Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự việt nam...

Tài liệu Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự việt nam

.PDF
93
156
99

Mô tả:

16 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng, thiết thân của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà nước đều sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của con người và hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người đều bị áp dụng những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định như: trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay điều tra, truy tố, xét xử một người khi họ có hành vi xâm phạm quyền sở hữu ở mức độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh giá coi hành vi xâm phạm quyền sở hữu của con người là tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, Nhà nước luôn thể hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối với loại hành vi này. Nghiên cứu diễn biến tội phạm trong những năm vừa qua, trên phạm vi toàn quốc, có thể thấy rằng nhóm các tội xâm phạm sở hữu thuộc loại tội phạm có diễn biến phức tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ở hai điểm: số vụ liên tục tăng và mức độ nguy hiểm cũng ngày càng nghiêm trọng. Hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu đã gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, của tổ chức và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm sở hữu trong những năm vừa qua cho thấy loại tội trộm cắp tài sản luôn chiếm một lượng đáng kể trong tổng số các tội phạm hàng năm, trong đó, tội trộm cắp tài sản là tội xâm phạm sở hữu có mức độ xảy ra nhiều nhất (năm 2015, chiếm 67,54% số vụ và 66,23% số người trên tổng số vụ và số người phạm các tội xâm phạm sở hữu; chiếm 28,69% số vụ và 23,92% số người trên tổng số vụ và số người phạm tội nói chung trên phạm vi cả nước). Đây là loại tội diễn biến ngày một gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Tuy nhiên, với tình hình tội trộm cắp tài sản phức tạp như vậy, thực tiễn cho thấy hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trộm 17 cắp tài sản còn chưa cao. Công tác phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm này còn yếu kém, sự phối hợp giữa các lực lượng, các ngành chưa đồng bộ, chưa chặt chẽ. Ý thức tự bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo vệ tài sản của người khác trong nhân dân còn yếu. Các cơ quan, xí nghiệp, tổ chức kinh tế tuy có điều kiện về tài chính nhưng công tác bảo vệ tài sản còn lơ là mất cảnh giác, ít quan tâm trong việc trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuận để phục vụ cho việc phòng chống tội trộm cắp. Bên cạnh đó, số đối tượng bị phạt tù sau khi mãn hạn tù để hòa nhập cộng đồng còn chưa được quản lý chặt chẽ, do đó tỷ lệ tái phạm là rất cao. Nhận thấy việc nghiên cứu tội trộm cắp tài sản mang tính cấp thiết không những về lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay để từ đó đề ra những biện pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản. Vì lý do đó, tác giả đã chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản trong Luật hình sự Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xuất phát từ thực trạng về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn cả nước cho đến nay đã có không ít những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tập 2” trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân năm 2015; “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần các tội phạm” của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội phạm, Tập 2” của tác giả Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh năm 2002; “Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản” của tác giả Cao Thị Oanh (chủ biên), Nxb Tư pháp năm 2015. Luận án tiến sĩ luật học “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí năm 2000; Luận án tiến sĩ luật học “Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội này ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hùng năm 2007; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội trộm cắp 18 tài sản – So sánh giữa Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Thùy Dung năm 2013. Bên cạnh đó, còn phải kể đến các công trình nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học về tình hình tội trộm cắp tài sản trên một địa bàn cụ thể như: Luận văn Thạc sĩ Luật học “Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Đinh Quang Tuyền năm 2015; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An” của tác giả Đặng Thị Phương Linh năm 2014; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương” của tác giả Nguyễn Thị Thúy An năm 2013. Ngoài ra còn một số bài viết của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí, sách, báo khoa học đề cập tới tội trộm cắp tài sản như: “Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về “tội trộm cắp tài sản” của tác giả Mai Bộ trên tạp chí TAND số 9 năm 2015; “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản khi định tội danh” của tác giả Trần Mạnh Hà trên tạp chí TAND số 10 năm 2006; “Yếu tố định lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản” của tác giả Dương Vân Anh trên tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao số 23 năm 2014. Các công trình nghiên cứu trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được về nội dung, tình hình và thực trạng của tội trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước hoặc trên một số địa bàn nhất định, từ đó rút ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm tương ứng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới góc nhìn của Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự vẫn còn quá ít tác giả đề cập đến. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu đề tài “Tội trộm cắp tài sản trong Luật hình sự Việt Nam” cả về phương diện lý luận và thực tiễn là điều cần thiết. 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản, tìm hiểu thực trạng về tội trộm cắp tài sản trong những năm gần đây. 19 - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan đến tội trộm cắp tài sản dưới góc độ luật hình sự, tập trung vào quy định hiện hành của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản. 4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn Mục tiêu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản dưới khía cạnh lập pháp hình sự và thực tiễn áp dụng, từ đó luận văn đưa ra các đề xuất hoàn thiện Bộ luật hình sự về loại tội phạm này, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản. 5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài nghiên cứu phải trả lời được các câu hỏi sau đây: - Tội trộm cắp tài sản là gì? Lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam về loại tội phạm này từ khi Cách mạng tháng 8 thành công đến nay như thế nào? So sánh với tội trộm cắp tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự của một số nước trên thế giới? - Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội trộm cắp tài sản theo Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 và những điểm mới của tội này tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015? - Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm cùng loại hoặc có liên quan? - Thực tiễn áp dụng qua các số liệu điều tra, truy tố, xét xử loại tội này trong thời gian 5 năm như thế nào? - Các giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản? 20 6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn Trong luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các văn bản pháp luật, các công trình nghiên cứu, các tài liệu khác có liên quan đến tội trộm cắp tài sản và công tác phòng chống loại tội phạm này. - Phương pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh hoạt động phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn cả nước. - Phương pháp điều tra điển hình: nghiên cứu sâu một số vụ án điểm hình cho từng loại phương thức, thủ đoạn gây án. Từ đó rút ra những kết luận phù hợp với mục đích nghiên cứu. - Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản. - Về mặt lý luận: luận văn đã tổng hợp các quan điểm khoa học về tội trộm cắp tài sản, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản, qua đó góp phần hoàn thiện nội dung quy định của tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. - Về mặt thực tiễn: những giải pháp đề xuất nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản. - Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, cho người làm công tác thực tiễn liên quan đến việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trong thực tế. Đồng thời là nguồn tham khảo cho những cá nhân quan tâm đến pháp luật hình sự nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. 21 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương I. Một số vấn đề chung về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam Chương II. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 Chương III. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản 22 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản Trong lịch sử lập pháp Việt nam và các nước trên thế giới tồn tại hai khuynh hướng khác nhau khi quy định về tội trộm cắp tài sản trong văn bản pháp luật hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa nhận nó. Khuynh hướng thứ hai có quy phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản1. Ở mỗi giai đoạn lập pháp hình sự, Nhà nước ta đều ban hành các quy định về tội trộm cắp tài sản và đường lối xử lý người phạm tội, song các văn bản pháp luật của Nhà nước ta sau Cách mạng tháng 8 đều không đưa ra khái niệm về tội này, nghĩa là thể hiện theo khuynh hướng thứ nhất, không có quy phạm định nghĩa của khái niệm tội trộm cắp tài sản, chỉ quy định tội danh một cách đơn giản được thể hiện trong Điều 132, Điều 155 BLHS năm 1985 và Điều 138 BLHS năm 1999. Như vậy, cần tìm hiểu thế nào là tội trộm cắp tài sản. Qua nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên thế giới cho thấy, hầu hết các nước như Liên bang Nga, Malaixia, Cộng hòa liên bang Đức,... đều theo khuynh hướng thứ hai. Cụ thể: Theo Điều 158 BLHS Liên Bang Nga năm 1996 (có hiệu lực từ 01/07/1997) đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm trộm cắp: “Trộm cắp tài sản nghĩa là bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị ....”2. Qua khái niệm này cho thấy hành vi phạm tội trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản, sự chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách bí mật và tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản của người khác. Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.21. 2 Nguyễn Minh Đạo, Phùng Văn Ngân, Vũ Thị Hương Giang, Nguyễn Đức Trung (dịch, 2011), Bộ Luật hình sự Liên bang Nga, Sách được tài trở bởi Sida, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.254-258. 1 23 Ngoài ra, BLHS Liên bang Nga còn giải thích thêm “Tội trộm cắp tài sản theo Điều luật này được hiểu là hành vi lấy đi và (hoặc) sử dụng trái pháp luật không bồi hoàn tài sản của người khác nhằm mục đích trục lợi của người phạm tội hoặc những người khác gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc chủ nhân khác tài sản này”. Như vậy, BLHS Liên bang Nga còn làm rõ thêm mục đích của người phạm tội là trục lợi. Theo Điều 378 BLHS của Malaixia: “Người nào nhằm mục đích chiếm đoạt động sản của người khác mà lấy đi tài sản đó thì bị xử là tội trộm cắp”3. Tương tự như BLHS Malaixia, BLHS Cộng hòa Liên bang Đức cũng quy định: “Người nào lấy đi một đồ vật không cố định không phải của mình từ một người khác với chủ định chiếm đoạt trái pháp luật đồ vật cho mình hoặc cho một người thứ ba thì bị xử phạt với hình phạt....”4. Với cách đưa ra khái niệm như trên cho thấy, BLHS hai quốc gia này cũng xác định trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt, tài sản bị chiếm đoạt cũng là tài sản của người khác và đối tượng tác động của loại tội này là động sản (những tài sản có thể di dời từ nơi này đến nơi khác). Như vậy, hầu hết các nước trên thế giới đều hiểu trộm cắp tài sản là hành vi lấy đi tài sản của người khác nhằm mục đích chiếm đoạt, trục lợi một cách bí mật. Nhà nước ta tuy không định nghĩa tội trộm cắp tài sản trong luật nhưng cũng có cách hiểu tương tự. Theo từ điển pháp luật hình sự, định nghĩa trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý.5 Cách định nghĩa này cũng tương tự với định nghĩa được đưa ra trong Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ”.6 Như vậy, tội trộm cắp tài sản là hành vi Bộ Tư pháp (1998), Số chuyên đề về luật hình sự của một số nước trên thế giới, Tạp chí dân chủ và pháp luật 1998, tr.91. 4 Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn và Trần Hữu Tráng dịch (2011), Bộ Luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức, Sách được tài trở bởi Sida, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.392. 5 Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (2006), Từ điển Pháp luật hình sự, NXB Tư pháp. (tr283) 6 Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.32 3 24 chiếm đoạt tài sản, tính chất của hành vi là lén lút, bí mật và đối tượng là tài sản đang có người quản lý. Xét về phương diện lý luận, tội “Tội trộm cắp tài sản” là một loại tội phạm có dấu hiệu hành vi khách quan khá đơn giản: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”.7 Tuy nhiên, các khái niệm nêu trên vẫn chưa thể hiện rõ được một số dấu hiệu pháp lý khác của tội trộm cắp tài sản như dấu hiệu về lỗi, dấu hiệu về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể tội phạm. Theo Tiến sĩ khoa học – Giáo sư Lê Cảm cho rằng để đưa ra được khái niệm tội trộm cắp tài sản, cần khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, tức là thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó là: a) bình diện khách quan – tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý – tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan – tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi.8 Trong nghiên cứu của mình, Tiến sĩ Hoàng Văn Hùng đã đưa ra định nghĩa về tội trộm cắp tài sản “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của người khác với mục đích chiếm đoạt, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm các quyền sở hữu được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật”.9 Với cách định nghĩa trên, có thể thấy ngoài những đặc điểm về hình thức chiếm đoạt là lén lút, hành vi phạm tội là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản của người khác làm tài sản của mình, khái niệm này đã làm rõ thêm các đặc điểm về lỗi của tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý, người phạm tội phải đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS (những hành vi lấy tài sản của Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sư, Phần các tội phạm Tập 2, Nxb TP.Hồ Chí Minh,tr.196. 8 Lê Cảm (2001), Giáo trình Luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.105. 9 Hoàng Văn Hùng, tlđd chú thích 1, tr.23. 7 25 người khác khi chưa đủ tuổi chịu TNHS hoặc ở tình trạng không có năng lực TNHS thì không phải là tội phạm). Từ các phân tích trên, tác giả định nghĩa về Tội trộm cắp tài sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý”. 1.2. Lịch sử lập pháp về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ 1945 đến nay Để giúp chúng ta có cái nhìn khái quát và toàn diện về quan niệm của nhà lập pháp trong chế độ xã hội khác nhau về tội phạm và hình phạt, từ đó nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn về bản chất, dấu hiệu pháp lý đặc thù của tội phạm và chính sách hình sự của nhà nước đối với người phạm tội trộm cắp tài sản sau đây tác giả lần lượt nghiên cứu các qui định pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trong lịch sử. 1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 Cách mạng tháng 8 thành công, nhận thức được tầm quan trọng của việc ổn định kỷ cương, pháp luật và đối phó với tình hình thực tế nhà nước ta đã đặc biệt chú trọng và lần lượt ban hành các văn bản pháp luật hình sự quy định việc trừng trị tội trộm cắp tài sản như: Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/02/1946 trừng trị tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 73-SL ngày 17/08/1947 về các tội vi cảnh; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/03/1949 về tội trộm cắp tài sản quốc phòng trong thời chiến; Thông tư 26-BK ngày 09/05/1949 của Bộ tư pháp hướng dẫn đường lối xử lý hành vi bắt được của rơi mà giữ lấy không trả hoặc không nộp cho nhà chức trách 26 Thông tư số 11-BK ngày 14/12/1949 của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và Bộ Tư pháp ấn định phương pháp đối phó với các vụ trộm cắp tại nơi có chiến sự; Nghị định 32-NĐ ngày 06/04/1952 của Bộ Tư pháp qui định đường lối xét xử của tội trộm cắp, lừa đảo biển thủ tài sản.. Thông tư 442-TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng tổng kết án lệ và hướng dẫn công tác xét xử các tội phạm thông thường Nghiên cứu các văn bản này cho thấy: Quy định về tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn này đã tạo cơ sở kịp thời cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản, góp phần vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy nhiên, các văn bản qui phạm pháp luật thời kì này vẫn chưa phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội chiếm giữ trái phép tài sản. Thông tư 16-BK quy định: “Bắt được của cải gì của người ta mà giữ làm của mình bị coi là ăn cắp... có thể bị phạt tù từ 1 năm đến 05 năm, lại còn bị phạt tiền nữa”. Tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn này được thể hiện như một quy định đơn giản với chế tài cụ thể. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, đường lối xét xử giữa các địa phương không được thống nhất, rõ ràng và có nơi không được đúng. Chính vì vậy, Thông tư 442-TTg năm 1955 đã quy định thống nhất một số tội phạm , trong đó tội trộm cắp được quy định ngay tại điểm đầu tiên: “Trộm cắp phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm; cướp đường hay trộm có tổ chức, có bạo lực, có dùng vũ khí để dọa nạt thì phạt tù từ 3 đến 10 năm”. Điểm đặc biệt của Thông tư này là cho phép áp dụng tương tự, có nghĩa là nếu ngoài tội trộm cắp ra, đối với những tội tương tự với tội trộm cắp, các Tòa án có thể phạt theo như tội đó. Mặt khác, trong khi xét xử, các Tòa án cần phải thận trọng, không được máy móc và cũng không nên quá linh động để làm sai lạc tinh thần chính sách trừng trị của Chính phủ, mà phải tùy nơi tùy lúc có chủ trương trừng phạt cho đúng trong phạm vi đã quy định trên đây. 27 Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hóa của Việt Nam nhằm phục vụ lợi ích của toàn dân. Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp này, việc ban hành sắc lệnh 267-SL năm 1957 là nhằm trừng trị những âm mưu hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản trợ việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn hóa. Điều 2 và Điều 3 của Sắc lệnh 267 – SL có quy định về Tội trộm cắp tài sản nhưng dùng các thuật ngữ khác nhau: Điều 2 sử dụng thuật ngữ “trộm cắp tài sản” còn Điều 3 sử dụng thuật ngữ “đánh cắp bí mật Nhà nước”. “Điều 2. Kẻ nào vì mục đích phá hoại mà trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân sẽ bị phạt từ 5 năm đến 20 năm tù. Điều 3. Kẻ nào vì mục đích phá hoại mà tiết lộ, đánh cắp, mua bán, dò thám bí mật Nhà nước, sẽ bị phạt từ 5 năm đến 20 năm tù”. Như vậy, trong giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản pháp luật hình sự đơn lẻ trong đó có quy định về tội trộm cắp tài sản. Trong các văn bản đó, pháp luật không quy định tên tội danh, chỉ quy định về tội phạm trộm cắp với các cách mô tả khác nhau. Đối tượng tài sản của tội phạm này trong từng thời kỳ lịch sử có chính sách xử lý cho phù hợp với mục tiêu đấu tranh phòng chống tội phạm và thực hiện nhiệm vụ chính trị lịch sử của đất nước. Các văn bản pháp luật đơn lẻ đó cùng với những hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao (Thông tư, Chỉ thị, Báo cáo, Tổng kết,...) đã góp phần đấu tranh chống tội phạm trộm cắp trong từng giai đoạn. Cho đến năm 1970, do yêu cầu khách quan của việc tăng cường pháp chế XHCN, ngày 21/10/1970, Nhà nước ta đã thông qua 2 Pháp lệnh mới, trên tinh thần pháp điển hóa các văn bản pháp luật trước đó quy định về Tội trộm cắp nói riêng và Tội xâm phạm sở hữu nói chung. 28 - Pháp lệnh thứ nhất là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố. - Pháp lệnh thứ hai là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân do Lệnh số 150-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố. Hai pháp lệnh trên đã thay thế các luật lệ cũ về các tội phạm này vì không còn thích hợp nữa. Trong đó, tội trộm cắp được quy định tại hai pháp lệnh với tên tội danh là Tội trộm cắp tài sản XHCN (Điều 7) và Tội trộm cắp tài sản riêng của công dân (Điều 6) tương ứng với hai hình thức sở hữu được quy định lúc đó là sở hữu tài sản XHCN và sở hữu tài sản riêng của công dân. Điều 7 Pháp lệnh trừng trị các Tội xâm phạm tài sản XHCN quy định Tội trộm cắp tài sản XHCN. “1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Có móc ngoặc; d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; e) Trộm tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt; f) Dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ hoặc vào những việc phạm tội khác; Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm. 3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình.” Trong pháp lệnh này, “Tài sản XHCN bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước (tức là sở hữu của toàn dân) và tài sản thuộc quyền sở hữu của hợp tác xã và các tổ chức hợp pháp khác của nhân dân (tức sở hữu tập 29 thể)”. Tài sản XHCN là thiêng liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm. Mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản đó. Chính vì giá trị to lớn đó mà mức hình phạt tối đa của tội này lên đến tử hình. Điều 6 Pháp lệnh trừng trị các Tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy định Tội trộm cắp tài sản riêng của công dân. 1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm; b) Có tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác. Thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm. 3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.” Khác với tài sản XHCN, tài sản riêng của công dân được Nhà nước bảo hộ gồm có của cải do sức lao động của công dân làm ra, của cải thu nhập một cách hợp pháp hoặc để dành được, như tiền bạc, lương thực, quần áo, nhà ở, gia súc, xe cộ, tư trang, văn hóa phẩm và đồ dùng riêng khác. Mức hình phạt chỉ tối đa là 15 năm. Về kỹ thuật lập pháp hình sự, hai bản pháp lệnh năm 1970 này đã xây dựng hoàn chỉnh cấu thành tội phạm về tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản công dân. Các Điều luật này đều bao gồm một cấu thành tội phạm cơ bản và hai cấu thành tội phạm tăng nặng với các tình tiết tăng nặng định khung cụ thể, có các khung hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, góp phần phân hóa TNHS người phạm tội. Ngoài ra, 30 các nhà lập pháp thời kì này đã có sự phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội xâm phạm sở hữu khác như tội cướp, tội cưỡng đoạt, tội tham ô, tội lừa đảo hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,… Sau ngày 30/04/1975 thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội xâm phạm sở hữu. Cụ thể ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 quy định về tội phạm và hình phạt. Tại điểm b Điều 4 Sắc luật 03-SL/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản công cộng như sau: “Phạm các tội chiếm đoạt tài sản khác như trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô, lừa đảo mà số tài sản chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Điều 8 Sắc luật 03-SL/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản riêng của công dân như sau: “Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội tín, cướp giật, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm. Phạm tội trộm cắp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm.” Như vậy, ở thời điểm này trên hai miền Nam, Bắc tồn tại hai loại văn bản pháp luật khác nhau cùng xử lý về một tội trộm cắp tài sản, đó là: Hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976. Nội dung cơ bản của các văn bản này đều thống nhất về tội danh và đường lối xử lý. Tuy nhiên, so với các pháp lệnh thì các quy định của Sắc luật chỉ nêu tên tội danh mà không quy định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm. Để áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 06/07/1977 của Tòa án nhân dân 31 tối cao hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp luật đối với hành vi phạm tội trộm cắp tài sản được thống nhất như sau: Ở miền Bắc vẫn áp dụng hai pháp lệnh ngày 21/10/1970. Ở miền Nam thì áp dụng Sắc luật 03 là chính, có tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp lệnh ngày 21/10/1970 để nắm rõ hơn dấu hiệu các tội phạm và áp dụng các hình phạt hợp lý hơn. Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có quy định về loại tội phạm có hành vi trộm cắp để chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên do có nhiều loại văn bản được ban hành và áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khác nhau nên không tránh khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện. Vì vậy, cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để đảm bảo tính thống nhất. Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 đã ra đời và đáp ứng được yêu cầu đó. 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 Ngày 27/06/1985 Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khóa VI ban hành và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1986 đã khắc phục được tình trạng các văn bản pháp luật chồng chéo, không thống nhất trước đó. Tăng cường được tính pháp chế, đồng thời bảo vệ được quyền tài sản của công dân. Sự ra đời của BLHS là sự pháp điển hóa các quy định về tội phạm và hình phạt từ năm 1945 đến năm 1985. Theo quy định của BLHS 1985 thì tội xâm phạm sở hữu có kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó, đặc biệt là hai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và công dân ngày 21/10/1970. Do đề cao sở hữu Nhà nước và tập thể, chưa thật sự coi trọng đến sở hữu tư nhân nên trong giai đoạn này hành vi xâm phạm tài sản Nhà nước luôn được coi là nghiêm trọng hơn xâm hại sở hữu tư nhân nên được các nhà lập pháp lúc bấy giờ quy định ở hai chương khác nhau và mức hình phạt cao nhất đối với tội trộm cắp XHCN là tử hình còn tội trộm cắp tài sản công dân là 20 năm. Cụ thể: 32 Chương IV là các tội xâm phạm sở hữu XHCN và chương V là các tội xâm phạm sở hữu công dân. Có sự quy định như vậy là vì BLHS 1985 ra đời trong bối cảnh nền kinh tế nước ta lúc đó chỉ có hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và hợp tác xã được quản lý và điều hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Trên cơ sở kế thừa quy định của hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 thì BLHS 1985 vẫn quy định là hai tội: “Tội trộm cắp tài sản XHCN” và “Tội trộm cắp tài sản riêng của công dân” cụ thể như sau: “Điều 132. Tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. 1- Người nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; c) Hành hung để tẩu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ) Tái phạm nguy hiểm. 3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Điều 155. Tội trộm cắp tài sản của công dân. 1Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 33 2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm; a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát; c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác; d) Tái phạm nguy hiểm 3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm.” Theo quy định tại các Điều luật này, tội trộm cắp tài sản vẫn được cấu tạo bởi một CTTP cơ bản và hai CTTP tăng nặng và kế thừa các tình tiết tăng nặng định khung là: “phạm tội có tổ chức”; “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”; “chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn”; “tái phạm nguy hiểm và gây hậu quả nghiêm trọng khác”. BLHS 1985 cũng loại bỏ các tình tiết tăng nặng không còn phù hợp với thực tiễn như “có móc ngoặc”; “tài sản có giá trị đặc biệt”; “dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột đầu cơ hoặc những việc phạm tội khác”; “gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác” và bổ sung tình tiết tăng nặng mới “hành hung để tẩu thoát”. Tình tiết này là trường hợp người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ mà có hành vi chống trả người bắt giữ, người bao vây bắt giữ như đánh, xô ngã,... nhằm tẩu thoát. Giai đoạn này, định lượng tài sản chưa được quy định tại điều luật nhưng thực tiễn xét xử có hướng dẫn áp dụng để xác định TNHS đối với nhóm tội này. Tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/04/1989 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn tình tiết “tài sản có giá trị lớn”, “gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” như sau: 34 “Tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29-11-1986 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn rằng thiệt hại tài sản dưới 100.000 đồng là “thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản”, thiệt hại về tài sản từ 100.000 đồng trở lên là “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” của tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng; số tiền bị chiếm đoạt khoảng từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng được “coi là lớn”… Do tình hình lạm phát, giá cả không ổn định, nên các hướng dẫn nói trên nay không còn phù hợp nữa, vì vậy cần thống nhất lại như sau: khoảng 5 tấn gạo, 5 tấn xăng, dầu lửa, phân đạm, 10 kg thuốc phiện, 5 tạ mỳ chính, 2 tấn đường trắng loại 1, 2 lượng vàng, đối với tiền và các loại tài sản, hàng hóa, vật tư khác thì quy ra trị giá tương đương 5 tấn gạo - được coi là số lượng tài sản, hàng hóa, vật tư có giá trị lớn hoặc số lượng lớn, khi trị giá gấp 3 lần các mức nêu trên thì được coi là có giá trị lớn hoặc có số lượng rất lớn, nghĩa là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Gây thiệt hại về tài sản với giá trị lớn thì bị coi là gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, là gây hậu quả nghiêm trọng. Gây thiệt hại về tài sản với giá trị rất lớn thì bị coi là gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hướng dẫn trong mục này được áp dụng đối với các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa, các tội xâm phạm sở hữu của công dân, các tội có hậu quả là thiệt hại đến tài sản,...” Ngoài ra, liên quan đến định lượng tài sản để xác định cấu thành tội trộm cắp tài sản và các khung hình phạt tăng nặng còn được hướng dẫn trong các Kết luận của Chánh án TAND tối cao tại hội nghị tổng kết công tác ngành vào những năm 1991, 1993 và 1995. Những hướng dẫn này cùng với các quy định trong các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán đã có hiệu lực áp dụng thống nhất trong một thời gian dài cho đến khi ra đời BLHS năm 1999 mà yếu tố định lượng đã được luật hóa. Mặc dù các quy định của BLHS năm 1985 về tội trộm cắp tài sản đã có những phát triển đáng kể so với những quy định trước đây, tuy nhiên, các quy 35 định này vẫn còn có một số hạn chế như: vẫn còn phân biệt tội trộm cắp tài sản XHCN với tội trộm cắp tài sản của công dân; khoảng cách giữa mức tối đa và tối thiểu của khung hình phạt còn rộng; chưa phân biệt được tội phạm với vi phạm hành chính đối với hành vi trộm cắp tài sản. Tuy đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997 nhưng những lần sửa đổi này chủ yếu để phục vụ cho cuộc đấu tranh đối với một số tội phạm khác nên những hạn chế trên vẫn chưa được khắc phục cho tới khi BLHS năm 1999 được ban hành. 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 2015 Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật đòi hỏi phải xem xét rà soát lại một cách toàn diện các tội phạm về kinh tế, về sở hữu để có những sửa đổi bổ sung thích hợp cả về mặt dấu hiệu pháp lý cũng như chính sách xử lý nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn mới. Ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X đã thông qua BLHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (Bộ luật có hiệu lực từ ngày 1/7/2000, sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999). Do chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu khác nhau, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Để làm được điều này, Nhà nước chủ trương, thông qua hệ thống pháp luật bảo đảm là các thành phần kinh tế được đối xử và bảo vệ ngang bằng trước pháp luật. Do đó, việc chia hai nhóm tội xâm phạm quan hệ sở hữu không còn phù hợp vì điều này không phù hợp với bản chất của kinh tế thị trường – đòi hỏi một sự đối xử bình đẳng của các thành phần kinh tế. Mặt khác, sự quy định hai nhóm tội xâm phạm đến hai loại quan hệ sở hữu khác nhau đã nảy sinh ra những bất cập. Trong nhiều trường hợp, người phạm tội chỉ quan tâm đến tài sản và giá trị tài sản mà không quan tâm đến nguồn gốc tài sản thuộc sở hữu nào, nên gây khó
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan