên của TRAFFIC (mạng lưới giám sát buôn bán động vật hoang dã quốc tế) Đông Nam Á nhận định: Rất nhiều trong số các loài động vật hoang dã được tiêu thụ nhiều nhất tại Việt Nam lại nằm trong danh sách của Công ước buôn bán quốc tế các loài động thực vật có nguy cơ bị đe dọa (Công ước CITES) mà Việt Nam tham gia từ năm 1994, và được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Việc tiêu thụ các sản phẩm hoang dã đó trở nên nghiêm trọng nhất trong những thập kỷ gần đây khi kinh tế của người dân khá lên, gây phá huỷ hệ sinh thái, ảnh hưởng nặng nề đến các quần thể loài và đến môi trường. Thực trạng trên cho thấy, mặc dù trong những năm qua Nhà nước đó quan tâm đến việc về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm thể hiện qua hàng loạt những biện pháp như: Thành lập lực lượng Cảnh sát môi trường, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ, xử lý cỏc vi phạm trong bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm… Tuy nhiên, kết quả công tác phòng ngừa, đấu tranh loại tội phạm này trên thực tế cũng chưa được như mong đợi. Thời gian gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng có rất nhiều những vụ buôn bán, săn bắt động vật nguy cấp, quý, hiếm được phản ánh hoặc bị phát hiện khiến dư luận xã hội hết sức bất bình. Mặc dù vậy, theo thống kê của ngành Toà án thì hàng năm không có nhiều hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ 1 (theo Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 1999) được đưa ra xét xử. Rất nhiều vụ việc được khởi tố, tuy nhiên lại bị đình chỉ điều tra với nhiều nguyên nhân khác nhau từ giai đoạn điều tra hoặc giai đoạn truy tố, các vụ án được đưa ra xét xử thì hình phạt cũng chưa thực sự nghiêm khắc. Vì vậy việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề về lí luận và thực tiễn của “Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm theo Luật hình sự Việt Nam” để giúp nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này là một nhu cầu thực tế và thiết thực. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy các công trình khoa học nghiên cứu về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm hiện nay như sau: Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm được quy định lần đầu tiên trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và được sửa đổi bổ sung năm 2009, qua quá trình áp dụng trong thực tiễn gần 12 năm đó được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm nghiên cứu, được đề cập trong nhiều bài viết nghiên cứu - trao đổi, xây dựng pháp luật… và được thể hiện trên báo chí trung ương và địa phương, nhất là các báo, tạp chí chuyên ngành pháp luật như: Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật… Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều nhà luật học và quá trình tìm hiểu của chúng tôi trước khi lựa chọn đề tài này thì tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm hiện nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các nghiên cứu về tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm thường mới chỉ đề cập, tập trung nghiên cứu về mặt lý luận hoặc chỉ dừng lại ở việc nêu ra vấn đề mà không đưa ra giải pháp hoàn thiện quy định tại Điều 190 Bộ luật Hình sự hoặc nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học. Chính 2 vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống cả lí luận và thực tiễn về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm sẽ đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của công tác phòng chống loại tội phạm này trong tình hình hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn có đối tượng nghiên cứu trước hết và chủ yếu là các quy định của pháp luật Việt Nam có nội dung liên quan đến tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm (bao gồm các văn bản luật và dưới luật). Đồng thời, để có cơ sở thực tiễn, luận văn cũng nghiên cứu một số bản án về tội danh trên. Ngoài ra, luận văn cũng có đối tượng nghiên cứu là các quy định về hành vi phạm tội này trong Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới… - Phạm vi nghiên cứu: Các văn bản pháp luật của Việt Nam có nội dung liên quan đến tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm được nghiên cứu là các văn bản pháp luật được ban hành từ năm 1945 đến nay. Pháp luật hình sự nước ngoài được nghiên cứu là các quy định hiện hành về tội danh này. Các Bản án mà tác giả nghiên cứu được giới hạn là các bản án được tuyên theo Bộ luật hình sự năm 1999. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn * Mục đích Mục đích của luận văn là làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý, các vấn đề khác có liên quan đến tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm theo Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2018). Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xét xử đối với tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. * Nhiệm vụ - Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về tội 3 vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trong luật hình sự Việt Nam; - Phân tích quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; - Phân tích các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm; - Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trong Bộ luật hình sự năm 1999. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lí luận của luận văn: Chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác xít; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, tư tưởng chỉ đạo cũng như chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm nói riêng trong tình hình mới. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử, thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu, trao đổi với các chuyên gia, nhà nghiên cứu và khảo sát thực tiễn. 6. Ý nghĩa của luận văn Đây là công trình khoa học nghiên cứu ở cấp độ thạc sĩ một cách tương đối đầy đủ các vấn đề về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến thời điểm Bộ luật hình sự năm 2015 được ban hành. Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa góp phần triển khai thi hành quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. 4 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương. Chương 1: Một số vấn đề chung về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm và thực tiễn xét xử. Chương 3: Yêu cầu và một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử đối với tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, đặc điểm và sự cần thiết quy định tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm được quy định tại Điều 244 BLHS năm 2015 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 190 BLHS năm 1999. Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm được quy định tại là một trong những tội phạm được quy định tại Chương XXIX các tội phạm về môi trường nên khi xem xét cần được đặt trong bối cảnh tổng hợp các yếu tố, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến các vật thể, sự kiện tồn tại trong một môi trường sống. Theo Tuyên ngôn của UNESCO (1981) thì môi trường là toàn bộ hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người sáng tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống bằng lao động của mình đã khai thác tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình. Trên cơ sở tiếp cận này sẽ phân tích các dấu hiệu của Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được nhà làm luật quy định trong BLHS với những dấu hiệu pháp lý cụ thể của nó. M i hành vi phạm tội khi thể hiện ra ngoài thế giới khách quan mặc dù rất đa dạng nhưng đều được thực hiện trong những điều kiện nhất định (các yếu tố khách quan) và chịu sự chi phối của những đặc điểm đa dạng của cá nhân (các yếu tố chủ quan), làm 6 cho các hành vi phạm tội đều có những đặc điểm chung nhất định của chúng. Điều 8 BLHS năm 2015 đã đưa ra định nghĩa về tội phạm như sau: 1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [26, Điều 8]. Từ định nghĩa này về tội phạm có thể chỉ ra những đặc điểm sau đây của Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm: a. Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải xử lý bằng biện pháp hình sự Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đổi ở những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó đòi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trường giai cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất 7 phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại lượng: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. GS. TSKH Lê Văn Cảm đã ra nhận xét: Khi một hành vi nguy hiểm cho xã hội gây nên (hoặc tạo có khả năng thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể cho các lợi ích của con người, của xã hội và của nhà nước với tính chất là các khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, thì hành vi đó bị luật hình sự cấm - bị nhà làm luật tội phạm hóa, vì nếu như xét về toàn bộ bản chất bên trong thì hành vi đó mâu thuẫn với những điều kiện tồn tại bình thường của xã hội [4]. Trong các tài liệu nghiên cứu về tội phạm môi trường, đều cho rằng: Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm là hành vi xâm hại đến môi trường, xâm hại đến sự tồn tại, phát triển của động vật quý hiếm. Như vậy, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi này thể hiện ở ch : Thứ nhất, hành vi vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm xâm hại đến môi trường sống của con người. Duy trì môi trường sống là một trong những nhiệm vụ thiên niên ký của Liên hợp quốc đề ra với một 8 khái niệm có nội hàm rất rộng và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Môi trường của một vật thể hoặc của một sự kiện là tổng hợp các yếu tố, điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến các vật thể, sự kiện đó. Bất cứ một vật thể, sự kiện nào cũng tồn tại trong một môi trường. Khái niệm môi trường được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu. Theo Tuyên ngôn của UNESCO (1981) thì môi trường được định nghĩa như sau: Môi trường là toàn bộ hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người sáng tạo ra xung quanh mình. Chương trình hành động của Cộng đồng Châu Âu về môi trường định nghĩa: Môi trường là tổ hợp các yếu tố mà các quan hệ phụ thuộc, phức hợp của chúng tạo nên khung cảnh, hoàn cảnh xung quanh và các điều kiện mà cuộc sống của các cá thể và của xã hội như là chúng ta đang tồn tại hoặc như là chúng ta đang cảm thấy tồn tại. Môi trường là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. Môi trường có thể định nghĩa như là tổ hợp của các yếu tố khí hậu, sinh thái học, xã hội và thổ nhưỡng tác động lên cơ thể sống và xác định các hình thức sinh tồn của chúng. Vì thế, môi trường bao gồm tất cả mọi thứ mà có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến sự trao đổi chất hay các hành vi của các cơ thể sống hay các loài, bao gồm ánh sáng, không khí, nước, đất và các cơ thể sống khác. Môi trường "là hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật" [25, Điều 3, Khoản 1]. Như vậy, động vật nguy cấp, quý, hiếm cần phải được ưu tiên bảo vệ bảo vệ một cách nghiêm ngặt nhằm duy trì môi sống của con người. Mọi hành vi xâm hại động vật nguy cấp, quý, hiếm đều mang tính nguy hiểm cho xã hội. Thứ hai, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm hiện ở việc hành vi này đã xâm hại đến 9 quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Bất kỳ Nhà nước nào cũng ban hành hệ thống pháp luật để quản lý, điều chỉnh xã hội, trong đó có lĩnh vực pháp luật quy định bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm và đòi hỏi mọi cá nhân, tổ chức phải thi hành, thực hiện nghiêm chỉnh. Do đó, mọi vi phạm đều xâm hại đến trật tự quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Nhà nước ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển môi trường sống theo định hướng của Nhà nước và mang tính nguy hiểm cho xã hội. Hành vi nguy hiểm vi phạm các quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm được thực hiện bởi hình thức hành động phạm tội, tức là đã thực hiện hành vi mà pháp luật hình sự cấm. Vì vậy, việc thực hiện hành vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm mang tính nguy hiểm cho xã hội. b. Hành vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trái với quy định của pháp luật hình sự Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng phải trái với quy định của pháp luật hình sự. Hành vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm phải được hình sự hóa và quy định trong một văn bản pháp luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này được coi là dấu hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đổi ở những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó đòi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá 10 tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trường giai cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại lượng: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Đây là đặc điểm pháp lý (hình thức) của tội phạm do nó phản ánh trực tiếp nội dung của nguyên tắc pháp chế được thừa nhận chung quan trọng nhất của luật hình sự trong thời đại ngày nay. Hơn nữa, dưới góc độ Nhà nước pháp quyền, thì tính trái pháp luật hình sự của bất kỳ hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đều phải được nhà làm luật xem là dấu hiệu cơ bản nhất để tuyên bố hành vi đó là tội phạm. Khái niệm tính trái pháp luật hình sự, chính vì thế, có thể được hiểu là sự ngăn cấm việc thực hiện tội phạm bởi một quy phạm pháp luật hình sự tương ứng bằng việc đe dọa áp dụng sự trừng phạt về hình sự đối với người phạm tội. Hành vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm được hình sự hóa tại Điều 244 BLHS năm 2015. Khoản 1 của Điều luật này quy định: 11 1. Người nào vi phạm quy định về bảo vệ động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; b) Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật quy định tại điểm a khoản này; c) Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép ngà voi có khối lượng từ 02 kilôgam đến dưới 20 kilôgam; sừng tê giác có khối lượng từ 50 gam đến dưới 01 kilôgam; d) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp mà không thuộc loài quy định tại điểm a khoản này với số lượng từ 03 cá thể đến 07 cá thể lớp thú, từ 07 cá thể đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 10 cá thể đến 15 cá thể động vật lớp khác; đ) Tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống của từ 03 cá thể đến 07 cá thể lớp thú, từ 07 cá thể đến 10 cá thể lớp chim, bò sát hoặc từ 10 cá thể đến 15 cá thể động vật lớp khác quy định tại điểm d khoản này; 12 e) Săn bắt, giết, nuôi, nhốt, vận chuyển, buôn bán trái phép động vật hoặc tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép cá thể, bộ phận cơ thể không thể tách rời sự sống hoặc sản phẩm của động vật có số lượng dưới mức quy định tại các điểm c, d và đ khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm [26, Điều 244 , Khoản 1]. Các hành vi nêu trên đã được hình sự hóa và chỉ khi thực hiện một trong các hành vi nêu trên mới bị coi là tội phạm và phải chịu TNHS, bị áp dụng đúng hình phạt theo quy định của Điều 244 BLHS. c. Tính có lỗi của hành vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trái với quy định của pháp luật hình sự L i là dấu hiệu trong mặt chủ quan của tội phạm, thông qua dấu hiệu l i có thể xác định được tính chất, mức độ nguy hiểm của một tội phạm cụ thể nhất định nào đó. Nói cách khác, dấu hiệu l i phản ánh bản chất của một loại tội phạm thông qua tính chất, mức độ và hình thức l i. Đối với vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trái với quy định của pháp luật hình sự được thực hiện chủ yếu bằng hình thức l i cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trái với quy định của pháp luật hình sự, cá nhân hoặc pháp nhân thương mại nhận thức được đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm nhưng vẫn thực hiện và mong muốn đạt được mục đích. d. Chế tài hình sự quy định áp dụng đối với Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trái với quy định của pháp luật hình sự Chế tài hình sự là hình phạt và biện pháp tư pháp được quy định áp dụng đối với cá nhân hoặc pháp nhân thương mại khi thực hiện tội phạm vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm trái với quy định 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan