Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Tội loạn luân trong luật hình sự việt nam​...

Tài liệu Tội loạn luân trong luật hình sự việt nam​

.PDF
80
42
71

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ DIỆU HỒNG TỘI LOẠN LUÂN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI- 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ DIỆU HỒNG TỘI LOẠN LUÂN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI- 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực khoa học, đồng thời tôi xin chịu hoàn trách nhiệm về nội dung khoa học trong luận văn. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Diệu Hồng DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu Nguyên nghĩa 1 BLHS Bộ luật hình sự 2 GS Giáo sư 3 NXB Nhà xuất bản 4 QTHL Quốc triều hình luật 5 PGS Phó giáo sư 6 TAND Toà án nhân dân 7 TNHS Trách nhiệm hình sự 8 TS Tiến sĩ 9 HN&GĐ Hôn nhân và gia đình STT MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................... 1 CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LOẠN LUÂN ......... 7 1. Khái niệm và đặc điểm của tội loạn luân trong luật hình sự Việt Nam. . .....7 1.1. Khái niệm tội loạn luân ........................................................................ 7 1.2. Đặc điểm của tội loạn luân.................................................................... 9 2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định tội loạn luân trong luật hình sự Việt Nam. ........................................................................................................ 10 3. Khái quát quy định về tội loạn luân trong lịch sử lập pháp Việt Nam. ... ...12 3.1.Thời kì phong kiến ( từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX)………………..…12 3.1.1. Thời kì nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê ( từ năm 938 đến năm 1009). ........... 13 3.1.2. Thời kì nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ ( từ năm 1009 đến năm 1407). ...... 15 3.1.3. Thời kì nhà Lê Sơ ( từ năm 1428 đến năm 1527). ............................. 19 3.1.4. Thời kì nhà Nguyễn ( từ đầu thế kỉ XIX đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858) ............................................................................ 27 3.1.5. Thời kì Pháp thuộc ( từ năm 1858 đến năm 1945) ............................. 31 3.1.6. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. ............................................. 34 a. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954. ................................................... 34 b. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975 .................................................... 36 3.1.7. Tội loạn luân quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 .................... 38 3.1.8. Tội loạn luân quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985..................... 39 KẾT LUẬN CHƯƠNG I. ....................................................................... 42 Chương II: Tội loạn luân và thực tiễn áp dụng trong BLHS 2015 ................ 44 1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội loạn luân .................................... 44 1.1. Khách thể của tội phạm. ..................................................................... 44 1.2. Mặt khách quan của tội phạm ............................................................. 45 1.3. Mặt chủ quan của tội phạm. ................................................................ 46 1.4. Chủ thể của tội phạm. ......................................................................... 46 1.5. Hình phạt ........................................................................................... 47 2. Phân biệt tội loạn luân với tư cách là tội phạm độc lập với tình tiết định khung tăng nặng “ có tình chất loạn luân” được quy định ở một số tội phạm khác trong Bộ luật hình sự Việt Nam.. ....................................................... 48 3. Thực tiễn áp dụng quy định BLHS về tội loạn luân................................. 55 KẾT LUẬN CHƯƠNG II ....................................................................... 59 CHƯƠNG III HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BLHS NĂM 2015 VỀ TỘI LOẠN LUÂN ............................................................................ 61 1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS năm 2015 về tội loạn luân……………………………………………61 2. Giải pháp hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 về tội loạn luân……63 KẾT LUẬN CHƯƠNG III ..................................................................... 69 KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................. 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 72 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới hiện nay.Kết hợp với quá trình đi lên xây dựng nhà nước pháp quyền, thì việc bảo vệ bằng pháp luật về quyền con người ngày càng được chú trọng và cần thiết. Tội phạm xâm hại về chế độ hôn nhân gia đình hiện nay đang có xu hướng gia tăng kèm theo mức độ nguy hiểm cũng tăng lên với những hành vi và thủ đoạn tinh vi hơn. Trong đó nổi cộm lên trong xã hội đang trên đà phát triển hiện nay là tội loạn luân, một trong những dạng hành vi phạm tội được coi là nguy hiểm, diễn ra trong gia đình giữa những người có quan hệ gần gũi ruột thịt. Trong quan niệm truyền thống của người Việt Nam nói riêng và phong tục của các nước phương Đông nói chung thì quan hệ máu mủ gia đình là vô cùng thiêng liêng và quan trọng. Gia đình là cái nôi của mọi sự phát triển, là cội nguồn của mọi nét đẹp văn hóa. Đối với người dân Việt Nam, nền tảng văn hóa, đạo đức đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn, thờ phụng ông bà tổ tiên, sự tôn ti trật tự giữa các thế hệ trong một gia đình đều được giữ nề nếp từ đời này qua đời khác. Tuy nhiên, trong xã hội được coi là đang có xu hướng phát triển ngày càng văn minh và tiên tiến lại vẫn tồn tại một loại tội phạm được coi là nguy hiểm, làm mất đi nét thuần phong mĩ tục vốn có trong gia đình và xã hội, không những vậy còn gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng, nó không những gây ra sự xáo trộn các mối quan hệ trong gia đình, mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội, khiến cho đất nước lạc hậu dần so với xu thế của Thế giới, ảnh hưởng đến sự phát triển giống nòi- là hạt nhân phát triển của một đất nước. Trong lịch sử Việt Nam, tội loạn luân được nhắc đến trong nhóm tội 1 “thập ác” được quy định dưới triều nhà Lý, Trần, Hồ và ngày càng được quy định rõ ràng hơn trong pháp luật hiện nay. Hiện nay mối quan hệ gia đình, quan hệ họ hàng đang ngày càng bị xâm phạm với mức độ ngày một trầm trọng hơn bởi các loại tội phạm trong đó nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình chiếm phần lớn.Trong các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình thì tội loạn luân là một trong những tội nguy hiểm hơn cả. Nó xâm phạm nghiêm trọng đến không chỉ mối quan hệ trong gia đình, họ hàng mà còn là đạo đức, truyền thống, phong tục, tập quán của người Việt. Liên quan đến vấn đề về tội loạn luân đã có nhiều học giả, luật gia nghiên cứu và có nhiều sách báo dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, đề tài “Tội loạn luân trong luật hình sự Việt Nam” là một đề tài có tính nghiên cứu bổ sung mới, đáp ứng thực tiễn đánh giá tâm lý cũng như làm rõ hơn tình hình các tội xâm phạm về hôn nhân gia đình, vi phạm truyền thống văn hóa dân tộc. Do đó, việc nghiên cứu đề tài này là hết sức cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài. Về mặt pháp lý đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm đến chế độ hôn nhân và gia đình. Tội loạn luân cũng mới chỉ được nghiên cứu với tư cách là một tôi thuộc chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình mà chưa được nghiên cứu một cách độc lập. Quy định tại thông tư liên tịch Hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình" của Bộ luật Hình sự năm 1999 Số: 01/2001/TTLT/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC.. Một số bài viết, công trình về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và tội loạn luân như: 1, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự ( Phần các tội phạm)-Tập 3 –Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; xâm phạm chế độ hôn nhân 2 và gia đình của tác giả Đinh Văn Quế, NXB thành phố Hồ Chí Minh, năm 2002; 2, Bình luận khoa học bộ luật Hình sự : Phần các tội phạm- Tập 3, Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình : Bình luận chuyên sâu của tác giả Đinh Văn Quế, NXB thành phố Hồ Chí Minh, năm 2005 3, Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam đăng trên tạp chí luật học số 6/ 1998 của tác giả Dương Tuyết Miên; 4, Bàn thêm về tội loạn luân đăng trên tạp chí luật học số 2/2001 của tác giả Nguyễn Tuyết Mai. 5, Luận văn thạc sĩ “Tội loạn luân trong luật hình sự Việt Nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn”-Trịnh Thị Oanh năm bảo vệ 2010 tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; 6, Bàn về tội loạn luân và các trường hợp phạm tội có tính chất loạn luân trong luật hình sự Việt Nam, đăng trên tạp chí VNU Journal of Science: Legal Studies, xuất bản ngày 1/12/2015 của tác giả Nguyễn Thị Lan. 7, Những quy định của bộ luật hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và vấn đề tiếp tục hoàn thiện. đăng trên tạp chí VNU Journal of Science: Legal Studies, xuất bản ngày 24/8/2016 của tác giả Nguyễn Thị Lan. Một số bài báo, tạp chí nước ngoài như “Việc cấm loạn luân và những nguồn gốc của nó, Année sociologiques, vol. I, 1897”. “Di truyền, thân tộc và việc cấm loạn luân trong A.Ducros, M.Panoff, La Frontiere des sexes, PUF, 1995”. “R.Needham, Vấn đề thân tộc, Seuil, 1977”..... Song bên cạnh đó,những kết quả nghiên cứu trên vẫn chưa nhiều và cũng chưa đánh giá được hết các khía cạnh của loại tội phạm này với các loại tộikhác trong tổng thể các tội về hôn nhân và gia đình. Mà trong xã hội hiện 3 nay, loại tội phạm này xảy ra còn kèm theo nhiều diễn biến phức tạp. Do đó việc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về lý luận và thực tiễn đối với vấn đề này trong sự so sánh đánh giá giữa pháp luật hình sự qua các thời kì đến nay không chỉ đóng góp đáng kể cho việc khai thác và nghiên cứu truyền thống pháp luật của nhà nước Việt Nam cổ xưa mà còn có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn. 3.1. Mục đích nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào cũng đều trả lời cho câu hỏi: việc thực hiện công trình nghiên cứu nhằm vào cái gì? Đây cũng chính là ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu. Luận văn có mục đích làm sáng tỏ về mặt lý luận những yếu tố cấu thành của tội loạn luân và quá trình hình thành, phát triển của nó trong Luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở thực tiễn xử lý tội phạm này mà đưa ra được những giải pháp có hiệu quả để đấu tranh ngăn chặn tội phạm về hôn nhân và gia đình. Việc nghiên cứu để thấy được những giá trị ưu việt từ việc xây dựng luật để từ đó tìm ra kế thừa những tinh hoa, vận dụng vào việc hoàn thiện quy định luật hình sự Việt Nam còn hạn chế, khiến các quy định luật hình sự vừa thể hiện được tính nhân đạo của nhà nước mà vẫn tạo được sự răn đe với người phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để đạt được mục đích trên, tác giả đặt ra cho mình nhiệm vụ: Về mặt lý luân: Từ việc tìm hiểu quy định về tội loạn luân qua các thời kỳ lịch sử trong pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn đánh giá lịch sử các quy phạm pháp luật hình sự về tội loạn luân và phải phân tích, đánh giá, làm rõ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội loạn luân được quy định tại Điều 184 Bộ luật hình sự năm 2015. 4 Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng vi phạm tội loạn luân từ năm 2010 đến nay để nhìn nhận đúng về thực trạng tội phạm này hiện nay từ đó đưa ra được phương hướng hoàn thiện pháp luật và phương hướng đấu tranh với tội phạm này. Đưa ra được những đề xuất hợp lý để đấu tranh có hiệu quả với tội loạn luân. 3.3. Phạm vi nghiên cứu. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội loạn luân qua các thời kỳ lịch sử, từ thời phong kiến cho đến các quy định về tội loạn luân trong quy định của bộ luật hình sự 2015. Trên cơ sở phân tích các quy định trên, luận văn tập trung làm rõ những điểm kế thừa và đưa ra những định hướng tiếp tục hoàn hiện BLHS trong tương lai. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu. Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời những chính sách của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, một số phương pháp nghiên cứu cụ thể được luận văn sử dụng là: phương pháp hệ thống, phương pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn. Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về Tội loạn luân trong luật hình sự Việt Nam, giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn thể hiện ở các nội dung cơ bản sau: Sơ lược lịch sử những quy định của pháp luật về tội loạn luân trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung. Từ đó rút ra được một số đánh giá nhậnxét Nghiên cứu các quy định về tội loạn luân trong luật hình sự Việt Nam: 5 sự ra đời, hình thành và phát triển các quy định của luật về tội phạm này qua từng giai đoạn để từ đó tìm ra các giá trị lập pháp trong các quy định về tội này. So sánh, nghiên cứu tội loạn luân về chủ thể, khách thể, hành vi, biểu hiện so với các loại tội phạm khác về chế định hôn nhân gia đình như: dâmô, hiếp dâm, cưỡng dâm.... có tính chất loạn luân. Qua đó, làm rõ từng loạitội phạm cụ thể tránh để lọt tội phạm. 6. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận về tội loạn luân. Chương II: Tội loạn luân và thực tiễn áp dụng trong bộ luật hình sự 2015. Chương III: Hoàn thiện pháp luật về một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS về tội loạn luân. 6 CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LOẠN LUÂN. 1. Khái niệm và đặc điểm của tội loạn luân trong luật hình sự Việt Nam. 1.1. Khái niệm tội loạn luân. Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (viết tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015) được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 và được sửa đổi bổ sung ngày 20 tháng 6 năm 2017 với rất nhiều điểm mới, trong đó đáng chú ý là những sửa đổi, bổ sung về khái niệm tội phạm. Đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất của luật hình sự bởi lẽ, nội dung của khái niệm tội phạm “thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự”[33, tr157]. Đồng thời,nó còn “được xem như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác”[16, tr9 ]. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về những điểm mới cũng như những nội dung trong khái niệm tội phạm không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta. Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”[6, Điều 8]. Căn cứ vào các quy 7 định của pháp luật về tội phạm và một số quan điểm về tội phạm. GS.TSKH Lê Cảm đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm tội phạm như sau: “ tội phạm và hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự ( tức là hành vi bị pháp luật hình sự cấm ), do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi ( cố ý hoặc vô ý).” [9, Tr297]. Định nghĩa khoa học của khái niệm tội phạm nêu trên là định nghĩa có tính tổng thể phản ánh được đầy đủ nội hàm của khái niệm tội phạm về nội dung và hình thức. Khái niệm này đã thể hiện được đầy đủ cả ba bình diện tương ứng với năm đặc điểm của tội phạm là: - Bình diện khách quan ( nội dung): tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. - Bình diện pháp lý ( hình thức): tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự. - Bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi. Hành vi giao cấu với người có cùng dòng máu về trực hệ, anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ, anh chị em cùng mẹ khác cha là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nó được quy định trong Bộ luật hình sự nên nó là hành vi trái pháp luật hình sự. Nó là tội phạm khi người thực hiện hành vi này là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có lỗi. Tội loạn luân được quy định tại Điều 184 Bộ luật hình sự 2015. Theo đó, ta rút ra khái niệm của tội loạn luân theo quy định của Bộ luật hình sự như sau: “ tội loạn luân là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực 8 hiện một cách cố ý, xậm phạm đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm đến nền văn hóa, xâm phạm đến những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” 1.2. Đặc điểm của tội loạn luân. Đặc điểm của tội loạn luân đó là hành vi giao cấu trong tội loạn luân phải được sự đồng ý của cả hai người, vì vậy bao giờ người phạm tội loạn luân cũng phải là cả hai. Nếu một trong hai người bị ép buộc hoặc bị cưỡng bức thì người có hành vi ép buộc, cưỡng bức không phạm tội loạn luận mà tùy từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi ép buộc, cưỡng bức bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm hoặc tội cưỡng dâm. Người phạm tội loạn luân phải là người đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, nếu một trong hai người dưới 16 tuổi thì người kia phạm tội khác và người dưới 16 tuổi trở thành người bị hại. Cụ thể: - Người đã thành niên (đủ 18 tuổi) thực hiện hành vi loạn luân với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hành vi loạn luân sẽ bị truy cứu TNHSvề tội giao cấu với trẻ em (quy định tại Điều 115 BLHS) và bị coi là tình tiết tăng nặng định khung của tội giao cấu với trẻ em - Có tính chất loạn luân (điểm c khoản 2). - Người từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện hành vi loạn luân với người dưới 13 tuổi thì không bị trí cứu trách nhiệm hình sự về tội loạn luân mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em (quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự). Người phạm tội loạn luân xâm phạm đến quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, đó là sự phát triển bình thường của giống nòi, xâm phạm đến thuần phong mỹ tục, truyền thống đạo đức, sự yên ổn hạnh phúc trong gia 9 đình người Việt Nam. Ngoài ra, theo các tài liệu về y học thì quan hệ huyết thống càng gần thì đứa con sinh ra có tỉ lệ dị tật càng cao. Người thực hiện hành vi loạn luân là do cố ý, tức là người phạm tội biết rõ người mà mình giao cấu là người có dòng máu trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc anh chị em cùng mẹ khác cha nhưng vẫn giao cấu với nhau. Tội loạn luân bị coi là tội phạm nghiêm trọng, với mức hình phạt là phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. 2. Cơ sở và ý nghĩa của việc quy định tội loạn luân trong luật hình sự Việt Nam. Tại Điều 1 của Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 có quy định về nhiệm vụ của Bộ luật hình sự như sau: “ Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Bộ luật này quy định về tội phạm và hình phạt.”[6]. Như vậy tội loạn luân được quy định trong Bộ luật hình sự đã góp phần nhỏ làm nên pháp luật hình sự và góp phần vào công cuộc bảo vệ đất nước, phòng chống tội phạm. Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhà nước ta rất đa dạng, phức tạp, xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau. Quy định rõ từng loại tội phạm là sự cần thiết, vì: - Để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng. - Để xác định tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, từ đó quy 10 định hình phạt và áp dụng hình phạt. - Để áp dụng biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Dưới góc độ xã hội, hành vi loạn luân đã xâm hại đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của các thế hệ cũng như đời sống hạnh phúc gia đình và thuần phong mĩ tục. Đó là hành vi bị xã hội lên án, chính bởi vậy mà đã được quy định là một tội trong Bộ luật hình sự. Không chỉ có Bộ luật hình sự mới đề cập đến hành vi này mà trong Luật hôn nhân gia đình năm 2015 cũng quy định về các trường hợp cấm kết hôn trong đó có trường hợp cấm kết hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời. Mối quan hệ trong gia đình, trong dòng họ dù ở bất kì thời kỳ lịch sử nào vẫn luôn là mối quan hệ cơ bản quan trọng trong xã hội Việt Nam bởi gia đình là hạt nhân của xã hội, là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Dưới góc độ văn hóa, hành vi loạn luâ là hành vi đáng lên án vì nó không chỉ xâm phạm đến sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của con cái và đời sống hạnh phúc gia đình mà nó còn xâm phạm đến thuần phong mĩ tục, truyền thống đạo đức của ông cha ta đã xây dựng từ ngàn đời. Nó là hành vi thiếu văn hóa một cách nghiêm trọng, một hành vi đồi bại, suy đồi đạo đức. Việc quy định tội loạn luân góp một phần không nhỏ vào công cuộc giáo dục văn hóa ở Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay. Dưới góc độ nhân văn, con người ta sinh ra không phải đã trở thành con người ngay mà chỉ trở thành con người trong quá trình giáo dục. Con người từ khi sinh ra đã được xã hội hóa, đó là quá trình con người học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm thực tiễn, những yếu tố văn hóa- xã hội của môi trường, trau dồi nhân cách, những chuẩn mực của xã hội. Hệ thống pháp luật như một tấm khiên nhằm ngăn chặn những hành vi trái chuẩn mực chung của đạo đức, của xã hội. Nó còn có vai trò giáo dục, nhắc nhở con người sống tốt, hợp đạo 11 lý đó là nền tảng của tính nhân văn. Hành vi loạn luân đã được hình sự hóa, là hành vi đáng lên án. Nó được quy định với hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục để mỗi người tự điều chỉnh hành vi của mình cho hợp đạo lý, phù hợp với pháp luật. Nói rộng hơn, nó còn giúp cho mỗi cá nhân tự giáo dục bản thân trở thành người có đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh biết coi trọng cuộc sống gia đình, biết yêu thương, quan tâm và chăm sóc lẫn nhau, cùng nhau xây dựng một xã hội, một cuộc sống giàu tính nhân văn. 3. Khái quát quy định về tội loạn luân. 3.1. Thời kì phong kiến (từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX). Pháp luật Việt Nam ra đời sớm cùng với sự ra đời của Nhà nước. Từ giai đoạn đầu, trải qua hơn 1.000 năm Bắc thuộc cho đến thời kỳ đầu của nền độc lập tự chủ(triều Ngô, Đinh, Tiền Lê) chúng ta chưa có luật thành văn. Luật trong suốt thời gian đó chỉ là luật tục – đó là phong tục, tập quán, quy phạm đạo đức… được coi như pháp luật. Khi chế độ phong kiến VN bắt đầu phát triển ổn định, yêu cầu cần có một bộ luật thành văn phù hợp càng trở lên cấp thiết. Năm 1042, Lý Thái Tông sai Trung thư sảnh – một cơ quan phụ trách việc sửa định luật lệ, chia môn loại, biên ra điều khoản làm bộ Hình thư. Đây là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta, được soạn thảo dựa trên luật tục, tập quán của các thời trước, mặt khác có sự tham khảo Đường luật (Trung Quốc). Gọi là Hình thư nhưng không chỉ quy định về hình sự mà còn bao trùm các lĩnh vực khác, do kỹ thuật lập pháp cổ các quan hệ xã hội được bảo vệ và gắn liền với quy phạm hình sự nên luật thời đó gọi là Hình pháp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết đây là tập luật lệ có tính chất pháp điển, bao gồm 3 quyển . Tiếc rằng bộ Hình thư đến nay không còn, do bị quân Minh cướp mất trong khi xâm lược VN. Các triều đại kế tiếp cũng ban hành nhiều bộ luật như: đời Trần có Hình 12 thư, Quốc triều thống chế, Quốc triều thường lễ (1230), Hoàng triều ngọc điệp (1267), Hoàng triều đại điển (1341), Hình luật thư (1341). Đời Hồ có Đại Ngu quan chế hình luật (1401). Đời Hậu Lê có Quốc triều hình luật (1483), Luật thư (1440-42), Quốc triều luật lệnh (1442), Lê triều quan chế (1471), Thiên Nam dư hạ tập (1483), Hồng Đức thiện chính thư (1470-97), Quốc triều điều luật (1777), Khánh tụng điều lệ (1777). Đời Nguyễn có: Hoàng triều luật lệ (1815)…. Trong giai đoạn thời kì phong kiến, pháp luật Việt Nam có nhiều chuyển biến qua từng thời kì. 3.1.1. Thời kì nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê ( từ năm 938 đến năm 1009). Năm 938, sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đem lại nền độc lập, tự chủ cho đất nước. Ông cho định đô ở Cổ Loa, phục hồi, phát triển nền kinh tế, xã hội và thiết lập các thiết chế chính trị, pháp luật để cai trị đất nước. Theo Lê Văn Hưu nói: “ tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đến, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước Việt ta,, ngõ hầu đã nối lại được.”[11, Tr54]. Ông chính là người đã đưa đất nước mới thoát khỏi hơn 1000 năm Bắc thuộc, mở đầu cho thời kì quốc gia độc lập thống nhất. Giai đoạn này, vì mới thoát khỏi ách đô hộ nên nhà nước vẫn mang đậm màu sắc tù trưởng quân sự. Cũng bởi mới bước đầu xác lập, xây dựng chế độ phong kiến, nên các triều đại lúc này vào thế kỷ X còn nhiều điểm mang tính sơ khai, chưa được hoàn chỉnh. Tiếng là đã chế định triều nghi từ thời nhà Ngô với hai ban văn võ, nhưng trong lĩnh vực hình pháp thì luật pháp thành văn chưa xuất hiện, triều đình xét xử vẫn dùng luật tục trong dân gian là 13 chủ yếu [2]. Những yếu tố này chi phối, làm ảnh hưởng lớn đến luật pháp. Sử thần Ngô Sĩ Liên cũng nói về việc tổ chức chính quyền của nhà Ngô như sau: “tiền Ngô nổi lên không chỉ có công chiến thắng mà thôi,việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương. Nhưng hưởng nước không được lâu, chưa thấy hiệu quả trị bình, đáng tiếc thay”[11,Tr54]. Đến thời kì nhà Đinh, do chịu ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc loạn, không tuân theo kỉ cương, phép tắc của luật lệ. Giai đoạn này nước có nền tự chủ chưa được bao lâu, loạn 12 sứ quân vừa được vãn hồi, ắt trong nhân gian vẫn còn nhiều nơi này, nơi khác có mầm mống phản loạn, chứng thực về sau có nhiều vụ như ngay con rể vua là Ngô Nhật Khánh làm phản, hay Chi hậu nội nhân Đỗ Thích ám sát vua… mới thấy cái mầm phản loạn còn nhiều tới mức nào. Trong khi đó, quan chuyên về võ phần nhiều, thi cử chọn người tài chưa có, việc chế định luật pháp bởi thế cũng chưa thể thực hiện [2]. Do đó vua dùng biện pháp hình phạt nghiêm ngặt để trừng trị. Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:Vua [Đinh Tiên Hoàng] muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn. Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm” [11,Tr 59]. Đến thời kì nhà tiền Lê thì chính quyền trung ương thời Tiền Lê được giữ nguyên như thời Đinh. Như vậy thời kì này, pháp luật được ghi lại rất ít, chúng đã bị quân xâm lược nhà Minh cướp mất, đến nay không còn để lại gì nên việc nghiên cứu rất khó khăn. Pháp luật trong thời kì này được phản ánh mờ nhạt trong Đại Việt sử kí toàn thư. Từ những tư liệu ít ỏi, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét đối với pháp luật thời kì này như sau: Triều đình chủ yếu dùng uy lực để răn dạy và chế ngự nhân dân, nhằm củng cố quyền lực trung ương. Các biện pháp 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan