Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự việt nam...

Tài liệu Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự việt nam

.DOC
114
102
86

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 đại học quốc gia hà nội KHOA LUẬT PHẠM THỊ HỒNG ĐIỆP TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt HÀ NỘI - 2014 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n cha tõng ®îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Ph¹m ThÞ Hång §iÖp 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ 1 MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI SỬ DỤNG TRÁI 9 PHÉP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội sử dụng trái phép tài sản trong luật hình sự Việt Nam 9 1.1.1. Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội xâm phạm sở hữu 9 1.1.2. Khái niệm tội sử dụng trái phép tài sản trong luật hình sự Việt Nam 17 1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định tội sử dụng trái phép tài sản trong luật hình sự Việt Nam 21 1.2. Khái quát sự hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 về tội sử dụng trái phép tài sản 22 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 22 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 25 1.3. 27 Tội sử dụng trái phép tài sản trong bộ luật hình sự một số 4 nước trên thế giới 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 28 1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 29 1.3.3. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển 31 1.3.4. Bộ luật hình sự Nhật Bản 32 Chương 2: TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT 35 HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ 2.1. Tội sử dụng trái phép tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 35 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự 35 2.1.2. Hình phạt và các biện pháp tư pháp 45 2.2. Phân biệt tội sử dụng trái phép tài sản với một số tội phạm khác có liên quan trong Bộ luật hình sự 56 2.2.1. Phân biệt tội sử dụng trái phép tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 56 2.2.2. Phân biệt tội sử dụng trái phép tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 57 2.2.3. Phân biệt tội sử dụng trái phép tài sản với tội tham ô tài sản 59 2.3. Thực tiễn xét xử tội sử dụng trái phép tài sản 60 2.3.1. Tình hình xét xử tội sử dụng trái phép tài sản 60 2.3.2. Một số tồn tại, vướng mắc trong lập pháp và thực tiễn xét xử 66 2.3.3. Các nguyên nhân cơ bản 73 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP TÀI SẢN 5 76 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội sử dụng trái phép tài sản 76 3.1.1. Về mặt lý luận 76 3.1.2. Về mặt thực tiễn 79 3.1.3. Về mặt lập pháp 81 3.2. 82 Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội sử dụng trái phép tài sản 3.2.1. Nhận xét chung 82 3.2.2. Nội dung hoàn thiện 84 3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội sử dụng trái phép tài sản 88 3.3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật 88 3.3.2. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan và người có thẩm quyền trong điều tra, truy tố, xét xử về tội sử dụng trái phép tài sản 90 3.3.3. Tăng cường công tác quản lý tài sản công, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, sử dụng tài sản sai mục đích 95 98 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 6 101 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Một số tội danh đã xét xử trong giai đoạn 2009-2013 61 2.2 Tỷ lệ tội sử dụng trái phép tài sản với tổng án xét xử cả 62 năm và số vụ án thuộc Chương xâm phạm sở hữu 2.3 Tổng số án đã xét xử về tội sử dụng trái phép tài sản từ 62 2009-2013 2.4 Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt 64 2.5 Hình phạt áp dụng cho tội sử dụng trái phép tài sản 65 DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang Tổng số án đã xét xử về tội sử dụng trái phép tài sản từ 63 biểu đồ 2.1 2009-2013 2.2 Các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt 7 64 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước từ khi Đảng lãnh đạo nhân dân ta giành được chính quyền thì pháp luật luôn là công cụ sắc bén để bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được. Trong hệ thống pháp luật nước ta thì pháp luật hình sự có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng để bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cũng như mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, việc nghiên cứu về lý luận và thực tiễn xét xử các tội danh cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 là rất cần thiết. Cùng với các ngành luật khác, pháp luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức và Nhà nước thông qua việc quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền sở hữu bị coi là tội phạm và quy định các mức hình phạt tương ứng. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội xâm phạm sở hữu tại Chương XIV từ Điều 133 đến Điều 145, quy định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực thi quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Tội sử dụng trái phép tài sản được quy định tại Điều 142 của Chương XIV, tội phạm này chỉ xâm phạm quyền sử dụng mà không xâm phạm quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản. Trong năm năm từ 2009-2013, Tòa án nhân dân các cấp trong cả nước chỉ đưa ra xét xử 10 vụ án và 10 bị cáo, chiếm tỷ lệ rất nhỏ 0,003% tổng số vụ 8 án và 0,002% tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử trong cả nước về tội sử dụng trái phép tài sản nhưng có một số vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về kinh tế cũng như tạo dư luận rất xấu trong xã hội, gây bất bình đối với nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước, làm giảm uy tín và ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và tác động tiêu cực đến đời sống hàng ngàn người lao động. Mặc dù các cơ quan tư pháp hình sự trong quá trình áp dụng quy định của các điều luật thuộc Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999 nhìn chung là thuận lợi nên kết quả điều tra, truy tố, xét xử nhóm tội xâm phạm sở hữu trong thời gian qua từng bước được nâng cao, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội, phục vụ nhiệm vụ bảo vệ đất nước nhưng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn còn nhiều hạn chế trong khi đó diễn biến của tình hình tội phạm nói chung cũng như các tội xâm phạm sở hữu nói riêng hết sức phức tạp và đang có xu hướng ra tăng. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội sử dụng trái phép tài sản còn gặp nhiều bất cập do nhận thức và áp dụng không thống nhất các quy định của pháp luật dẫn tới làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, để làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội sử dụng trái phép tài sản, phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và thực tiễn xét xử tội phạm này ở nước ta trong thời gian vừa qua (2009-2013) trên cơ sở đó, tìm giải pháp hoàn thiện trên phương diện lập pháp hình sự và giải pháp về mặt thực tiễn nhằm góp phần phòng, chống tội sử dụng trái phép tài sản, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, góp phần phục vụ thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa cả về chính trị, xã hội cũng như lý luận và thực tiễn. Với nhận thức trên, học viên đã quyết định chọn đề tài: "Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 9 2. Tình hình nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy các công trình, bài viết nghiên cứu riêng rẽ và độc lập về tội sử dụng trái phép tài sản quy định tại Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhiều và trong cả việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự. * Dưới góc độ thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan khác đã có văn bản hướng dẫn việc xử lý một số khía cạnh liên quan đến tội phạm này như Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBCA-BTP của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư pháp ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết thay thế văn bản hướng dẫn thi hành về nhóm tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội sử dụng trái phép tài sản nói riêng sau khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 của Bộ luật hình sự năm 1999. * Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, việc nghiên cứu tội sử dụng trái phép tài sản chưa được quan tâm nghiên cứu mà chỉ đề cập, bình luận chung trong chương tội phạm của hệ thống giáo trình dành cho hệ đại học của các cơ sở đào tạo luật học như: 1) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, do GS.TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007); 2) GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Chương XX - Các tội xâm phạm sở hữu, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập II) do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 3) TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), TS. Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh Tiến Việt và tập thể tác giả, Chương XI - Các tội xâm phạm sở hữu, Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi hành, 10 Nxb Lao động, Hà Nội, 2009; 4) TS. Nguyễn Đức Mai (chủ biên), Chương XIVCác tội xâm phạm sở hữu, Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung săm 2013, phần các tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013; 5) TS. Nguyễn Mai Bộ, Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010; 6) ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm), Tập II- "Các tội xâm phạm sở hữu", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tái bản 2010; 7) PGS.TS Phùng Thế Vắc chủ biên, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm) - Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. * Dưới góc độ đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học: tương tự, cũng chưa có công trình khoa học nào đề cập riêng đến tội sử dụng trái phép tài sản mà chỉ có luận án tiến sĩ luật học đề cập chung về nhóm tội xâm phạm sở hữu với đề tài: "Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu" của tác giả Nguyễn Ngọc Chí, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội năm 2000. * Dưới góc độ bài viết trên các tạp chí khoa học, cũng chỉ có một số bài viết đơn lẻ đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến tội sử dụng trái phép tài sản và nhóm tội xâm phạm sở hữu, chẳng hạn: 1) Tội sử dụng trái phép tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân số 5/2007 của ThS. Mai Bộ; 2) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2009 của TS. Nguyễn Ngọc Anh; v.v... Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình cho thấy, tội sử dụng trái phép tài sản chỉ là một phần trong nội dung nghiên cứu của các tác giả trong các sách, báo, giáo trình nên chưa phân tích sâu cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. Ngoài ra, có những công trình chỉ tập trung vào phần lý luận nên các tác giả chưa đưa ra các giải pháp có tính hệ thống, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội sử 11 dụng trái phép tài sản. Như vậy, dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập riêng rẽ đến tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự Việt Nam cũng như nghiên cứu thực tiễn xét xử trong cả nước. Cho nên, việc tác giả lựa chọn đề tài này rõ ràng có tính thời sự và cấp thiết. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ pháp lý hình sự, khái quát lịch sử hình thành và phát triển về tội phạm này từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay. Ngoài ra, luận văn còn phân tích thực tiễn xét xử trong phạm vi cả nước trong năm năm (2009-2013), đồng thời có so sánh với pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, qua đó nhằm giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách tương đối có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản về tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trong cả nước, từ đó rút ra những tồn tại, bất cập để đề xuất việc hoàn thiện các quy định về tội phạm này trong Bộ luật hình sự năm 1999, và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội sử dụng trái phép tài sản nói riêng ở nước ta hiện nay. 12 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu * Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu chính sách hình sự của Nhà nước về tội sử dụng trái phép tài sản, phân tích khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự, lịch sử hình thành và phát triển của tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, cũng như so sánh với pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, qua đó làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của tội sử dụng trái phép tài sản. * Về thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản trong thực tiễn xét xử trên cả nước trong năm năm (2009-2013), đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc áp dụng pháp luật và trong lập pháp hình sự, từ đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 1999 và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng. 5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học cũng như những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp xã hội học như thống kê, định lượng, định tính...để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 13 6. Những đóng góp mới của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Luận văn nghiên cứu, giải quyết một cách tương đối có hệ thống và đầy đủ về những vấn đề lý luận và thực tiễn của tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự Việt Nam và đánh giá thực tiễn xét xử trong thời gian năm năm (2009-2013) trên phạm vi cả nước, đồng thời so sánh với pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện tội phạm này trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng. Do đó, luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học, luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như góp phần phục vụ công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay. 6.2. Về mặt thực tiễn Thông qua việc phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự, luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể của các trường hợp phạm tội cụ thể trong thực tiễn xét xử, đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội sử dụng trái phép tài sản ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử trên cả nước, qua đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội sử dụng trái phép tài sản nói riêng ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: 14 Chương 1: Những vấn đề chung về tội sử dụng trái phép tài sản trong luật hình sự Vệt Nam. Chương 2: Tội sử dụng trái phép tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn xét xử. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội sử dụng trái phép tài sản. 15 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI SỬ DỤNG TRÁI PHÉP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội xâm phạm sở hữu Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 và năm 2013 đã khẳng định tại Điều 15: Nhà nước phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng [32]. Quyền sở hữu đối với tài sản là quyền quan trọng được pháp luật bảo vệ, pháp luật nước ta tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của Nhà nước, tổ chức và mọi công dân [18, tr. 271]. Theo đó, quyền sở hữu về tài sản của công dân, cơ quan, tổ chức, Nhà nước luôn luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Quyền sở hữu về tài sản theo quy định tại Điều 164 Bộ luật dân sự năm 2005 gồm ba quyền năng: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt về tài sản. Điều 182 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định quyền chiếm hữu tài sản thì đây là quyền của chủ sở hữu tài sản tự mình nắm giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình. Người không phải là chủ sở hữu tài sản cũng có quyền chiếm 16 hữu tài sản trong trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao hoặc do pháp luật quy định. Quyền sử dụng tài sản quy định tại Điều 192 Bộ luật dân sự năm 2005, đây là quyền của chủ sở hữu được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Đối với những người không phải là chủ sở hữu cũng có quyền sử dụng tài sản trong các trường hợp được chủ sở hữu chuyển giao quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định. Điều 195 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định quyền định đoạt tài sản, đây là quyền của chủ sở hữu tài sản chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác hoặc từ bỏ quyền sở hữu như bán, tặng cho, thừa kế, từ bỏ tài sản... Hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản là làm cho chủ sở hữu mất đi quyền năng chiếm hữu, quyền năng sử dụng, quyền năng định đoạt tài sản hoặc cả ba quyền năng trên. Để các hành vi xâm phạm quyền sở hữu tài sản bị coi là tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì nó phải thỏa mãn các dấu hiệu chung của tội phạm. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi xâm phạm sở hữu đều bị xử lý hình sự, việc xử lý phải trên cơ sở giáo dục, thuyết phục mọi công dân có ý thức chấp hành, nhắc nhở, cảnh cáo, xử lý hành chính, chúng ta chỉ xử lý hình sự đối với những trường hợp hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể hay gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Vì vậy, ranh giới xác định trách nhiệm hình sự với các trách nhiệm pháp lý khác (dân sự, hành chính...) được phân định rõ ràng trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, hậu quả tác hại cũng như mối quan hệ xã hội bị xâm hại, và thái độ của người thực hiện hành vi... Thực tế cho thấy các tội xâm phạm sở hữu đã gây ra những thiệt hại không nhỏ về tài sản và tính mạng, sức khỏe của công dân, ảnh hưởng đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, đơn vị cũng như đến hoạt động chung của xã hội. 17 Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu tài sản trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và năm 2013, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định tại Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu để bảo vệ các lợi ích trên, qua đó bảo đảm các quyền năng của chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tài sản được ổn định và tuân thủ các quy tắc xã hội và quy định của pháp luật. Với những hành vi vi phạm pháp luật ở mức độ cao, cần thiết phải ngăn chặn và xử lý bằng pháp luật hình sự, Bộ luật hình sự đã quy định các tội phạm thành một chương để xử lý một nhóm hành vi xâm phạm đến một nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, trong phạm vi nội dung nghiên cứu của mục này, chúng tôi chỉ nêu khái niệm và những dấu hiệu pháp lý hình sự của nhóm tội để chứng minh rằng, cùng với các khách thể khác thì quyền sở hữu về tài sản cũng là một trong những khách thể quan trọng được luật hình sự Việt Nam bảo vệ, tôn trọng và bất kỳ hành vi nào xâm phạm đến nhóm khách thể này bị xử lý theo các quy định tương ứng của Bộ luật hình sự. Chính vì vậy, từ các quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu có thể định nghĩa như sau: Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XIV Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm chế độ sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân. Các tội xâm phạm sở hữu mang đầy đủ các dấu hiệu chung của tội phạm gồm: các tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm cho xã hội, vì hành vi đó có khả năng gây ra hoặc gây ra hậu quả pháp lý cho khách thể được luật hình sự bảo vệ. Các quan hệ sở hữu được luật hình sự bảo vệ thông 18 qua việc quy định tội phạm và hình phạt đối với người thực hiện hành vi xâm phạm sở hữu vì đây là quan hệ xã hội tồn tại trong lĩnh vực tài sản. Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự, vì Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 khẳng định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" [27]. Do vậy, chỉ các hành vi xâm phạm sở hữu được quy định từ Điều 133 đến Điều 145 thuộc Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999 thì mới bị coi là tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là con người cụ thể, đạt độ tuổi luật định, cũng như có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Ngoài ra, những người này phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự trên những cơ sở chung luật định. Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi có lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và chỉ người nào có lỗi mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi phải chịu hình phạt. Các hình phạt mà người phạm tội xâm phạm sở hữu bị áp dụng là các hình phạt được quy định trong hệ thống hình phạt của Bộ luật hình sự. Các tội xâm phạm sở hữu mang đầy đủ bốn dấu hiệu pháp lý hình sự, bao gồm: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. * Khách thể của các tội xâm phạm sở hữu Khách thể của các tội xâm phạm sở hữu là quan hệ sở hữu được Bộ luật hình sự bảo vệ, đây là quan hệ giữa người với người về tài sản. Nội dung của quyền sở hữu tài sản gồm ba phân quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản. 19 Đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu chủ yếu là tài sản, những tài sản này thể hiện dưới dạng vật chất có giá trị, giá trị sử dụng và chúng là thước đo giá trị sức lao động của con người. Đối với những tài sản không có giá trị hoặc giá trị sử dụng thì không phải là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu như: tài nguyên thiên nhiên (như: rừng, khoáng sản), vật có tính năng công dụng đặc biệt (như: ma túy, vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, chất nổ, chất phóng xạ...) và những vật mà chủ sở hữu hủy bỏ hoặc từ chối quyền sở hữu (không phải là chủ sở hữu đánh rơi hoặc bỏ quên). Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu phải có chủ sở hữu cụ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Đồng thời, những tài sản này có khả năng chuyển hóa được giữa các chủ sở hữu với nhau. Ngoài ra, đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu là tài sản thể hiện bằng các loại giấy tờ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, công trái... Những tài sản được chôn cùng người chết nếu có hành vi xâm phạm thì không thuộc đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt. * Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu Mặt khách quan là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan [7, tr. 344]. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản như hành vi cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản, sử dụng trái phép tài sản, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Đây là những hành vi được quy 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan